Sunday, April 6, 2008

Binh Chủng Nhảy Dù 20 Năm Chiến Sự

Nhật tu 1/09/2007

Mùa Hè Đỏ Lửa : Mặt trận Quảng Trị

Lực lượng địch:
Để tấn chiếm Quảng Trị, mặt trận B5 CSBV đã tung ra một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn gồm có:

* Sư đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3 Trung đoàn 66, 24, 29 với sự yểm trợ của Trung đoàn 38 pháo, 4 Trung đoàn phòng không 230, 232, 241 và 280, 2 Tiểu đoàn Hỏa Tiển, một Trung đoàn 202 chiến xa , và một Tiểu đoàn Công Binh tấn công vào mặt phía Tây Quảng Trị.
* Sư đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và Hoàng Minh Thi làm chính Ủy gồm 3 Trung đoàn 103, 88 và 57 được tăng cường hai Trung đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu đoàn 15 biệt lập, Hai Trung đoàn Pháo 164 và 84, một Trung đoàn phòng không, hai Trung đoàn chiến xa 203 và 204, hai Tiểu đoàn Công Binh, một Tiểu đoàn đặc công và 3 Trung đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.
* Hai Tiểu đoàn Đặc Công 31 & 25 phối hợp với Tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc Công Hải Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn công vào mặt phía Đông Cửa Việt, Gio Linh và Triệu Phong.
* Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 320B và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới Lào Việt.
* SĐ324B do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3 Trung Đoàn 6, Trung Đoàn 803 và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên, di chuyển vào thung lũng Ashau áp lực mạnh trên thành phố Huế.
* 2 Trung Ðoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Ðà Nẵng.

Lực lượng bạn:
Lực lượng VNCH có các đơn vị sau đây:

* SÐ3BB đóng tại căn cứ Ái Tử, do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai làm Tư Lịnh.
* Trung Đoàn 2 đóng tại căn cứ Tân Lâm, A4 Cồn Thiện, Fuller C2 và C3.
* Trung Đoàn 56 đóng tại căn cứ Cam Lộ, Khe Gió và Carrol. (hay Tân Lâm là căn cứ hỏa lực lớn nhất tại vùng giới tuyến).
* Trung Đoàn 57 đóng tại Căn cứ C1, A1, A2 và A3.
* Thiết Đoàn 11 Thiết Kỵ đóng tại Sharon.
* LĐ147/TQLC đóng tại Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, Núi Bá Hộ, Holcomb và Sarge.
* LĐ258/TQLC đóng tại căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne và Barbara.
* Liên Ðoàn 1 BÐQ gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77.
* Liên Ðoàn 4, 5 BÐQ tăng cường
* Trung Ðoàn 4/SĐ2BB.
* Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh, Thiết đoàn 17 (M113) và Thiết đoàn 20 (M48)
* Tiểu Đoàn 24 Địa Phương Quân + Nghĩa Quân
* 8 Tiểu Đoàn Pháo binh
* SÐ TQLC: gồm 3 Lữ Đoàn do Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân làm Tư Lệnh
* SÐND với 3 Lữ Ðoàn do Trung Tướng Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh.

Lịch sử Tỉnh Quảng Trị và Cổ Thành.

Tỉnh Quảng Trị phía Bắc giáp Quảng Bình, phía Đông giáp Đông Hải, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây là dãy Trường Sơn và nước Lào. Diện tích khoảng 4700 km2. Tỉnh lỵ Quảng Trị cách thành phố Huế 55 km (34 miles) và cách Sài Gòn 1227 km (767 miles) về hướng bắc.

Phía Đông Quảng Trị là đồng bằng hẹp, phía Tây là rừng núi thuộc Trường Sơn, chiếm gần hai phần ba diện tích tỉnh. Ba sông chính của tỉnh là Bến Hải, Cam Lộ và Sông Thạch Hàn. Sông Bến Hải phát nguồn từ dãy Trường Sơn ra đến biển ở cửa Tùng, dài 75 km (47 miles). Sông Thạch Hàn (còn gọi là song Quảng Trị) chảy từ quận Hương Hóa và quận Cam Lộ, rồi đổ ra cửa Việt. Sông Cam Lộ (còn gọi là sông Bồ Điền) là con sông đào nối sông Bến Hải với sông Thạch Hãn, chảy qua hai quận Hương Hóa và Cam Lộ. Ngoài ra tỉnh còn có một số dòng sông nhỏ như sông Mỹ Chánh, sông Nhung... Bờ biển Quảng Trị dài 66 km (41 miles), ngoại trừ vùng cửa Tùng lởm chởm đá, suốt bờ biển đều bằng phẳng và có nhiều cát, nên không lập được các hải cảng.

Đất Quảng Trị xưa đã là đất Lập Quốc của Việt Nam, một phần của bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ liền dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (bây giờ là Quảng Bình, Quảng Trị).

Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý làm sính lể để cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1307, vua Trần Nhân Tông đổi Châu Ô làm Châu Thuận, Châu Lý làm Châu Hóa. Châu Thuận gồm đất Phong Điền, Triệu Phong, Hải Lăng Quảng Trị ngày nay.

Tháng mười năm Mậu Ngọ (1558), chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn đất Thuận Hóa, lập dình ở Ái Tử thuộc phủ Triệu Phong. Năm 1804. vua Gia Long đặt lại tên là dinh Quảng Trị. Tên Quảng Trị có từ đó. Năm 1831, Minh Mạng đặt làm trấn, sau đổi làm tỉnh. Đến đời vua Tự Đức cải làm đạo, nhưng lại đổi thành tỉnh vào năm 1876.

Trước năm 1975, Quảng Trị có các quận như Gio Linh, Trung Lương, Hương Hóa, Hải Lăng, Cam Lộ, Mai Lĩnh và Triệu Phong.

Hơn hai thế kỷ trước, Cổ Thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được xây cất từ đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Chu vi tường thành gần 2.000 m, cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian như mủ cây Ô-Dước. Thành trổ bốn cửa chính Đông Tây Nam Bắc. Sau chiến dịch mùa "Hè đỏ lửa" 1972 toàn bộ Cổ Thành Quảng Trị gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn


Phóng đồ mặt trận Quảng Trị (do Trần Đỗ Cẩm vẽ)

Ðể bảo vệ khu vực Quảng Trị. Quân Lực VNCH phối trí các đơn vị như sau: SÐ3BB tân lập trách nhiệm bảo vệ Quảng Trị. Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bản doanh Sư Ðoàn đặt tại Ái Tử. Trung Ðoàn 2, một Trung Đoàn cũ của SĐ1BB, đóng tại các căn cứ A4 hay là Cồn Thiện, Fuller, C2 và C3. Trung Ðoàn 56 đóng tại các căn cứ Hỏa Lực Cam Lộ, Khe Gió, và Tân Lâm (Carroll). Trung Ðoàn 57 đóng tại CCHL C1 (Gio Linh), A1, A2 và A3 . Ngoài ra SÐ3BB còn được tăng phái 2 Lữ Ðoàn TQLC. Lữ Ðoàn 147 TQLC đóng ở CCHL Mai Lộc, núi Bá Hộ, Sarge, Holcomb. Lữ Ðoàn 258 đóng tại Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara . Hai Lữ Ðoàn TQLC có nhiệm vụ trấn giữ mặt phía Tây của Quảng Trị.

Sư đoàn 3 bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971, có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh, quân dịch và các đơn vị Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân Vùng 1 chiến thuật. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng.

Diễn Tiến:
Khởi động chiến dịch tại Quân Khu 1 VNCH, Tướng CSBV Võ Nguyên Giáp xua 45.000 quân vượt qua sông Bến Hải với hằng trăm chiến xa, hằng trăm đại pháo và một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn bộ binh tổng tấn công lấn chiếm tỉnh Quảng Trị, Ải địa đầu cực Bắc VNCH. Ðồng thời tung SÐ324B cùng 2 Trung Ðoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Ðà Nẵng.

Ngày 30/3/1972 đúng 12 giờ trưa,lợi dụng cơ hội thay đổi vùng trách nhiệm của các Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57 thuộc SĐ3BB. Bô đội CSBV bắt đầu pháo kích dữ dội vào các căn cứ trong vùng giới tuyến Carol, Mai Lộc, Sarge, núi Bá Hộ, Tân Lâm, Cồn Thiên, Ðông Hà và Quảng Trị. Pháo binh cộng sản, với các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly tầm xa 27.5 km, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và 56/SÐ3BB, đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhiều vị trí phòng thủ bị bỏ ngỏ, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh. Sau đó, Cộng quân huy động các đơn vị chủ lực của 2 SÐ304 và 308 cùng 3 Trung Ðoàn biệt lập của B5, một Trung Đoàn Đặc Công và 2 Trung Đoàn Chiến Xa 203 và 202 vượt khu Phi Quân Sư chia thành 4 mũi tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của các đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa đang trấn đóng các căn cứ tại phía Tây và Bắc Quảng Trị.

Các mũi tấn công đầu tiên nhắm vào các căn cứ của Trung Đoàn 2/3BB là Fuller và Cồn Thiên A4, hai mũi khác nhắm vào Trung Đoàn 57 tại các Căn cứ A1 và A2. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB và TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị pháo kích nặng nề và liên tục, vì thế không yểm trợ được cho quân bạn. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đã không thể hoạt đông hữu hiệu để yểm trợ đươc cho quân bạn.

Hỏa lực pháo binh CSBV đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam.

Đến 6 giờ chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự phòng thủ bị phá hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch quân tập trung tấn công biển người tràn ngập căn cứ Sarge. Đến 4 giờ sáng hôm sau ngày 1/4/1972, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4 gom về tập trung tại căn cứ Mai Lộc. Đây là 2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công.

Ngày 1/4/72, chiến trường càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị tại căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc Trung Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đình, gây cản trở việc điều quân và lưu thông trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản để điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH.

Các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo nặng, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, vì thời tiết xấu nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SÐ3BB trấn giữ, bị tấn chiếm. Trước áp lực quá mạnh của địch, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực để gom quân và thiết lập hệ thống phòng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến. Vào lúc 9 giờ sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà theo quốc lộ 1. Một lực lượng chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, dọc theo bờ biển tiến xuống hướng Cửa Việt. Tình hình căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh tử thủ Đông Hà "bằng mọi giá". Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Nhờ thời tiết tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa không SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông Hà. Để đề phòng chiến xa địch vượt qua cầu Đông Hà, vào 16 giờ 30 chiều cùng ngày, chiếc cầu này được giật xập, để ngăn cản kế hoạch của CSBV đưa bộ binh và chiến xa tiến xuống phía Nam.

Ngày 2/4/1972 BTL/SÐTQLC và Lữ Ðoàn 369 được không vận ra Huế để thiết lập tuyến phòng thủ phía Bắc Sông Mỹ Chánh. TÐ7 TQLC được lệnh trấn giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh.

Trong ngày nầy, Cộng Sản cắt đứt QL9 từ Ðông Hà đến Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TÐ8TQLC, bị SÐ304 tấn công tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya.

Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội cộng sản BắcViệt, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới, tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm, khiến cho các cấp chỉ huy của SÐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.

Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn, Cộng quân vẫn tiếp tục pháo kích dữ dội vào căn cứ nhưng không có quân tiếp viện. Đúng 14 giờ 30 chiều, Trung Tá Phạm Văn Ðính Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 56/3BB , đã đầu hàng Cộng Sản cùng với 1,500 binh sĩ VNCH bị quân CS bắt giữ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội TQLC, còn lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh QĐ1 và SĐ3/BB. Biến cố nầy xảy ra trong ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ vùng giới tuyến.

Sau khi căn cứ hỏa lực Carroll thất thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC trở thành tuyến đầu, đã liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lịnh tái phối trí, pháo đội 105 ly TQLC tại đây sau khi bắn hết đạn, đã được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10 giờ tối, BCH/LĐ và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau, LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về Huế để bổ sung và tái trang bị.

Bộ Tư Lệnh SÐ3BB di chuyển Bộ Chỉ Huy tiền phương tại căn cứ Ái Tử bị pháo kích nặng nề, để lui về Quảng Trị. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà và LÐ258 với các Tiểu Ðoàn 1, 3 và 6 /TQLC được tăng cường thêm TÐ3PB/TQLC vẫn duy trì tại các căn cứ Ái Tử, căn cứ Phượng Hoàng và Đông Hà. TÐ7/TQLC đang trấn ngự tại QL1 được điều động ra tăng cường phòng thủ căn cứ Ái Tử. (như vậy là bỏ ngỏ QL1 từ Mỹ Chánh tới Cam Lộ)

Tính đến sáng ngày 3/4/1972, sau 4 ngày tấn công của quân CSBV, 11 căn cứ hỏa lực của QLVNCH tại giới tuyến đã thất thủ liên tiếp, mất đi 53 khẩu trọng pháo đủ loại làm cho Pháo Binh VNCH bị suy yếu, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị.

Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.

Các sư đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công vào Thị xã Quảng Trị. Vì Cầu Ðông Hà bị giật sập, nên Cộng quân dùng cầu Cam Lộ để vượt sông. Họ chia quân ra làm 2 cánh: một cánh quân đi dọc theo QL9 tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam . Một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xã Quảng Trị từ hướng Tây.

Ngày 4/4/1972 sau khi Lữ Đoàn 147/TQLC rút lui về Huế để chỉnh trang, như vậy về phía tây, chỉ còn có 1TÐ/BÐQ, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố.

Ngày 6/4/1972 lực lượng CS từ Ba-Lòng phía Nam sông Thạch Hãn tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do một đơn vị thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ. Căn cứ Anne được lịnh lui binh rút về Cam Lộ.

Ngày 8/4/1972, LÐ258 điều động TÐ3TQLC trấn đóng căn cứ Ái Tử thay thế TÐ6TQLC đến trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng thay thế cho một TÐ/BÐQ.

Sáng ngày 9/4/1972 với chiến thuật tiền pháo hậu xung, sáng sớm hai Trung Ðoàn cộng quân có chiến xa T54 yểm trợ tấn công căn cứ Phượng Hoàng. Pháo binh VNCH yểm trợ đúng lúc, Bộ Ðội Cộng Sản chạy tán loạn,một số chiến xa cán phải mìn bị nổ tung. Phi cơ Skyraider A1 can thiệp phá huỷ thêm nhiều chiến xa địch.

Hai Ðại Ðội/TÐ1TQLC cùng 1 chi đoàn chiến xa M48 và 1 chi đoàn Thiết Vận Xa M113 từ Ái Tử đến trợ chiến phá tan cuộc tấn công của địch. 400 xác cộng quân bỏ lại trận địa, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỹ oanh kích, bãi mìn cùng pháo binh. 2 chiếc bị bắt sống. Trước tình hình nghiêm trọng, Bộ TTM quyết định tăng cường Liên Ðoàn 4 và 5 BÐQ cho Quân Ðoàn I.

Mặt trận Quảng Trị 1972

Ngày 13/4/1972 Lữ Ðoàn 258TQLC được điều động giữ tuyến phòng thủ từ Ái Tử đến Phượng Hoàng. Từ Ái Tử lên mạn Bắc tới QL1, Ðông Hà là vùng trách nhiệm của LÐ5BÐQ và Thiết Ðoàn 17 Kỵ Binh. Từ Cam Lộ trở về dọc theo QL9 là tuyến án ngữ của LĐ4BÐQ và Thiết Ðoàn 20 Kỵ Binh. Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Liên Đoàn 1/BĐQ phòng thủ thị xã Quảng Trị, lập phòng tuyến tại bờ Nam sông Thạch Hãn.

Ngày 14/4/1972 với sự yểm trợ hỏa lực của Mỹ, sự chiến thắng của LÐ/TQLC tại Pedro và sự tăng cường lực lượng của BÐQ, Tướng Hoàng Xuân Lãm đã mở cuộc hành quân Quang Trung 729 để tái chiếm vùng lãnh thổ bị mất về tay CS: Trung Ðoàn 57BB phòng giữ tuyến phía Bắc, trong khi các đơn vị BÐQ, TQLC và Thiết Giáp chỉa mũi dùi tấn công vào mặt phía Tây của Tỉnh Quảng Trị.

Chiến cuộc bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch Công quân đã chống trả và pháo kích nặng nề vào các đơn vị hành quân. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LÐ5 BÐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa, tuy nhiên các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững đựợc các vị trí trách nhiệm. Do vì việc tổ chức phối hợp không đồng bộ và pháo trận cường tập của đối phương khiến cho cuộc hành quân không hữu hiệu và còn làm suy yếu tiềm lực phòng thủ sẵn có.

Ngày 18/4/1972 thất bại trong trận tấn công căn cứ Phượng hoàng, Cộng Sản Bắc Việt đã tung thêm quân áp lực nặng căn cứ này và bắt đầu phản kích lại.

Ngày 23/4/1972 bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Cộng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn.Trong lúc đó khắp các nẻo đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm, bởi cảnh pháo kích bừa bãi của cộng sản. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.

Ngày 24/4/1972 Lữ đoàn 147 TQLC với 2 TĐ4 và 8/TQLC và TĐ2/PB/TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị thay thế vùng trách nhiệm của LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử và tiếp nhận thêm TĐ1/TQLC đang phòng thủ tại Phượng Hoàng .

Trong đêm nầy CS pháo kích làm cháy kho tiếp liệu của SÐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới.

Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CSBV cùng với chiến xa, đã mở nhiều mũi tấn công tuyến phòng thủ của LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa T-54. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ của TQLC phải thu hẹp lại, chỉ còn cách Ái Tử từ 2 đến 3 cây số.

Ngày 27/4/1972 cộng quân tổng tấn công tất cả tuyến phòng thủ của VNCH từ cửa Việt xuống đến căn cứ Phượng Hoàng. Tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lĩnh và Hải Lăng. Đêm 27/4, pháo binh CSBV bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ.

Ngày 28/4, Cộng quân pháo dữ dội vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân ở thị trấn Ðông Hà, trong 2 ngày khoảng 7,000 quả đạn, đồng thời với chiến xa yểm trợ đã tấn công vào tuyến phòng thủ của đơn vị nầy, Tiểu Ðoàn 30/LÐ5BÐQ đã bắn hạ 13 chiến xa T54 và bắt sống một chiếc khác tịch thu hằng trăm vũ khí. Tuy nhiên LÐ/BÐQ và Thiết Ðoàn 20 Kỵ Binh bị thiệt hại năng vì pháo địch. Để bảo toàn lực lượng, các đơn vị nầy đã được lịnh triệt thoái để tăng cường bảo vệ phòng tuyến căn cứ Ái Tử và phòng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8/TQLC. Trong khi đó, Trung Đoàn 57/BB triệt thoái về Thị xã Quảng Trị. Trong đêm nầy cộng quân cũng tung chiến xa và bộ đội tràn qua cầu Ga Quảng Trị nhưng đã bị đẩy lùi.

Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hỗn loạn trên quốc lộ 1 và làm mục tiêu cho pháo binh cộng sản. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SÐ3BB cũng là đầu não chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc.



Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào phòng tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC. Vì thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên cũng đã triệt thoái về Quảng Trị, chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ căn cứ Ái Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút khỏi Ái Tử về phòng thủ thị xã Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được thi hành tốt đẹp.

Trong khi đó ngày 28/4/1972 mặt trận B4 CSBV tại mật khu 611 tung SÐ324B gồm 2 Trung Ðoàn 29 và Trung Ðoàn 803 bao vây rồi tràn ngập căn cứ Bastogne ở phía Tây thành phố Huế do một Tiểu Ðoàn của SÐ1BB trấn giữ. Trước áp lực quá nặng của CS căn cứ Checkmate gần đó được lịnh di tản. Đồng thời với việc tấn chiếm 2 căn cứ Bastogne và Checkmate, Trung Đoàn 66/304 CSBV cũng đang vân tập về vùng thung lủng Ashau để chuẩn bị tấn công Huế.

Trong ngày 30 tháng 4, thế trận phòng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại Quảng Trị đã trở nên nguy ngập. Lúc 2 giờ sáng, cộng sản tấn công Trung đoàn 2/3BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cộng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công tràn ngập các Tiểu đoàn Ðịa Phương Quân + Nghĩa Quân của Tiểu Khu Quảng Trị.

Quảng Trị thất thủ:
Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ Nam sông Thạch Hãn phòng thủ. Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngũ, để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị cộng sản đóng chốt nhiểu đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh vì Tiểu đoàn 7 TQLC đã di chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử.

Cùng với những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1.Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến hành chậm vì thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực địch phản công.

Do đó đoạn đường huyết mạch, chỉ có chín cây số, bị bỏ ngõ để quân cộng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu đào, mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.

Trước các biến động chiến sự ngày càng nguy kịch, sáng ngày 30 tháng 4, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, triệu tập buổi họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn trong Cổ Thành Quảng Trị (tức trại Đinh Công Tráng). Tướng Giai trình bày kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Thạch Hãn.

Theo sự phối trí, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ căn cứ Ái Tử sẽ rút về thị xã Quảng Trị để lập vòng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ. Một tuyến phòng thủ mới dọc theo bờ Nam sông Thạch Hãn sẽ được thiết lập bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân (BĐQ) với sự yểm trợ của một nửa lực lượng chiến xa và thiết vận xa. Thành phần Thiết Giáp (TG) còn lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày hôm sau. Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời căn cứ Ái Tử trưa ngày 30 tháng 4/1972.


Trưa ngày 30 tháng 4 khi các đơn vị của Lữ Đoàn 147 TQLC về đến bờ Bắc sông Thạch Hãn thì cả hai cây cầu ngang sông Thạch Hãn đã bị giật sập. Cầu Ván do Cộng quân giật sập đêm 28 tháng 4/1972, còn cầu Sắt thì do thiếu phối hợp, toán Công Binh đã đặt chất nổ phá cầu trước khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và ba tiểu đoàn 1, 4 và 8 TQLC đi qua. Đoàn xe và 12 súng đại bác đã được phá hủy trước khi vượt sông Thạch Hãn, và các đơn vị TQLC đến chiếm giữ các vị trí trọng yếu quanh thị xã.

Sáng ngày 1/5/72, BTL/SĐ3/BB thông báo cho các đơn vị trú phòng nguồn tin: "5 giờ chiều địch sẽ pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xã Quảng Trị", và cho lệnh các đơn vi lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân tránh pháo nầy đã đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản cư về Huế theo quốc lộ 1.

Ngày 2/5 Tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những làm cho mười bảy triệu quân dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt.Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá mà còn giữ được.

Ngay sau khi kế hoạch lui binh bắt đầu, Tướng Hoàng Xuân Lãm ra lịnh tử thủ Quảng Trị. Lệnh Sư Ðoàn và phản lệnh của Quân Ðoàn bất nhất làm cho các đơn vị trưởng bất mãn, bất tuân thượng lệnh. Hệ thống chỉ huy phòng thủ Quảng Trị bị gãy đổ ngay từ đó, các đơn vị tự ý rời vị trí rút lui về hướng Nam. Tướng tư lệnh SÐ3BB đã cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, đã được 3 trực thăng CH-54 bốc đi từ Cổ Thành Quảng Trị bay về Ðà Nẳng lúc 16 giờ 40 cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn cứ hỏa lực và phòng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xã An Lộc, bị bỏ ngõ và lọt vào tay cộng sản Bắc Việt , tối ngày 2-5-1972.

Giữa cảnh hổn loạn đó, Ðại Tá Khoái Chỉ Huy Trưởng BÐQ Quân Khu I đã họp các cấp chỉ huy 3 Liên Ðoàn BÐQ và ra quyết định LÐ5BÐQ làm nổ lực chính đánh trì hoãn để cho các cánh quân còn lại lui binh trên QL1. Sự dũng cảm và hy sinh vì màu cờ Binh Chủng, trên một chiến trường do đich chọn sẳn, Các chiến sĩ BÐQ đã đánh một trận phản phục kích để đời tại Sông Trường Phước mặc dù địch có chiến xa yểm trợ.

Vào lúc 14 giờ 30 chiều, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn và gần 30 chiến xa & thiết vận xa còn lại của LĐ1 Kỵ binh, bắt đầu triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế theo Quốc lộ 1. Thêm nhiều quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào đi theo đoàn quân này gây trở ngại không ít khi điều quân và lúc giao tranh với địch. Lực lượng TQLC đã đụng độ suốt đêm với trung đoàn CSBV tại Hải Lăng, có nhiều quân nhân và đồng bào tháp tùng đã tử thương trong lúc giao tranh. Nhờ hỏa lực mạnh mẽ của thiết giáp, địch rút lui vào buổi trưa hôm sau. LĐ 147/TQLC, chiến xa và đoàn người chạy giặc đã tới Mỹ Chánh vào buổi chiều, nơi LĐ369/TQLC đang án ngữ.

Trên đường lui binh, Lữ đoàn 147 TQLC, và các đơn vị của SÐ3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc.

Quốc lộ 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, mất an ninh nhiều ngày trước, đang bị quân cộng sản chiếm và đóng chốt, nhất là cầu sông Nhung, trên Quốc Lộ I, đoạn đường đã bị gián đoạn giao thông, vì đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt phục kích tấn công, tha hồ tác xạ dữ dội và tàn bạo, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp mặt đường, dưới ruộng. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh. Một phóng viên chứng kiến thảm cảnh này khi thuật lại, đã đặt tên cho đoạn đường này là "Đại Lộ Kinh Hoàng".

Lúc đó Lữ đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ, giữ phòng tuyến Mỹ Chánh từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị.

Sáng sớm ngày 2/5/1972 Trung Ðoàn VC với 18 chiến xa yểm trợ tấn công Lữ Ðoàn 369 TQLC tại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh. Sau nữa ngày giao tranh với pháo binh cơ hữu và hải không yểm trợ, 17/18 chiến xa T54 bị bắn cháy. VC bị thiệt hại nặng và tháo lui về hướng Hải Lăng bỏ lại trận địa trên 500 xác chết.

Ngày 2/5/1972 Tỉnh Quảng Trị thất thủ, Thiết Ðoàn 20 chỉ còn lại 6/48 chiến xa, Các đơn vị TQLC bị thiệt hại nặng, cầu Mỹ Chánh được Công Binh VNCH giật sập để cản bước chiến xa của địch. Cố đô Huế hiện giờ trong tình trạng hoảng loạn vô trật tự.

Tuyến phòng thủ Huế ngày 5/5/1972

Tuyến phòng ngự Mỹ Chánh:

Ngày 3/5/1972 Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng nguyên Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh Quân Ðoàn I trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Dinh Độc Lập.

Ngày 4/5/1972, sau khi được chỉ định, Tướng Trưởng cấp tốc bay ra Quân Khu I và lập ngay phòng tuyến cố thủ tại cố đô Huế chống lại áp lực của các SÐ304, 308 và 325 CSBV ở phía Bắc sông Mỹ Chánh và SÐ324B ở phía Tây.

Tướng Trưởng cấp tốc thành lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương tại Huế và ban lệnh thiết quân luật, buộc tất cả quân nhân phải trở về trình diện đơn vị, cho lệnh bắn tại chổ những người mang vũ khí lang thang ngoài đường phố hay bị bắt quả tang trộm cướp, bắn bỏ tại chổ những tên cướp giựt, tổ chức lực lượng quân cảnh tuần tiểu bằng Thiết Vận Xa V100. Đồng thời thành lập "Trung Tâm Điều Hợp Hỏa Lực" và một "Toán Đặc Biệt" chỉ nhằm thâu nhận các mục tiêu và vị trí địch quân, để phối hợp khai thác khả năng dồi dào của không địa hải pháo Việt-Mỹ yểm trợ chiến trường.

Ngày 5/5/1972 Tướng Trưởng cũng phổ biến kế hoạch phòng thủ cho các vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 1BB trách nhiệm phòng thủ phía Tây và Tây Nam Huế. Nhằm ngăn chận địch quân từ hướng mật khu Ba Lòng; SÐ/TQLC trách nhiệm phòng thủ phía Bắc và Đông Bắc Huế, chận đứng mọi toan tính xâm nhập của địch từ phương Bắc. Các Tư Lệnh SĐ toàn quyền điều động và phối hợp Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và Chủ Lực Quân vào kế hoạch tác chiến của Quân Ðoàn. Ðồng thời lập kế hoạch Lôi Phong, tập trung hỏa lực Không, Hải và địa pháo chiến thuật cũng như chiến lược cơ hữu Việt-Mỹ nhằm ngăn chận, và tiêu diệt sự tập trung quân của địch, để có đủ thời gian tái tổ chức trang bị và huấn luyện các đơn vị bị thiệt hại vừa qua. (lần đầu tiên các đơn vị VNCH được trang bị hỏa tiển TOW).



Ngày nầy, Ðại Tá Bùi Thế Lân được chỉ định giữ chức vụ Tư Lệnh SÐ/TQLC thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang .

Ngày 7/5 sự ổn định về phòng thủ tại Huế đã vững vàng, an ninh trật tự công cộng cũng được vãn hồi. Mặc dù giao tranh còn đang xảy ra tại một vài nơi nhưng dân chúng Huế cũng cảm thấy yên tâm, một số gia đình chạy loạn đã lục tục trở về. Các chiến cụ bị mất mát hay hư hỏng cũng được các phi cơ khổng lồ C141 và C5 Hoa Kỳ ồ ạt chở đến phi trường Đà Nẳng.

Ngày 8/5/1972, toàn bộ LÐ2ND với 3 TĐ 2, 7 & 11ND do Đại Tá Trần Quốc Lịch làm Lữ Đoàn Trưởng, từ mặt trận Tây Nguyên được không vận đến Phi Trường Phú Bài tăng viện cho Quân Ðoàn I.

TÐ11ND sau trận chiến tại đồi Charlie ở Quân Khu 2, được tái chỉnh trang, tăng cường cho mặt trận Quân Khu I và khi vừa đến Huế thì nhận được lệnh tái chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh. Vừa vuợt tuyến xuất phát tại Phong Ðiền dọc QL1, VC pháo dữ dội bằng đủ loại đại pháo và xung phong tấn công biển người vào TÐ11ND. Thiếu Tá Mể TÐT bị thương vì pháo kích. Th/Tá Thành thay thế. Ðến 3 giờ sáng, 3 chiếc T54 xuất hiện, ÐÐ111 dùng M72 tiêu diệt, bắt sống 1 tù binh cấp Thượng Tá, 1 Tiền Sát Viên và 1 Âm Thoại Viên. Tịch thu 11 súng phòng không 30 ly.

(Khi TÐ11ND nhận lệnh lên đường ra Huế, Ðại Tá Trần Quốc Lịch, LÐT/LÐ2ND đã lưu ý vị Tân Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ11ND, Thiếu Tá Lê Văn Mể rằng "Chắc chắn bọn CSBV sẽ tấn công Anh tới cùng vì theo kinh nghiệm về chiến thuật CS nếu nó đã đụng mạnh một đơn vị nào của ta một lần rồi khi ra quân lại bọn chúng sẽ tìm cách triệt hạ bằng mọi giá, nếu Anh cảm thấy chưa đủ sức tôi sẽ cho thằng khác đi thay Anh" Thiếu Tá Mễ tỏ vẽ rất tự tin và xin tiếp tục nhiệm vụ và VC đã dàn chào Ông một cách tận tình)

Các Tiểu Đoàn 2 và 7ND sau đó được triển khai dọc theo bờ phía Nam sông Mỹ Chánh cùng Tiểu Đoàn 11ND trấn giữ tuyến đầu. Tất cả chiến binh Nhảy Dù đều được trang bị súng chống chiến xa M72 và XM202 bốn nòng. Các đơn vị Nhảy Dù thường thả các toán Trinh Sát và viễn thám vào vùng địch chiếm đóng và biết được cộng quân đang tăng cường nhiều chiến xa, bộ binh , phòng không và đại pháo phía bên kia bờ sông Mỹ Chánh.

Ngày 10/5/1972 tình hình tại Huế tạm ổn định. Liên Ðoàn 1BÐQ vừa hoàn tất việc bổ sung quân số và tái huấn luyện tại Ðà Nẵng được tăng phái cho SÐ/TQLC. Ngày nầy, quân số QL/VNCH tập trung quanh thành phố Huế lên đến 35,000 người.

Ngày 12/5/1972, ÐÐTS/LÐ369TQLC vượt sông Mỹ Chánh, thám sát địa thế để lập đầu cầu chuẩn bị cho chiến dịch Sóng Thần 5/72. Sáng hôm sau, ngày 13/5/1972, 2 Tiểu Ðoàn 3 & 8TQLC được trực thăng vận đổ vào Quận Hải Lăng, cách Quảng Trị 11Km về hướng Nam đánh bọc hậu trở về sông Mỹ Chánh. Ðồng thời TÐ9TQLC vượt sông Mỹ Chánh đánh ngược lên phía Bắc. Trung Ðoàn 66 CSBV bị kẹp giữa hai gọng kềm nên bị thiệt hại nặng nề.

Ngày 14/5/1972 CSBV quyết chí trả thù, 23.00 giờ Trung Ðoàn 66/SÐ324 pháo dữ dội vào ÐÐ111ND. Ðịch vẫn áp dụng chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung và nhị thức bộ binh tùng thiết, dùng biển người dự định tràn ngập đơn vị Nhảy Dù nầy.

ÐÐ111ND phản công quyết liệt với sự tiếp ứng kịp thời của 2 Ðại Ðội 112, 114ND và dưới sự yểm trợ hỏa lực của Pháo Binh Dù và 24 chiếc Phantom của Không Quân Mỹ. Ðến sáng sớm hôm sau TÐ11ND hoàn toàn tiêu diệt các đơn vị CSBV, 26 chiến xa bị bắn cháy gồm cả T54, BTR85 và PT76, xác địch ngổn ngang bên ngoài rào phòng thủ. TÐ11ND bị thương vong 20 binh sĩ vì đạn pháo kích.

Ngày 15/5/1972 Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lịnh SÐ1BB, tung 2 Trung Ðoàn /SÐ1BB hành quân tái chiếm hai căn cứ Bastogne và Birmingham phía Tây Nam cố đô Huế.

Ngày 16/5/1972 hai Tiểu Đoàn Bộ Binh thuộc Trung Đoàn 3/SĐ1 bất ngờ được trực thăng vận đổ ngay vào Bastogne. Buổi chiều Trung Ðoàn 3/1BB hoàn toàn làm chủ tình hình tại căn cứ nầy. Đến ngày 20/5/1972 SÐ1BB cũng tái chiếm căn cứ Checkmate.

TÐ3ND sau khi tham chiến tại mặt trận An Lộc giải tỏa QL 13, được tái trang bị và không vận ra Huế. ÐÐ33ND được tăng phái cho TÐ11ND và đến trấn đóng tại rặng Hồ Lầy phía Tây Bắc TÐ11ND.

Ngày 21/5/1972, Hỏa tiển Tow được Hoa Kỳ vận chuyển đến Ðà Nẵng bằng vận tải cơ khổng lồ C141 và C5 và lần đầu tiên trang bị cho các đơn vị /QL VNCH.

Ngày 22/5/1972 BTL/SÐND và BCH LÐ3ND được không vận tới Huế. Trung Ðoàn 4/2BB cũng được tăng cường để bảo vệ Huế. Trung Ðoàn nầy được tăng phái cho SÐND trấn giữ phần lãnh thổ phía Nam sông Mỹ Chánh để các đơn vị Nhảy Dù rảnh tay vượt sông tái chiếm Quảng Trị.

Ngày 24/5/1972 QÐ1 mở cuộc hành quân Sóng Thần 6/72 thăm dò bằng 2 mũi tấn công vào phía Ðông và phía Nam tỉnh Quảng Trị: Mũi thứ nhất TÐ7TQLC đổ bộ vào bờ biển dọc theo "Dãy Phố Buồn Thiu" (tức là Hương lộ 555) phía Đông thành phố Quảng Trị. Mũi thứ hai gồm 2 Tiểu Ðoàn 4 và 6 TQLC đổ bộ bằng trực thăng xuống giao điểm hương lộ 555 và 602, chạm địch khá mạnh với Trung Ðoàn 18 CSBV. Sau đó các đơn vị TQLC rút về tuyến Mỹ Chánh.

Trong lúc đó Cộng quân lại tấn công vào mặt phía Tây trong 3 ngày liên tiếp, với chiến xa và bộ binh tùng thiết chỉa mũi dùi vào tuyến của LÐ369TQLC. Một Tiểu Ðoàn của CS đã tấn công vào vị trí của TÐ9TQLC trong khi hai Tiểu Ðoàn CS khác mưu toan tràn ngập Tiểu Ðoàn 1 TQLC. Cả hai cuộc tấn công nầy đều bị đẩy lui và hằng trăm xác công quân bỏ lại tại trận địa.

Ngày 28/5/1972 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm chiến trường Quân Khu I, ban quân lịnh mở chiến dịch "Lôi Phong" tái chiếm Quảng Tri và thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận cho Ðại Tá Bùi Thế Lân, Tư Lệnh SÐ/TQLC tại Huế.

Trong ngày nầy, LÐ1ND sau khi giải tỏa An Lộc được không vận ra Huế tăng cường lực lượng chuẩn bị tái chiếm Quảng Trị BTL/SÐND đóng tại An-Lỗ, 17 cây số phía Bắc thành phố Huế, căn cứ Hiệp Khánh.

Ngày 2/6/1972 một lần nữa quân cộng sản thuộc Trung Ðoàn 66 có chiến xa yểm trợ đã vượt cầu ngầm tấn công vào TÐ11ND tại bờ Nam sông Mỹ Chánh, đồng thời địch cũng pháo dữ dội vào vị trí đóng quân của TÐ2ND tại căn cứ Nancy do 1 Ðại Ðội Nhảy Dù trấn giữ cầu phao bắt qua sông do Công Binh QÐI thiết lập.

Nhờ chuẩn bị sẵn, khi chiến xa địch vừa vượt qua sông càn vào tuyến phòng thủ, các chiến sĩ Dù đã dàn chào bằng những loạt đạn M72, và XM202 chống chiến xa cùng Pháo binh yểm trợ. Các chiến xa địch lật gọng, những chiếc khác tháo chạy. Bộ binh VC nhào lên xung phong biển người, từng đợt bị rơi rụng vì mìn claymore, lựu đạn, đại liên ,tiểu liên thi nhau nhả đạn. Sáng sớm hôm sau, Cộng quân tháo lui bỏ lại chiến trường trên 100 xác, 5 tù binh bị bắt sống, 4 chiếc T54 bị bắn cháy, 7 chiếc khác còn nguyên vẹn bị tịch thu vì xa đoàn bỏ trốn, tại bờ sông 9 chiếc nữa bi đâm vào nhau vì hoảng loạn tháo chạy. Về sau, khi Trung Ðoàn 4/2BB đến thay thế trấn giữ đồi Trần Văn Lý, các chiến sĩ TÐ11Nhảy dù bung rộng lục soát về phía Bắc tận sông Nhung đã phát hiện thêm nhiều chiến xa BTR85 do VC cất dấu trước khi tháo lui. (Các chiến xa nầy được đem về trưng bày tại căn cứ Hiệp Khánh)

Ngày 8/6/1972, 4 Tiểu Ðoàn TQLC đã vượt sông Mỹ Chánh đánh qua phía Bắc mở cuộc hành quân Sóng Thần 8/72. Quân CS đã phản kích kịch liệt dọc theo hương lộ 555. Nhưng TQLC cũng đã mở rộng được tuyến bờ sông phía Bắc Mỹ Chánh.

Ngày 18/6/1972 tiếp nối cuộc hành quân Sóng Thần 8/72, ba Tiểu Ðoàn 1, 5 và 6 TQLC mở cuộc hành quân Sóng Thần 8A/72. Cộng quân tung bộ binh và chiến xa kháng cự dữ dội. BCH hành quân gọi phi pháo yểm trợ và pháo đài bay B52 can thiệp. Ðịch quân bị thiệt hại nặng, TQLC đã mở rộng phòng tuyến phía Bắc sông Mỷ Chánh thêm 6 km.

Tái chiếm Quảng Trị : Hành Quân Lam Sơn 72

Ngày 28/6/1972, thấy chiều hướng thuận lợi, BTL/QÐI phát động kế hoạch phản công tái chiếm Quảng Trị. Trong kế hoạch nầy, nổ lực chính là SÐND , SÐTQLC, LÐ1BÐQ và Thiết Ðoàn7KB. SÐIBB mở rộng vòng đai an ninh về hướng Tây Huế nhằm tái chiếm các căn cứ trong khu vực thung lũng Ashau, Trung Ðoàn 57BB hành quân lục soát vùng Quảng Nam. SĐ3BB trấn ngự chung quanh Đà Nẵng. Thành phần trừ bị gồm Trung Ðoàn 4/2BB, Trung Ðoàn 51 và Thiết Ðoàn 17KB.

Bản đồ hành quân tái chiếm Quảng Trị

Theo kế hoạch hành quân của Quân Đoàn I:
Ngày N-2 và N-1 ta khởi động một cuộc không tập toàn diện bằng hỏa lực B52, các loại hải pháo, phi pháo và pháo binh diện địa vào các vị trí tập trung quân của địch, các kho tàng cơ giới và các vị trí súng lớn của địch.

Ngoài ra, QĐ I còn tung ra một kế hoạch hành quân nghi binh bằng một lực lượng Nhảy Dù sẽ nhảy xuống Cam Lộ và TQLC sẽ đổ bộ vào cửa Việt nhằm cắt đường tiếp vận của đối phương để đánh lạc hướng và gây hoang mang cho địch quân.

Ngày N bắt đầu, SÐND bên trái QL1, SÐ/TQLC bên phải QL1, hai đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH tiến song song theo thế gọng kềm về hướng Bắc, từ bờ biển đến tận đỉnh núi Trường Sơn, đánh đuổi đoàn quân xâm lược khát máu CSBV tận sào huyệt của chúng. Theo kế hoạch hành quân nầy của Quân Đoàn I, SĐND sẽ được trực thăng vận vượt sông Mỹ Chánh rồi dàn quân tấn công về hướng Bắc. Nhưng để giữ bí mật, 5.00 giờ chiều ngày hôm trước, Trung Tướng Dư Quốc Đống thay đổi chiến thuật, không dùng trực thăng vận mà dùng cầu phao và xuồng máy M2 của Công Binh Nhảy Dù để chuyển quân sang bờ sông Mỹ Chánh.

Để chuẩn bị vượt tuyến xuất phát, Thiếu Tá Lê Hồng, TĐT/TĐ1ND họp khẩn các cấp chỉ huy trong đơn vị và ban lệnh hành quân. Ông nghiêm trọng chuyển lệnh thẳng cho Bác Sĩ Phạm Gia Cổn, Y Sĩ TĐ1ND: "Theo ước lượng của BTL/SĐND cuộc hành quân nầy sẽ tổn thất ít nhất là 2/3 về nhân mạng vậy Bác Sĩ hãy chuẩn bị thuốc men và những dự phòng cần thiết".

3.00 giờ sáng ngày 28/6, mở đầu cuộc hành Quân Lam Sơn 72, Ðại Tá Trần Quốc Lịch LÐT/LÐ2ND điều động 3 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù vượt sông Mỹ Chánh. Tiểu Ðoàn 2ND do Thiếu Tá Nguyễn Ðình Ngọc chỉ huy đi cánh trái, TÐ1ND do tân Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Hồng chỉ huy đi giữa và TÐ3ND (Thiếu Tá Trần Văn Sơn TÐT) đi cánh phải.

Có lẽ do tin tình báo nội tuyến, địch biết kế hoạch hành quân của ta nên tất cả súng phòng không của CSBV ở bên kia bờ sông Mỹ Chánh đã sẳn sàng chỉa mũi lên trời định dàn chào các Thiên Thần Mũ Đỏ. Nhưng chúng không ngờ, trời vừa lờ mờ sáng, các Thiên Thần Sát Địch đã độn thủy sang sông một cách yên lặng và bất ngờ. Sau phát súng lịnh, từng đoàn, từng đoàn lính Dù hô xung phong vang trời, tấn công vào phòng tuyến địch. Vì bị đánh bất ngờ các cấp chỉ huy Cộng Sản không kịp trở tay, hốt hoảng bỏ chạy. TÐ2ND đánh thẳng vào BCH Trung Ðoàn 203 chiến xa của VC, tịch thu nhiều súng cối 61 ly và 82 ly cùng đạn dược, ba chiến xa T54 còn đang nổ máy, trong lúc TÐ1ND đã xông trận đánh xáp lá cà tiêu diệt hết các xạ thủ đang ghìm tay súng nhìn lên trời, và tịch thu được 14 khẩu đại bác phòng không 12.7 ly & 2 khẩu 57 ly phòng không với bệ ngồi xoay tròn cho xạ thủ, cùng bắt sống 5 tù binh.

TÐ3ND đi cánh phải sau khi vượt sông Mỹ chánh chiếm vùng Lương Ðiền, Tân Tường, Trường Vinh đến tận phía Nam sông Ô-Khê để bảo vệ bãi đáp cho 2 TÐ9ND và TÐ11ND. Khi vừa qua sông Mỹ Chánh TÐ3ND đã tiêu diệt 2 cán binh CS tịch thu 2 khẩu AK-47 và bắt được 3 khẩu pháo 105 ly mà địch đã lấy được của ta trước đây rồi dấu vào bụi tre. Sau đó TÐ3ND tiến về phía Bắc để tiêu diệt các chốt địch dọc theo Quốc Lộ I (Ðại Lộ Kinh Hoàng) rồi mở mũi dùi về phía Ðông để tái chiếm Quận Hải Lăng.

Sáng ngày, TÐ9ND (Trung Tá Trần Hữu Phú TÐT) và TÐ11ND (Thiếu Tá Lê Văn Mể TÐT ) được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung, hai Tiểu Ðoàn Dù đi song song chiếm từng thước đất, từng cái hố, từng chốt địch, trên những dãy đồi trọc không một bóng cây dưới ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa. Chiến sĩ Dù phải vận dụng tối đa tai, mắt, hơi thở , trí óc rồi bằng lựu đạn, bằng dao gâm đánh cận chiến với địch.

Ngày 2/7/1972 mở đầu giai đoạn 2, Trung Tá Lê Văn Ngọc tân LÐT/LÐIND trách nhiệm càn quét quân giặc doc theo phía Tây dưới chân dãy Trường Sơn, từ phía Bắc sông Mỹ Chánh qua sông Nhung đến La Vang dọc theo bờ sông Thạch Hản rồi vào Thị Xả Quảng Trị.

Ðể cản bước tiến của quân ta, CSBV đã pháo hằng loạt đũ loại từ 130 ly,122 ly hỏa tiển 107 ly. Nhưng đoàn quân Mũ Ðỏ vẫn không chùng bước trên đoạn đường dài 9 cây số đầy dãy những cảnh tượng chết chóc từ Giáp Hậu, qua Mai Ðằng rồi đến La Vang Thượng.

TÐ9ND chia quân thành 2 cánh tiến đánh vùng Tân Lê Phước Môn, trong trận nầy tất cả 4 Ðại Ðội Trưởng đều bị thương vì pháo địch, Ðại Úy Ngưu ÐÐT94 bị tử thương tại Tân Téo.

TÐ11ND là trục chính của cuộc tiến quân, từ Hải Lâm cũng chia làm 2 cánh tiến chiếm mục tiêu là nhà thờ La Vang. Ðường vào La Vang thật là hung hiểm, khi đến cầu Trường Phước, cách La Vang 2 cây số về phía Nam, Ðoàn chiến xa BTR85 và PT76 chuyển quân của địch di chuyển trên QL1 ngược chiều với quân Dù. Quân TÐ11ND xung phong với M72 chống chiến xa, gọi Pháo Binh và không quân yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo, chiến xa địch quay đầu bỏ chạy, quân ta truy kích, chiến xa địch hoảng loạn khi qua cầu nên dồn đè lên nhau lật xuống sông.

Trong khi đó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi làm TĐT được trực thăng vận xuống khu vực nhà thờ La Vang. Khi vào nhà thờ La Vang, TÐ7ND bắn cháy 2 chiến xa T54 cộng sản bố trí trước sân nhà thờ và sau 3 giờ kịch chiến, lực lượng Nhảy Dù đã làm chủ tình thế.



Sau 5 ngày vừa đi vừa bứng chốt địch, buổi trưa ngày 7/7, TÐ3ND bắt đầu tấn công vào quận Hải Lăng. Thiếu Tá Sơn Tiểu Đoàn Trưởng cho các Đại Đội 31, 32 và 34 tiến dọc 2 bên QL1 theo đội hình chân vạt, trong khi đó Đại Đội 33 tiến dọc theo đường rầy xe lửa và "Đại lộ kinh hoàng" bứng chốt địch để cho các toán Công Binh dọn dẹp (ĐLKH). Khi Đại Đội 32 tới khu trường học, nằm lại án ngữ tại đây. Đại Đội 33 cặp theo tỉnh lộ 602 tấn công thẳng vào quận lỵ. Ðich ở trong quận đường phản kích mãnh liệt, nhưng với kinh nghiệm chiến trường, Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ÐÐT/ ÐÐ33ND bình tĩnh gọi pháo binh và phi cơ yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo địch quân tháo chạy về hướng Bắc, TÐ3ND tái chiếm lại Quận Hải Lăng vào lúc 4.00 giớ chiều. Trong lúc điều quân tái chiếm quận Hải Lăng, Thiếu Tá Trần Văn Sơn TÐT chẳng may bị mảnh đạn pháo địch bị thương, Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng TÐP/TĐ9ND về thay thế chức vụ TĐT/TĐ3ND.

Ngày 8/7/1972 sau khi chiếm Hải Lăng xong, TÐ3ND được lịnh tiến về trước cùng TÐ8ND càn quét giặc cộng dọc 2 bờ Sông Nhung từ Ðông sang Tây tới tận chân núi Trường Sơn. Trên đường hành quân, ÐÐ33ND đã phối hợp với một đơn vị của TĐ8ND do Đại Úy Trần Cao Khoan chỉ huy bên kia bờ sông, đã tiêu diệt được một đơn vị đặc công CS toan đặt mìn giật phá cầu Trường Phước trên QL1. Bốn tên bỏ xác tại trận với 4 khẩu AK47 cùng bắt được một Thượng Úy VC tên Thanh mới 28 tuổi là TÐT Tiểu Ðoàn 31 Ðặc Công cộng sản.

Hai ngày sau (10/7) Tiểu Đoàn 3ND lại tấn công địch quân trên ngọn đồi có độ cao 30m trên nguồn sông Nhung. ĐĐ33ND được chỉ định, chia làm hai mũi dò lần theo thế chân vạt tiến chiếm mục tiêu. Khi toán khinh binh đi đầu chạm địch, toàn đại đội đồng loạt xung phong chớp nhoáng trong vòng 10 phút giao tranh, Nhảy Dù đã làm chủ trận địa. Cộng quân hoảng hốt bỏ chạy để lại 2 xác chết, ta tịch thâu 3 súng phòng không 37 ly bên cạnh có một xác trực thăng UH1-D của VNCH bị bắn rơi trước đây. Sau khi bung rộng ra lục soát tìm thấy thêm 2 khẩu đại bác 122 ly nòng ngắn, rất nhiều đạn chưa kịp bắn, một máy phát điện và một xe cơ giới sửa chữa. Ngày hôm sau Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù cho 5 chiếc Thiết Vận Xa vào kéo 3 khẩu phòng không, 2 khẩu đại bác 122 ly và chuyên viên Công Binh phá huỷ tất cả đạn đại bác.

Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị:
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu làm Tiểu Đoàn Trưởng, với 5 Đại Đội: Đại Đội 50 hay là Đại Đội Chỉ Huy, ĐĐT là Trung Úy Chiêu, Đại Đội 51 ĐĐT là Trung Úy Trương Đăng Sỹ, Đại Đội 52, ĐĐT là Trung Úy Hồ Tường, Đại Đội 53 ĐĐT là Trung Úy Thân, Đại Đội 54 ĐĐT là Trung Úy Dương, sau ngày giải tỏa An Lộc được không vận đến Huế và trú đóng tại căn cứ Nancy khoảng một tuần lể. Tại đây, Tiểu đoàn tái huấn luyện cho binh sĩ về chiến thuật đánh trong thành phố phân tán mỏng từng tổ ba người, cách thức ngụy trang khi di chuyển và thực tập bắn hỏa tiển TOW, M72, XM202…chống chiến xa.

Ngày 5/7/1972, TĐ5ND di chuyển bằng đường bộ đến La Vang Tả rồi tiến về hướng Tây. Sau khi B52 trải thảm dọc bờ sông, TĐ5ND tung quân vào lục soát đến tận bờ sông Thạch Hãn, thấy rất nhiều xác cộng quân tại hiện trường. Tiểu đoàn tịch thu được 2 khẩu phòng không 37 ly.

Ngày 9/7/1972, bàn giao khu vực lại cho TĐ7ND, TĐ5ND di chuyển về hướng Đông, băng ngang QL1, hôm sau dừng quân tại khu vực thôn An Thái cách cổ thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Tại đây BCH/TĐ lập sa bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tấn công Cổ Thành.

Ngày 10/7/1972, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu triệu tập các Đại Đội Trưởng ban lệnh hành quân, Sĩ quan các Đại Đội có 3 ngày để huấn luyện và hướng dẩn binh sĩ thuộc quyền chuẩn bị tác chiến. Đặc biệt trong trận nầy yếu tố ngụy trang triệt để áp dụng.



Ngày 11/7/1972 TÐ1TQLC được trực thăng vận đổ xuống hương lộ 560 cách TX Quảng Trị 2 km về hướng Ðông Bắc để ngăn chận đường tiếp vận của địch muốn tăng cường cho lực lượng của chúng trong Cổ Thành. Hai trực thăng chuyển quân CH53 của Mỹ bị hỏa tiển SA-7 bắn rơi, 30 quân nhân TQLC và Phi Hành Ðoàn bị tử trận.

Ngày 13/7/1972 hai ngày sau, một đơn vị thuộc SÐ312CSBV với chiến xa yểm trợ đã tấn công vào TÐ1TQLC nầy. TQLC phản công quyết liệt bắn hạ hằng chục chiến xa địch và cho đến ngày 22/7 mới quét sạch quân CS tới cửa Việt.

Sau ba ngày cho binh sĩ chuẩn bị học tập, đêm 14/7/1972, TĐ5ND bắt đầu di chuyển vượt con sông nhỏ bằng thuyền của Công Binh Nhảy Dù và tiến vào làng Tri Bưu dọc theo đường Nguyễn Hoàng, phía Đông Bắc Thị Xã. Tại đây cộng quân có đặt một chốt chặn tại nhà thờ Tri Bưu phản ứng báo động. TĐ5ND dứt chốt bằng cận chiến dể dàng để không gây tiếng động và đã giải thoát cho trên 10 Dì Phước bị chúng bắt làm con tin phục dịch và đỡ đạn cho chúng.

Ngày hôm sau, TĐ5ND đã tiến đến sát bờ thành cổ, vẫn còn nguyên vẹn rào kẽm gai và hào nước bao bọc chung quanh. Công quân vẫn hoạt động bình thường vì Nhảy Dù ngụy trang hoa lá trên người nên chúng không phân biệt được ta hay đối phương. Chúng lùa dân trên đường di chuyển về hướng Đông, có lẽ bắt dân đi theo để đỡ đạn cho chúng.

Hôm sau, Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lịnh Sư Đoàn Nhảy Dù đã ra lịnh dùng đại bác 90 ly M41 gắn trên chiến xa M48 bắn thẳng để phá huỷ một góc phía Đông Bắc cổ thành làm cửa ngỏ cho các đơn vị Nhảy Dù xâm nhập vào bên trong.

Ngày 17/7/1972 trong phạm vi trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù, các cánh quân đã được triển khai như sau: Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi chỉ huy đă kiếm soát được ṿòng đai phía Tây thị xă, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ chỉ huy tiếp tục truy kích Cộng quân ở quanh khu vực Thạch Hãn đến ngã ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, Trung Tá Trần Hữu Phú Tiểu Đoàn Trưởng và Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhỏ Tiểu Đoàn Phó, là lực lượng ứng chiến trừ bị cũng đă kiểm soát được khu vực phía Nam thị xă. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Thành Tiểu Đoàn Phó chỉ huy đă làm chủ được chiến trường ở pḥòng tuyến dọc phía Đông thị xã.

Sau một thời gian quần thảo với cộng quân ở ṿòng đai Cổ Thành, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đă quyết định tấn công thành Đinh Công Tráng bằng hai giai đoạn:

Giai đoạn 1: Đưa một toán tiền thám xâm nhập vào trong thành, với nhiệm vụ là thám sát địa thế cũng như vị trí của địch quân bên trong cổ thành rồi báo cáo về Tiểu Đoàn. Giai đoạn này sẽ bắt đầu vào đêm 18/7/1972.

Giai đoạn 2: Cả Tiểu Đoàn sẽ đồng loạt tấn công vào Cổ Thành, và trong 2 ngày, phải đánh chiếm lại ít nhất là phân nửa chu vi bờ thành.

Để thực hiện được kế hoạch trên, Trung Tá Hiếu đã quyết định thành lập ngay một toán "thám sát cảm tử" bằng cách tuyển chọn trong các quân nhân gốc người sở tại Quảng Trị tình nguyện, vì sống tại địa phương nầy nên họ hiểu rõ địa thế. Có rất nhiều chiến sĩ xung phong xin nhập vào toán cảm tử này nhưng chỉ có 6 quân nhân thuộc Đại Đội 51 được chọn: "Trưởng toán là Hạ sĩ Trần Văn Sáu, cọ̀n chiến sĩ được giao trách nhiệm cấm cờ VNCH trên mặt bờ Cổ Thành Quảng Trị là Binh 1 Hồ Khang.

Chiều ngày 18/7/1972, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu cho tập hợp toán "cảm tử" để từ giã những chiến hữu thân thương quyết ra đi theo truyền thống "Nhảy Dù Cố Gắng", Vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã ban quyết định thăng cấp trước cho 6 cảm tử quân mỗi người lên hai cấp. Và đêm đến, toán cảm tử quân sẽ lên đường để đột kích vào Cổ Thành.

Đêm đến, Giờ G đã điểm, toán cảm tử quân của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù vượt tuyến xuất phát lao vào bóng đêm đột kích vào thành. Từ vị trí xuất phát đến mục tiêu khoảng cách hơn 200 mét. Trung Tá Hiếu và cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn nín thở nhìn theo toán quân cảm tử đi vào bóng đêm và chờ đợi. Vào khoảng quá nửa đêm, toán cảm tử quân đã ḅò lên được trên mặt Cổ Thành. Một bóng đen nhô lên giữa bầu trời và tung bay theo chiều gió. Đó chính là lá quốc kỳ VNCH mà Binh I Hồ Khang đă được lệnh mang theo khi xuất phát. Từ xa, các chiến sĩ Nhảy Dù vui mừng la lên:

"Lá cờ dựng được rồi...?".


Lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥòa đã tung bay trên mặt bờ Cổ Thành rồi kia. Đó cũng là một tín hiệu của toán tiền thám báo cho Trung Tá Hiếu biết nhiệm vụ của họ giai đoạn đầu đã hoàn tất và họ sẽ tiếp tục nhiệm vụ kế tiếp. Trong giây phút đó, bỗng nhiên có những tiếng hô dõng dạc từ trên bờ thành vọng đến bên tai những người chiến sĩ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang ghìm tay súng hướng về bờ Cổ Thành chờ đợi và trước mắt họ đã hiện rõ bóng cờ. Tiếng Binh I Hồ Khang hô lớn:

- "Nhảy Dù cố gắng - Nhảy Dù chiến thắng - Việt Nam Cộng Ḥòa muôn năm".

Liền ngay sau đó quân CSBV tử thủ bên trong cổ thành đã tập trung hoả lực như mưa bắn xối xả vào toán cảm tử của TĐ5ND, Binh Nhất Hồ Khang và 3 đồng đội khác tử trận ngay bên bờ thành, chỉ có Hạ sĩ Sáu và Binh Nhất Tâm còn may mắn, hai ngày sau lần mò trở về lại chiến tuyến.

Ngày 21/5 các đơn vị TĐ5ND được lịnh lui về vị trí cũ để phi pháo hoạt động, Đại Đội 52 trên đường lui binh trở lại nhà thờ Tri Bưu bị quân CS phát giác nên cho một Trung Đoàn vây đánh và bắn theo bằng đại bác trực xạ không giật 82 ly. Các đơn vị Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã tử chiến, tả xông hữu đột mới thoát khỏi vòng vây của giặc. Thiếu Úy Trịnh Văn Bé bị tử thương và 56 quân nhân khác bị thương vong. Hai ngày sau các đơn vị lại tiến lên trở lại. TĐ5ND phát hiện và hạ sát hai tên tiền sát viên pháo binh VC bám theo sau Tiểu Đoàn.

Ngày 25/7/1972, TÐ5ND tiến quân tái chiếm cổ thành. Để yểm trợ cho trận đánh quyết tử này, "Minh Hiếu" được tăng cường Đại Đội 111/ND của Tiểu Đoàn "Song Kiếm Trấn Ải" do Trung Úy Đinh Viết Trinh "ba búa" chỉ huy đánh trợ lực từ hướng Tây Bắc vượt qua cánh đồng trống, tiến dưới làn mưa pháo địch, đánh thóc vào khu nghĩa địa làng Tri Bưu, chiếm đường Duy Tân để bắt tay với Đại Đội 52/ND do Trung úy Hồ Tường chỉ huy và để cùng đồng loạt tiến đánh chiếm lại Cổ Thành bằng mọi giá. Cạnh sườn phía Bắc Cổ Thành có Đại Đội 2/TSND do Đại Úy "Út Bạch Lan" chỉ huy tấn kích nghi binh trợ chiến.

Đúng 3 giờ sáng, Đại Đội 51 do Trung Úy Trương Đăng Sĩ, Đại Đội Trưởng, làm nỗ lực chính tiên phong đột kích lập đầu cầu trên mặt Cổ Thành, sau đó là ĐĐ52/ND do Trung úy Hồ Tường chỉ huy, nỗ lực phụ trợ chiến, một Trung Ðội của ĐĐ51ND đã cắm cờ lần thứ hai trên bờ tường cổ thành. Trước khi xuất quân, Trung Tá Hiếu lệnh cho các đơn vị trực thuộc nếu không tiến lên được vì bất cứ lý do gì, các Đại Đội cố gắng rẽ sang phía trái sẽ có TĐ6ND trợ chiến.

Khi bình minh vừa ló dạng, hai Đại Đội tiên phong / TĐ5ND dàn đội hình trên bờ thành chờ đợi xuất phát, trong khi 2 phi cơ A37 vào vùng triệt hạ khẩu đại bác trực xạ 82 ly của địch theo sự chỉ dẫn của trinh sát cơ OV-10. Tiếp theo đó Pháo Binh đang trải màn khói, chuẩn bị tác xạ yểm trợ ngay khi đó, hai chiếc phi cơ Fantom Hoa Kỳ chúi xuống trút bom ngay trên đầu của các Đại Đội 51 và 52 ND. Sự việc xảy ra trước mắt của Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, trong khi ông cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang theo dõi diễn tiến trận đánh quyết tử để sớm kết thúc giai đoạn 2, nhưng cũng không thể nào ngăn kịp. Muộn rồi!!! TĐ5ND gần như tan nát !. Với những khối bom nặng đã thả xuống chính xác làm cho hơn 50% chiến sĩ Mũ đỏ ưu tú của TĐ5ND bị thương vong. Đại Đội 51 của Trung Úy Trương Đăng Sĩ chỉ còn 38 quân nhân sống sót, tất cả 5 Sỉ Quan của Đại Đội 52 của Trung Úy Hồ Tường đều bị thương và gần 50 HSQ và Binh Sĩ bị thương vong. Tổn thất nặng nề đó đă giáng một đòn chí tử lên nỗ lực tột cùng của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, và Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu phải ra lịnh cho các đơn vị trở lại tuyến xuất phát.

(Việc ném bom lầm nầy, có dư luận cho rằng là một sự cố ý từ cấp thẳm quyền nào đó muốn ngăn chận sự tái chiếm toàn bộ của QLVNCH. Và sau đó, trên hệ thống liên lạc Siêu Tần Số cơ hữu của SĐND chúng tôi đã nghe cuộc điện đàm ngắn giữa Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lịnh SĐND và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh Quân Đoàn I như sau:

- Trung Tướng Đống: Trưởng có thấy không ? trước khi tấn công vào mục tiêu, Tổng Thống Thiệu ra lịnh tuyệt đối không cho phá hủy cổ thành, đến khi vừa vào được trong thành thì bom dội xuống trên đầu như thế nầy thì đánh giặc cái gì đây. Đánh giặc như thế nầy thì Tôi không đánh nữa, Trưởng cứ cho ai vào đánh thì đánh đi.

- Trung Tướng Trưởng: Thưa Trung Tướng được rồi, để sáng ngày mai, Tôi bay ra Sally gặp Trung Tướng sẽ bàn định lại…)

Ngày 27/7/1972 Tướng Trưởng trong cuộc họp với các Tư Lệnh chiến trường để duyệt xét tính hình chiến sự, ông đã cho biết là theo tin tức tình báo nhận được, cộng quân đă đưa thêm 2 Sư Đoàn CSBV vào vùng cận sơn Trị Thiên. Hai Sư Đoàn này sẽ tung vào mặt trận Quảng Trị làm lực lượng trợ lực cho Sư Đoàn 325/CSBV và Ông quyết định thay đổi lực lượng tấn công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Theo đó TQLC trách nhiệm khu vực duyên hải và mặt trận Cổ Thành Quảng Trị. Lực lượng Nhảy Dù trách nhiệm bảo vệ phòng tuyến Thạch Hãn, và khống chế lực lượng tăng viện của địch ở mặt trận phía Tây Quảng Trị. Đúng 12.00 giờ trưa, Ðại Tá Trần Quốc Lịch LÐT/ LÐ2ND bàn giao khu vực trách nhiệm cho Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh LÐT/LÐ258TQLC trong khi trận chiến hai bên đang giao tranh ác liệt giữa Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với 1 Trung Đoàn Cộng quân cố thủ trong Cổ thành. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù cũng lần lượt được thay thế bởi các Tiểu Đoàn/TQLC.

Tiểu Đoàn 9 TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Kim Để chỉ huy hoán đổi cho TĐ11ND tại khu vực phía Nam thị xă, cạnh Quốc Lộ 1. Tiểu Đoàn 5 TQLC do Thiếu Tá Hồ Quang Lịch chỉ huy nhận lãnh trách nhiệm thay thế TĐ6ND tại ngã ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 3/TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh chỉ huy thay thế TĐ5ND tại làng Tri Bưu gần Cổ Thành Quảng Trị.

Mặt trận phía Tây Quảng Trị:
Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm chung quanh Cổ thành và Thị xả Quảng Trị cho lực lượng TQLC, SĐND mở mặt trận mới tấn công quân CSBV trong vùng rừng núi phía Tây thị xả Quảng Trị và phía Nam sông Thạch Hãn, gọi là Động Ông Đô, để ngăn chận sự chuyển quân và tiêu diệt các ổ súng đại bác 122 ly, 130 ly thường pháo vào thành phố chung quanh cũng như yểm trợ cho cánh quân cố thủ của chúng trong thành cổ Đinh Công Tráng.

Ngày 12/8/1972, Ðại Tá Trương Vĩnh Phước LÐT/LÐ3ND mở cuộc hành quân trong vùng trách nhiệm cận dãy Trường Sơn. Việc tiến quân vào vùng nầy rất khó khăn vì rừng núi trùng điệp, càng lên cao càng hiểm trở lại gặp thời tiết khắc nghiệt nên hỏa lực yểm trợ bị giới hạn rất nhiều. Tuy nhiên các chiến sĩ Nhảy Dù vẫn không chùng bước.

Mở đầu chiến dịch, TÐ3ND từ bờ sông Nhung được lịnh tiến chiếm ngọn đồi 118 ở phía Đông căn cứ Barbara. Nơi ngọn đồi nầy địch quân dùng làm đài quan sát theo dõi tất cả mọi hoạt đông quân sự của VNCH trong vùng từ Ái Tử, Quảng Trị đến quận Hải Lăng…

Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù chia thành 2 cánh quân tấn công. Cánh thứ nhất gồm BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội 30 và Đại Đội 33 tiến chiếm đỉnh đồi 118 dễ dàng không gặp một sự chống cự nào của cộng quân, Đại Đội 32 án ngữ làm thành phần trừ bị và giữ an ninh bãi tiếp tế và suối nước. Cánh thứ hai gồm hai Đại Đội 31 và 34 tiến về hướng căn cứ Barbara.. Cánh quân nầy gặp sự kháng cư mạnh mẽ của địch. Sau hai ngày quần thảo Cộng quân rút lui bỏ lại nhiều xác và vũ khí gồm súng cối 62 ly, đại liên 12,8 ly, và hằng trăm khẩu AK 47 và đạn dược.

Ngày 14/8/1972 Ðại Tá Nguyễn Trọng Bảo, Phụ Tá hành quân / SÐND và Ðại Tá Hùynh Long Phi trên đường đến thăm vị trí đóng quân của LÐ1ND đã bị tử nạn trực thăng tại phía Ðông Bắc cầu Mỹ Chánh, trên QL1 (khoảng đại lộ kinh hoàng).

Vùng hành quân của SÐND tái chiếm Quảng Trị cuối năm 1972

Trong ngày nầy, Tiểu Đoàn 3 ND nhận được tiếp tế tại đồi 118, Trung Đội 1/33ND do Thiếu Úy Toàn chỉ huy được chỉ định xuyên rừng mang tiếp tế cho 2 Đại Đội 31 và 34 đang trấn ngự trên lưng chừng núi giữa đường đến căn cứ Barbara..

Đến 6.00 giờ sáng ngày 16/8 Trung Đội 1/33 của Thiếu Úy Toàn vừa trở về căn cứ sau khi phải di chuyển băng rừng suốt đêm thì 2 Trung Đoàn của SĐ308 cộng quân ào ạt tấn công vào vị trí phòng thủ của TĐ3ND trên đồi 118.

Khởi đầu cuộc tấn công, vào lúc 6.00 giờ sáng Cộng quân áp dụng trận địa pháo kinh hồn pháo vào vị trí TĐ3ND sau đó dùng biển người tấn công vào mặt phía Tây căn cứ do 2 Đại Đội 30 và 33 ND trấn thủ. Các chiến sĩ Dù phản công quyết liệt, giao tranh từ sáng đến chiều. Thiếu Úy Lê Ngọc Bản SQTT, Chuẩn Úy Phạm Lê Phong Trung Đội Trưởng/ĐĐ33, TSI Trần Văn Dũng và Hạ Sỉ Truyền Tin Lê Thiều bị tử thương. Thiếu Tá Nguyễn Văn Định TĐP, Đại Úy Phạm Xuân Thiếp Ban 3, Đại Úy Dương Văn Xuân ĐĐT 30, Trung Úy Trần Văn Tâm Phụ tá Ban 3 bị thương. Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ĐĐT 33 bị thương hộc máu và Trung Sỉ Sĩ cận vệ cho Tiểu Đoàn Trưởng lãnh nguyên một quả đạn 75 ly trực xạ bị tan xác. Đến 6.00 giờ chiều, công quân thấy không thắng được và bị thiệt hại nhiều nên rút lui, các chiến sĩ Dù cấp tốc tu bổ lại công sự phòng thủ, kiểm điểm quân số và trị liệu cho thương binh.

Sáng sớm hôm sau 17/8, địch quân tập trung quân đông đảo quyết dứt điểm ngọn đồi 118, vẫn áp dụng chiến thuật tiền trận địa pháo hậu xung biển người. Trước áp lực quá nặng của địch quân, BCH Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù cho Đại Đội 30 di tản tản tất cả thương binh ra khỏi cứ điểm về hướng Bắc. Đại Đội 33 ở lại tử thủ.

Đại Đội 33 Nhảy Dù với quân số chỉ còn lại 70 người, kiên cường chống trả lại. Nhiều đợt xung phong biển người của địch quân bị rơi rụng bên ngoài rào phòng thủ. Đặc biệt ngày nầy Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đánh giặc không pháo yểm cũng không có không yểm, cũng không có tiếp viện, Nhảy Dù chỉ "đánh khô" vậy thôi. (Lý do là thời tiết xấu, hết đạn pháo binh, tiếp tế từ Đà Nẳng chở ra không kịp, còn phi cơ có lẽ cũng hết… đạn luôn). Đến xế chiều, vì áp lực cộng quân quá mạnh và quá đông lại không có pháo binh và phi pháo trợ giúp nên Thiếu Tá Võ Thanh Đồng, TĐT cho lệnh Đại Đội 33 triệt thoái khỏi cứ điểm. Đến 5.00 giờ chiều, cộng quân đã tràn ngập căn cứ. Lúc nầy 2 chiếc Oanh tạc cơ A37 của Không Quân VNCH bay tới oanh tạc ngay giữa đỉnh đồi 118. Đại Đội 33 chỉ còn lại 43 người trong đó có 3 Sĩ Quan là Trung Úy Viên ĐĐT, Chuẩn Úy Đào Văn Oai, Chuẩn Úy Lê Thanh Vân, Trung Đội Trưởng.



Chiều hôm đó, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được rút về ngọn đồi 30 với Đại Đội 32 và sáng ngày hôm sau rút ra Trường Phước, cạnh QL 1 để nhận tiếp liệu và bổ sung quân số. Sau khi được chỉnh bị, TĐ3ND trở lại trận địa án ngữngọn đồi 90 dưới chân núi Động Ông Đô để cho các đơn vị Nhảy Dù khác tái chiếm căn cứ Barbara và Anne.

Ngày 8/9/1972 LÐ3ND điều động TÐ8ND tái chiếm căn cứ Barbara.TÐ8ND chia quân thành hai mũi tấn công ban đêm vào hai phía Ðông và Tây của căn cứ. Ðịch bị đánh bất ngờ khi còn đang ngáy ngủ. 2 Ðại Ðội TÐ8ND đã đột kích vào căn cứ một cách dễ dàng. Rất nhiều tù binh thuộc SÐ324CSBV bị bắt, hơn 20 xe molotova chở đầy lương khô, đạn dược bị tịch thu còn nguyên vẹn cùng nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng. Một Thiếu Úy ND bị hy sinh và một binh sĩ bị thương.

TQLC Tái chiếm cổ thành:
Ngày 28/7/1972 sau khi nhận bàn giao khu vực trách nhiệm từ LĐ2ND, Lữ đoàn 258 TQLC lập ngay phòng tuyến sát với các vị trí của đối phương. Trận chiến càng ngày càng diễn ra khốc liệt. Đại bác Cộng quân ở bờ Bắc sông Thạch Hãn đã pháo kích liên tục, cùng lúc đó, súng cối của Cộng quân từ các vị trí gần Cổ Thành bắn từng đợt hàng trăm quả vào các vị trí chiến đấu của các đơn vị TQLC.

Ngày 9/9/1972 trong khi Sư đoàn Nhảy Dù tiếp tục truy kích các đơn vị CSBV ở phía Tây Quảng Trị, thì dọc theo vùng núi tỉnh Quảng Trị từ phía Tây Nam cho đến phía Tây Bắc, hàng loạt phi vụ B52 trải thảm lửa xuống các vị trí được ghi nhận là có cụm pháo binh và tập trung của Cộng quân. Cùng lúc đó, tại thị xã Quảng Trị, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đồng loạt tấn công CSBV từ nhiều hướng vào Cổ Thành Đinh Công Tráng.

Từ ga Quảng Trị, tiểu đoàn 1 TQLC Quái Điểu do thiếu tá Nguyễn Đăng Hòa chỉ huy đã điều động các đại đội xuất quân tấn công vào khu vực gần bệnh viện Quân Dân Y Hỗn Hợp và khu vực trường Bồ Đề.

Tại ngã ba Long Hưng, tiểu đoàn 2 Thủy quân Lục chiến có biệt danh là tiểu đoàn Trâu Điên do thiếu tá Trần Văn Hợp làm tiểu đoàn trưởng đã tung 2 đại đội tấn công vào các chốt chận của CSBV trong làng Thạch Hãn nằm sát thị xã Quảng Trị về phía Nam, được bao bọc bởi những lũy tre xanh. Lợi dụng từng cụm tre, Cộng quân đã đào hầm theo chữ A và chữ T rất kiên cố để ngăn chận các cuộc tấn công của Việt NamCộng Hòa.

Các tiền sát viên Pháo binh đã điều chỉnh mục tiêu tác xạ cho từng khẩu pháo 105 ly với đầu đạn nổ chậm xê dịch từng 10 mét một (chứ không phải 50 mét theo quy định an toàn khi gọi Pháo binh bắn yểm trợ) để bật tung từng ổ kháng cự của Cộng quân.

Một cánh quân của tiểu đoàn Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung, Duy Tân với sự yểm trợ của Pháo binh và chiến xa M 48 đã tấn công "dọn sạch" các chốt Cộng quân ở bên đường Quang Trung, để từ đây đánh chiếm cụm điểm phòng ngự của Cộng quân ở rạp chiếu bóng Đại chúng và các mục tiêu dọc theo đường Lý Thái Tổ, ở phía Nam Cổ Thành Quảng Trị.

Tại hướng Đông Bắc, các tiểu đoàn 3 và 7 TQLC đã tiến chiếm các vị trí trọng điểm để tiến sát đến Cổ Thành. Tại phía Đông Nam, tiểu đoàn 6 TQLC Thần Ưng (do thiếu tá Đỗ Hữu Tùng chỉ huy) được giao trọng trách phải vào Cổ Thành bằng mọi giá.

Tại phòng tuyến ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Trị, ở khu vực quanh trục lộ tiếp vận của Cộng quân (hương lộ 560), lực lượng tăng cường cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến là liên đoàn 1 Biệt động quân đã gặp sự kháng cự mạnh của Cộng quân khi liên đoàn tung 2 tiểu đoàn bung rộng khu vực kiểm soát về phía Đông. Không quân Việt-Mỹ đã xuất trận để yểm trợ cho Biệt động quân đánh bật Cộng quân ra khỏi trận địa.

Ngày 13/9/1972 Ðại đội 5 tiểu đoàn 2 Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đã diễn ra quanh khu vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. Hai bên đã quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát mà CQ đã biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn TQLC này đã chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội hình tiến chiếm khu hành chánh gồm Ty Bưu Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh trưởng-nơi 1 đại đội Cộng quân đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ. Một cánh quân khác, đại đội 4 làm nỗ lực chính do đại bàng Long Hồ-đại đội trưởng chỉ huy đã tiến quân thanh toán các chốt địch dọc hai bên đường Phan Đình Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt của CQ bố trí tại cơ quan USOM và Tòa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại đội 5 của tiểu đoàn 2 Trâu Điên đã tấn công vào khu vực tòa Hành chánh và Ty Tiểu học Quảng Trị nơi 1 trung đoàn CQ đặt bộ chỉ huy. Do các chốt bảo vệ xung quanh đã bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy CQ tại đây đã phải tháo chạy ra hướng bờ song.



Ngày 15/9/1972 LÐ2ND mở cuộc hành quân tảo thanh VC vùng sườn núi phía Tây, nhằm mục đích mở rộng vùng hoạt động và càn quét các đơn vị Cộng quân lẩn khuất trong vùng cũng như ngăn chận địch tiến xuống vùng đồng bằng ở phía Ðông.

Cùng ngày nầy, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đã dàn hàng ngang đồng loạt xung phong tiến về hướng Tây cổ thành Đinh Công Tráng. Trong đêm 15/9/72, Cộng quân đã pháo dữ dội vào đội hình của hai tiểu đoàn này để yểm trợ cho thành phần CQ đang cố thủ ở đây. Gần rạng sáng, 4 đại đội TQLC nói trên đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của Cộng quân đã chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó đã bị đánh bật khỏi phòng tuyến.

Rạng ngày 16 tháng 9, lực lượng Thủy quân Lục chiến đã đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị xã Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đã bung ra lục soát và triệt hạ các chốt còn lại của CSBV. Đến 8 giờ, một toán Cọp Biển của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho sự toàn thắng của Quân lực VNCH trong cuộc tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.

Sau 4 tháng 16 ngày chiếm giữ Cổ Thành và thị xã Quảng Trị, Cộng quân đã bị đánh bật và tổn thất rất nặng. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 CSBV) với hơn 1,500 quân cố thủ trong Cổ Thành đã bị hạ gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ còn chưa đến 1 tiểu đội (10 người) thoát chạy ra ngoài.

Ngoài trung đoàn Triệu Hãi bị xóa sổ, trung đoàn 48 B thuộc sư đoàn 320 B CSBV- đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số.

Theo ghi nhận của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chỉ trong trận chiến tại trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành, có 2,767 Cộng quân đã bị hạ sát tại trận, 43 địch quân bị bắt sống. Về phía Thủy quân Lục chiến, trung bình mỗi ngày có 150 chiến binh Cọp Biên hy sinh. Chiều ngày 16 tháng 9/1972, sau khi đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị xã và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đã bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự của tàn quân CSBV trong Cổ Thành và nới rộng vùng kiểm soát.

Mặt trận phía Tây Quảng Trị trước ngày ngưng bắn:
Đầu tháng 10/1972, LĐ2ND điều động các đơn vị tái chiếm căn cứ Anne (Ðộng Ông Ðô). Ðể tái chiếm căn cứ nầy TÐ5ND tiến quân bên cánh trái, chạm địch nhiều lần cấp Ðại Ðội tịch thu nhiều đại bác 122 ly, 130 ly hỏa tiển 107 ly và bắt sống nhiều tù binh thuộc các Trung Ðoàn 141 và Trung Ðoàn 165 của SÐ324CSBV. Trong khi đó,TÐ11ND ngăn chận đường tiếp viện của địch quân từ phương Bắc đồng thời bảo vệ cạnh sườn bên phải để cho TÐ7ND làm trục tấn công chính vào đối phương.

Ðộng Ông Ðô (Căn Cứ Anne) là một dãy đồi trọc, rất ít cây cối. Ðứng trên đỉnh đồi ta có thể quan sát từ chi khu Cam Lộ, Ðông Hà đến thị xã Quảng Trị. Trước kia Căn cứ nầy có một pháo đội 155 ly do quân đội Mỹ thiết lập, sau nầy bàn giao lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vào mùa nầy thời tiết ẩm ướt, mây mù bao phủ suốt ngày nên việc tiếp tế và tản thương rất khó khăn. Sau khi VC chiếm giữ khu vực nầy, địch đã thiết lập hệ thống địa đạo cũng như hệ thống đường xá có thể di chuyển và điều động dể dàng bộ binh, cơ giới và chiến xa dọc theo khu vực phía Bắc sông Nhung đến đồi 24 phía dưới chân căn cứ. Bên trong căn cứ cộng quân ẩn núp trong những hầm hàm ếch nên rất khó bị tiêu diệt bằng phi pháo.



Cuối tháng 10, TÐ7ND đã làm chủ tình hình từ khu đồi yên ngựa đến dãy đồi 24 tiến sát quanh chân núi bằng những trận cận chiến đẩm máu, giành từng thước đất, từng chiếc hầm hố cá nhân. Ðến cả tháng sau TÐ7ND mới dứt điểm được căn cứ Anne hoàn toàn, bắt sống 30 tù binh thuộc Trung Ðoàn 66 và Trung Ðoàn 165 thuộc SÐ324CSBV tịch thu trên 300 vũ khí đũ loại kể cà súng cối 160 ly do Nga Sô chế tạo. TÐ7ND bị thiệt hại mất khoảng một Ðại Ðội. Sau đó đượcTÐ6ND lên thay trấn giữ căn cứ, TÐ7ND lui về tái trang bị và bổ sung quân số.

Ðầu tháng 11/1972, sau khi thay thế đơn vị bạn, TÐ6ND điều động một Ðại Ðội trấn đóng tại đồi 24 cách căn cứ Anne khoảng 1km để chế ngự khu vực đường thông thủy cũng như quan sát cả hai mặt Ðông Tây.

Ðể giành lại những vị trí đã bị Nhảy Dù chiếm giữ Công quân tung SÐ308CSBV với chiến xa yểm trợ liên tiếp trong 2 tuần lể tấn công vào căn cứ Anne. Nhưng TÐ6ND đã phản công quyết liệt và gây thiệt hại nặng nề cho đối phương, hơn 2 Tiểu Ðoàn cộng quân đã bị loại khỏi vòng chiến. 2 ÐĐT/TÐ6ND bị thương, khoảng 150 HSQ & BS bị thương vong.

Ðồng thời để yểm trợ cho lực lương cộng quân tấn công vào căn cứ Anne, nhằm cắt đứt nguồn tiếp liệu cho TĐ6ND. SÐ324CSBV tung một Trung Ðoàn tấn công vào vùng phụ cận ở mặt phía Ðông là dãy đồi 90 phía đưới căn cứ Barbara do TÐ3ND trấn đóng. Trận đánh tại đồi 90 rất khốc liệt. BTL/SÐND đã tăng cường TÐ8ND vào vùng hành quân cho LÐ2ND. Sau hai ngày tác chiến TÐ8ND đã chiếm giữ vị trí chiến lược 18 giữa TÐ3ND và TÐ6ND. Nhiều hầm vũ khí cộng quân đã chôn giấu tại đây như đạn súng cối 82 ly, 62 ly, hỏa tiển 107 ly, lựu đạn và đạn dược đũ loại khác.

Giữa tháng 12/72, TÐ8ND tiến đánh căn cứ Suzie , khoảng 3 km phía tây căn cứ Anne và mở rộng vùng hoạt động kiểm soát đến bờ sông Thạch Hãn.

Ðồng thời TÐ2ND cũng được điều động tấn công tái chiếm vùng Ðộng Tiên cách Suzie khoảng 4 km về phía Tây Nam. Sau một tuần hành quân, TÐ2ND đã càn quét và làm chủ tình hình, tịch thu nhiều vũ khí và nhiều kho lương phạn như cá hộp, lương khô do Trung Cộng sản xuất.

Ðến cuối tháng 12/72 lực lượng Nhảy Dù làm chủ tình hình dọc bờ phía Tây dãy Trường Sơn. Vùng trách nhiệm của SÐND hoàn toàn được yên tĩnh trước khi hiệp định Ba-Lê được ký kết để người bạn đồng minh "dĩ đại"của VNCH được "tháo chạy trong danh dự."

Tháng 3/1973 Sân bay Hòa Mỹ (tức căn cứ Evan do LĐ2ND trấn đóng) tiếp nhận các phi cơ C130 đáp xuống để chở các tù binh trao trả cho VC.

Tài liệu tham khảo:
- The Easter Offensive Of 1972 của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, TTQS/BQP/HK xuất bản năm 1980, Việt dịch Kiều Công Cự.
- Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam với cuộc Tổng Công Kích Tổng Nổi Dậy 1972 của CSBV tại Vùng I CT.
- Tài liệu tổng hợp của Cựu Trung Tá Trần văn Hiển TP3/SĐ/TQLCVN trên trang web www.tqlcvn.org.
- Mặt Trận Cổ Thành Quảng Trị của Mũ Đỏ Trịnh Ân.
- Thiên Hùng Ca QLVNCH của Phạm Phong Dinh xuất bản lần thứ nhất năm 2004.
- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản năm 2001
- Đời Chiến Binh của Thiếu Tá Nhảy Dù Trương Dưởng, Tác giả xuất bản 15/5/1999.
- Lời tường thuật của Trung Úy Thạch Hớn, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1/52ND hiện cư ngụ tại OC, CA.
- Lời tường thuật của Đại Úy Nguyễn Văn Qúi, Trưởng Ban 3 /TĐTT/SĐND hiện cư ngụ tại San Diego CA.
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.

Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933

Chúng tôi rất mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì vấn đề thời gian đã trên 32 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. email: votrungtin@hotmail.com

Truyền Thống Của Đảng Cộng Sản Việt Nam


Truyền Thống "Thượng Đội Hạ Đạp" Của Cộng Sản Việt Nam.
Trương Minh Hòa 

"Công An sức mạnh sơn hà.
Ngoại bang không đánh, đánh cụ già chết queo"

Đảng Cộng Sản Việt Nam được thai nghén ở Liên Sô, sanh ra ở Việt Nam ngày 3-2-1930; người cầm đầu đảng cướp có nguồn gốc ngoại lai nầy là Hồ Chí Minh, một tên "du thủ du thực" bản chất lưu manh, láu cá, hung ác, dâm ô, được thời làm vua không ngai ở miền bắc, đến chết được đồng bọn xây lăng thờ phụng còn hơn cả những anh hùng dân tộc. Một tên gian manh, ác độc hơn cả bạo chúa phong kiến như thế, nhưng bề ngoài thường mang bộ mặt đạo đức giả, hiền từ, yêu nước để lừa bịp cả một dân tộc trong nhiều thập niên: "biết đâu những kẻ lừa thầy phản bạn thường hay giả dạng kẻ nhân từ", nên nhiều thế hệ đã bị lầm, hàng triệu người chết oan uổng, sau nầy mới vỡ lẽ "Ái Quốc hóa ra Việt gian" qua thành tích suốt đời làm tay sai cho Khối Cộng Sản Quốc Tế, trước sau như một, dù sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi; tức là từ ngày đảng Cộng Sản có mặt trên đất nước Việt Nam cho tới ngày nay, chủ trương bán nước, hại dân là chính sách trấn đảng, không bao giờ thay đổi, là nền tảng của tập đoàn Hồ Chí Minh nằm trong tư tưởng của chủ nghĩa Marx Lein; chỉ khác nhau là ngày xưa đảng Cộng Sản giết người: bằng mã tấu, đập đầu bàng búa, mổ bụng dồn trấu, xỏ xâu trôi sông, đi mò tôm....thì ngày nay đảng bắn người bằng súng Ak, bỏ đói, tra khảo, lao động cho đến chết mà còn ngang ngược lên lớp"giáo dục" cho Liên Hiệp Quốc, ngay cả siêu cường Âu Châu, Hoa kỳ với định nghĩa nhân quyền khác: "different issue".

Cái đểu" cơ bản" của tên Việt gian Hồ Chí Minh là suốt đời không vợ con, để lo cho dân cho nước, làm cách mạng vô sản chân chính....nhưng ngay trong nội bộ cấp trung ương đảng không còn lạ gì "Bác Hồ" và sau nầy dân chúng mới biết: số vợ con của Hồ khó thống kê cho hết, không biết bao nhiêu, vì hắn lấy việc chơi bời làm "nghiệp chuyên" từ Nga, Tàu...ngay cả trong lúc trốn chui trốn nhủi trong hang chồn Pác Pó cũng có cái gì "chút chút" để cho Bác làm "kách mệnh" lẫn "cách miệng", mà cô sơn nữ Nông Thị Xuân, đáng tuổi cháu nội của hắn, được coi là mối "tình già trên đồi cỏ non" với tuổi tác chênh lạc hơn 40, là một trong số nhiều phụ nữ có mối quan hệ "hữu cơ" mật thiết vớ i"lãnh tụ vĩ đại" nên sau nầy bị chết oan mạng do lỡ trao thân nhằm tướng cướp, vì lỡ dại đòi làm bà chủ tịch nước; những quá trình "chơi lén, Đéo bậy, Đ...chạy" cực kỳ nghiêm túc và chất lượng, mang đầy tính đạo đức cách mạng của Bác đã được một đồng chí cật ruột là Trần Huy Liệu nói với các tên khác trong một lần gặp nhau: "Bác có tài khẩu quyền". Trong lãnh vực hành chánh, thì Bác không có con chính thức, đăng ký đàng hoàng trong giấy khai sanh, nhưng sơ sơ cũng có gã Nguyễn Tấn Trung, tức là Nông Đức Mạnh hiện là tổng bí thư. Từ Phong ở Trung Hoa, con của bà Mao Từ Mẫn, có bà con với Mao Trạch Đông; đứa con nầy từng sang Việt Nam thăm cha. Nữ kịch sĩ Hồng Tuyến Nữ (không rõ mẹ là ai?). Mẹ con bà Đỗ Thị Lạc bị giết chết...nhưng cô gái lai Pháp là Louis Daguière đặc biệt, sang thăm cha lần cuối tại Dinh Chủ Tịch vào năm 1969, là người được Hồ Chí Minh trăn trối trước nhắc nhở tên trước khi từ giã ngai vàng ở thế gian để đi xuống thiên đàng Cộng Sản đoàn tụ với tổ tiên của hắn là Marx, Lenin.

"Bác đã lên đường theo Tổ Tiên.
Mác-Lê thế giới Người Hiền".
Hồ và nữ cán bộ hộ lý
Ăn. . . rồi. . . chơi
(Thơ Tố Hữu)

Đảng Cộng Sản là con đẻ ngoại bang, nên tôn thờ ngoại bang còn hơn cả tổ tiên vua Hùng, anh hùng dân tộc; ngược lại thì các đàn anh "thân thương, vĩ đại" coi đảng là công cụ và Hồ Chí Minh là thứ chó săn trung thành tuyệt đối, dù từng bị chủ hành hạ, khinh miệt, cũng liếm gót, vẫy đuôi nguyện "tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Marx Lenin" và những lãnh tụ Cộng Sản có thế lực nhất. Dân miền Bắc chán ngán cái cảnh vong bản, vong thân của tập đoàn nầy, nên có bài thơ ghế đá rất ý nghĩa, là "phản ánh" trung thực bản chất tôn thờ ngoại bang:

"Hùng Vương ngồi dựa gốc Đề.
Chờ xin giấy phép để về Phong Châu.
Cháu con chúng nó đi đâu?
Trông lên chỉ thấy thằng râu xồm xoàn.
Giống gì chẳng phải Văn Lang.
Hỏi ra mới biết là thằng họ Lê.
Hùng Vương nước mắt đầm đề.
Gạt ngang dòng lệ, chửi thề một câu:
Công ta dựng nước bất lâu.
Nó quên không cúng.
Rước đồ CHÓ ĐẺ ở đâu về thờ".

Hồ Chí Minh là loại "thượng đội hạ đạp", được toàn đảng coi là đạo đức cách mạng, đi từ "Nịnh đến Hót" quan thầy Nga Sô lẫn Trung Quốc. Nhiều đảng viên Cộng Sản cũng học hỏi, theo gương Bác, như đại tá Bộ Đội Cộng Sản Bắc Việt là Bùi Tín, được coi là người rất quí mến chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, hắn tiếp thu, học hỏi theo đúng tư tưởng của Hồ, hết lòng trung thành với đảng, hiếu với Bác trong thời gian phục vụ, thành tích nịnh của Bùi Tìn được đảng chú ý, nên ở miền Bắc, hắn được dân chúng đặt hổn danh là THỢ HÓT, nhờ vậy mà hắn được lên quân hàm nhanh, làm phó chủ nhiệm nhật báo Nhân Dân một thời.

Trong cuộc chiến Việt Nam, khi còn làm đầy tớ trung thành với hai quan thầy, đảng bắt dân gọi hai nước đó có kèm theo cái đuôi "vĩ đại" để tỏ lòng tôn thờ ngoại bang một cách tuyệt đối. Thành tích nịnh của Hồ thật trơ trẽn, ngay cả giới nịnh thần trong triều đình phong kiến ngày xưa, thành phần nịnh để được việc làm, bợ đít chủ ngày nay cũng phải ngưng vì "nịnh quá nhiều mà nhận được chẳng bao nhiêu", đương nhiên kẻ nịnh không có tư cách của một con người. Khi vừa mới sang Nga Sô để học cách lừa đảo, khủng bố, mục đích yêu cầu là muốn trở thành tay sai trung thành cho ngoại bang, Hồ Chí Minh đến Nga vào ngày 21-9-1924, chân ước chân ráo, chưa ổn định nếp sống mới, hắn liền đến cổng điện Cẩm Linh, nằng nặc xin xỏ lính gác cổng cho gặp sư tổ Lenin để thỏa lòng ngưỡng mộ và cũng để lấy điểm để được lọt vào mắt xanh của quan thầy. Hồ hấp tấp, nông nổi, không tìm hiểu tình hình, nhìn trước ngó sau nên bị hố to. Thực ra thì Stalin đã lên thay Lenin chức Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên Sô từ ngày 3-4-1922, tức là trước đó gần 2 năm (do mang chứng phong tình Giang Mai do hoang dâm, Lenin phải bàn giao quyền hành lại cho đàn em). Một sự thật nữa là Lenin cũng vừa từ giã cõi đời trước khi Hồ Chí Minh đến vài giờ. Bạo chúa Stalin nổi tiếng khinh thường tất cả các chư hầu Cộng Sản, ngay cả Mao Trạch Đông còn bị cho nằm chờ hàng tháng mà không được yết kiến vào năm 1949 sau khi làm chủ lục địa Trung Hoa, nên đành hậm hực quay trở về Bắc Kinh, mang mối hận bị mất mặt nên sau nầy tìm cách trả thù. Đương nhiên là tên cắc ké Hồ Chí Minh sang học làm ăn cướp, khủng bố, thì làm sao Stalin mời vào gặp mặt; từ dạo ra trường đại học Đông Phương, lên đường hoạt động tích cực cho đế quốc Nga ở Á Châu, rồi làm chủ tịch nước, sau khi vâng lịnh 2 quan thầy Nga, Tàu để cấu kết với thực dân Pháp chia đôi đất nước qua hiệp định Geneve 1954, Hồ Chí Minh không bao giờ được Stalin cho gặp mặt để chụp tấm hình lưu niệm treo ở Dinh Chủ Tịch nhằm đánh bóng mối tình hữu nghị Việt-Sô đời đời bền vững; đương nhiên là không mời sang "tham quan hữu nghị" dù là chủ tịch đảng, nhà nước, lãnh đạo nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Làm tay sai mà không được chủ đoái hoài, theo một giả thuyết cho là cái đảng Cộng Sản Việt Nam cũng chưa được Stalin nói riêng và Liên Số chấp nhận nằm trong khối Cộng Sản Quốc Tế, nên Hồ đành xài tên giả: "đảng Lao Động Việt Nam"? Cũng có giả thuyết cho là đảng Cộng Sản cải danh để lừa đảo thế giới và dân miền Nam?. Đến khi Stalin qua đời, được thi nô Tố Hữu khóc thảm thiết hơn ông cố chết: "thương mình thương một, thương ông thương mười". Hồ Chí Minh van xin được đi dự đám ma của thầy hắn vào ngày 5-3-1953, nhưng đảng Cộng Sản Nga không cho, đành hậm hực cài lời phân ưu... dù Hồ Chí Minh là kẻ cúc cung tận tụy làm tay sai cho Nga trong suốt thời gian Stalin cầm quyền ở Mạc Tư Khoa và sau nầy.

Đối với "sư thúc Trung Cộng", Hồ Chí Minh cũng chơi để lợi dụng, vì đã ước hẹn làm tay sai cho Nga từ mới lập nghiệp; sau vụ Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Marx Lenin là Hoàng Minh Chính và thiếu tướng Đặng Kim Giang đảo chánh hụt để cho Hồ buông tay với Trung Cộng và theo hẳn Liên Sô bị thất bại, thì Hồ Chí Minh tỏ ra linh động hơn, thân Nga nhưng vẫn còn quan hệ hữu nghị "môi hở răng lạnh" với Mao Trạch Đông để nhận viện trợ hai phía. Từ lúc đầu, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã giúp Hồ Chí Minh rất nhiều trong trận Điện Biên Phủ với phái đoàn quân sự, chỉ đạo do Vi Quốc Thanh cầm đầu. Nhờ Mao chiếm được lục địa năm 1949 nên dốc sức giúp Hồ Chí Minh đánh Tây, nhân dịp nầy áp dụng chiêu "thuận thủ thu dương" để dắt luôn con chó Hồ làm tay sai; nào ngờ Hồ trở mặt, mất hàng tỷ Mỹ Kim chiến phí, biết bao công lao thành mây khói, khiến Mao giận lắm mà không làm gì được, do ngại đàng sau có ông anh Liên Sô. Để cho tình hữu nghị tay ba được yên, Hồ Chí Minh nhận làm đầy tớ hai ông chủ:

"Ai về nhắn với Hồ Chủ tịch.
Vừa được lòng Nga, đặng bụng Tàu".

Nên Hồ Chí Minh đặt vị trí "Ông Trung Quốc" ngang với "Ông Liên Sô" về mặt ngoại giao, đong đưa hai thế lực Cộng Sản lớn nhất để nhận viện trợ vũ khí, chiến cụ với mục đích làm tay sai, chớ chẳng phải "giải phóng" hay "đánh Mỹ cứu nước" gì cả. Người dân miền Bắc trở lại thời kỳ sau tháng 8 năm 1942, lúc quân đội Thiên Hoàng Nhật tràn vào Đông Dương, cùng với thế lực thực dân Pháp, tròng 2 ách vào một cổ. Sau 1954, miền Bắc cũng chịu 2 ách "Liên Sô và Trung Cộng", được Hồ lếu láo: "ông Liên Sô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em viện trợ không hoàn trả". Nhưng sau 1975, dân Việt Nam phải nai lưng ra trả nợ cho mấy nước" xã hội chủ nghĩa anh em cật ruột "bằng sản phẩm, tiền và bàng sức lao nô....lòi ra cái đuôi chồn nói láo.

Vì quí mến và sợ mất lòng ông Trung Quốc nên nhiều nơi có những bích chương ca tụng lãnh tụ quá đáng, ở chợ Đồng Đăng có tấm bản lớn đề: "chủ tịch Mao Trạch Đông MUÔN NĂM". Câu chuyện về một cậu bé mới 14 tuổi tinh nghịch thêm hai dấu vào thành "Chủ Tịch Mao Trạch Đông MUỐN NẰM", thế là cậu bị đảng Cộng Sản Việt Nam kết tội phản động (ngày xưa thời vua là phạm thượng) bị tù đến 18 tuổi mới được hưởng chính sách khoan hồng; trên trái đất nầy, ít có chế độ nào đối xử với dân như thế, các nước dân chủ thường dùng những bản án nhẹ đối với thiếu nhi, vị thành niên.

Hồ Chí Minh chiều ý Mao, sửa tên Ải Nam Quan thành Mục Nam Quan, rồi khi Trung Cộng ngang ngược công bố chủ quyền của họ kéo dài đến quần đảo Hoàng Sa, thì 10 ngày sau,
tức là ngày 14-9-1958, thủ tướng có đôi môi đẹp nhất nước, được dân đặt tên là VẨU là Phạm Văn Đồng đã ký văn bản công nhận chủ quyền của Trung Cộng trên phần lãnh thổ thuộc đất của nước mình (tên họ của Phạm Văn Đồng từ 1958 nằm chung trong danh sách những kẻ mãi quốc cầu vinh trong lịch sử, ngàn đời nhục dòng họ). Thật ra thì tên Vẩu Đồng dù có ba đầu sáu tay cũng không dám ký văn bản bán nước nầy, kẻ chủ mưu là Hồ Chí Minh, sau khi Đồng ký bản văn nầy thì Hồ biện minh là: ông Mao cho mình quá nhiều, mình cho lại mấy hòn đảo chỉ có phân chim thôi, có gì đâu (ý Hồ cho là Việt Nam khôn ngoan, cho đồ bỏ mà nhận nhiều súng đạn của Mao); trong lịch sử Việt Nam, việc cắt đất tổ tiên dâng cho ngoại bang là một trọng tội, lịch sử muôn đời ghi nhớ, nguyền rủa. Rải rác trong chiều dài lịch sử, thời nào cũng có anh hùng và cũng có Việt gian như Kiều Công Tiển, Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống...và nay tên Việt gian Hồ Chí Minh là tệ hại nhất, làm tay sai ngoại bang, cắt đất dâng Tàu từ 1958, đến nay đàn em tiếp tục dâng thêm hàng ngàn cây số biên giới, hàng chục ngày cây số vuông biển, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, trong tương lai, Việt Nam cũng sẽ trở thành đất Trung Cộng với hình ảnh "một nước Trung Hoa với hai chế độ" như Hồng kông được áp dụng sau năm 1997, là viễn ảnh u ám cho đất nước Việt Nam với sách lược bành trướng như "tầm ăn dâu" của Trung Cộng, nay đã rõ nét. Ngày xưa Trung Hoa xâm lược các nước lân bang bằng vũ lực, thì ngày nay họ chiếm nước khác bằng GIẤY, là một hình thái xâm lược "hiện đại" đang được Bắc Kinh áp dụng.

"Khôn nghề bán nước là khôn dại.
Dại chống ngoại xâm, ấy dại khôn".

Trung Cộng là thầy của đảng Cộng Sản Việt Nam, ở sát nách, nên còn lạ gì đảng nầy là một tập đoàn "thượng đội hạ đạp", có truyền thống liếm chân ngoại bang từ thuở mới lập đảng, qua cái gương "xạo ke, xạo xe, đại xạo xe-bán nước, bán nước, đại bán nước" của chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, sau nầy, việc Trung Cộng lấn lướt tới, uy hiếp ngư dân Việt Nam, bắn chết nhiều đợt ngư phủ, bắt người và đòi nạp tiền chuộc, cứ thế mà tiến lên, khi biết được tận tim đen bản chất của tập đoàn đàn em Hồ Chí Minh là hèn. Hành động của Trung Cộng chẳng khác nào cướp biển, là thứ cướp biển "hiện đại" với lực lượng hải quân, có bộ ngoại giao sau lưng, không ai dám đụng tới. Thế mà Việt Nam im lặng, hay có khi dân chúng phản ứng mạnh thì bạo quyền hụ hợ vài tiếng cho có lệ, bị lấn lướt mà không dám thưa kiện, thế mới nhục nhả. Trước đây, khi hai bên thù nghịch với nhau, bị Trung Cộng dạy cho bài học vùng biên giới vào năm 1979, đảng Cộng Sản Việt Nam cũng nín khe, không dám đưa ra khiếu nại ở Liên Hiệp Quốc; nay thì tình hữu nghị thắt chặc, tập đoàn Bắc Bộ Phủ càng nhu nhược hơn, chắc chắn họ không bao giờ dám làm gì, cứ đàm phán song phương cho qua chuyện và tiếp tục bị ép dâng đất, cứ thế mà phát huy tới khi nào nước Việt Nam trở thành một vùng đất tự trị nằm trong nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thì công lao ngàn năm dựng, giữ nước của tiền nhân tan tành như mây khói chỉ vì đám phản nước hại dân nầy gây ra.

Trên thế giới, các nước có luật bảo vệ kiều dân mỗi khi có rắc rối, ngay cả những kẻ buôn bán bạch phiến cũng được nhiều chính phủ lưu tâm, can thiệp với nước giam cầm với khả năng và quyền hạn; nước Úc đã cứu nhiều người Úc gốc Việt thoát án tử hình khi bị bắt ở Việt Nam vì tội chuyển vận ma túy. Hải Quân Trung Cộng bắn chết ngư dân Việt Nam ngay trên lãnh hải của mình, vì Trung Cộng được đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam hiến tặng vùng lãnh hải, những công dân nước Việt bị đưa làm lao nô ở Mã Lai, Nam Dương, Đài Loan, Nam Hàn....mỗi khi bị hà hiếp thì nhà nước lấy câu "im lặng là vàng", ngay cả một số kiều dân Việt kẹt giữa hai làn đạn Lebanon và Do Thái, cũng không được bộ ngoại giao Việt Nam giúp đỡ, đảng chỉ biết đưa người làm lao nô để lấy tiền, là đạo đức cách mạng "đem con bỏ chợ". Mới đây trong kỳ Á Vận Hội, tổ chức ở Thái Lan, trọng tài xử ép lực sĩ đô vật Việt Nam nhiều lần, lộ liễu, thế mà Việt Nam vẫn nở nụ cười cầu tài, sau khi trọng tài tuyến bố là sai lầm nhưng vì muốn dành chiếc huy chương cho nước chủ nhà. Tức là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ là con rồng giấy Á Châu, ngay cả Thái Lan còn ăn hiếp.

Đối với dân Việt Nam trong nước, đảng thẳng tay đàn áp, cướp của, giết người, mạnh tay các nhà đối kháng dân chủ ôn hòa, đàn áp tôn giáo; nếu cần bắt những nhà đấu tranh để làm con tin, gây áp lực với Hoa Kỳ, Liên Âu để kiếm tiền...dân oan khiếu kiện càng gia tăng ở các thành phố lớn Saigon và Hà Nội, nhưng đảng bình chân như vại, đúng là lũ khôn nhà dại chợ. Họ coi chuyện cướp của, giết người là chính sách của đảng, nhờ những đảng viên lấy được đất của dân, giàu có, ăn trên ngồi trước là thành phần tuyệt đối trung thành với đảng để được ban cấp quyền ăn cướp hầu gia tăng tài sản càng nhiều. Sau nhiều năm lấn đất, ép những tên "thượng đội hạ đạp" dâng thêm đất, đảo, vùng biển. Nhà cầm quyền Trung Nam Hải mới đây công khai thành lập một huyện thuộc tỉnh Hải Nam, bao trùm ba quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Sa là một thực tế đau lòng cho dân tộc. Vẫn như cũ, đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ phản ứng chiếu lệ bằng vài ngôn từ ngoại giao, như họ từng làm trong nhiều vụ ngư dân bị hải quân Trung Cộng giết, bắt làm con tin. Tuy nhiên, lần nầy thì tinh thần dân tộc trổi dậy, nên ở Hà Nội có hơn 250 sinh viên biểu tình trước sứ quán Trung Cộng và ở Saigon cũng diễn ra ở lãnh sự nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, theo một người trong nước là nhà báo Trần Dũng Tiến, có mặt trong đoàn biểu tình cho biết trên đài phát thanh SBS trong buổi phát thanh ngày 11-12-2007, con số người lên tới khoảng 1 ngàn.

Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bán nước từ năm 1958, đến nay nước Việt Nam bị mất nhiều đất, biển, hải đảo, trong tương lai nếu đảng nầy còn cầm quyền thì sớm muộn gì nước Việt Nam cũng trở thành một huyện tự trị (trên nguyên tắc hành chánh) như Tây Tạng, Hồng Kông.....vị trí chiến lược của Việt Nam hiện nay không đáng kể, khi Trung Cộng vói bàn tay lông lá thu được Miến Điện, có ảnh hưởng đến các nước trong khu vực như. Miên, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Tân Gia Ba....Việt Nam chẳng những không trở thành nút chận chống sự bàng trướng của"Bọn lưu manh bành trướng Bắc kinh", có thể được Hoa kỳ sử dụng trong tương lai, trái lại đang bị Bắc Kinh bao vây và chỉ có con đường ra biển Đông, nhưng Trung Cộng lại thọt hai ngón tay vào yết hầu là quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, hết phương cựa quậy. Người ta còn nhớ trong cuộc xung đột biên giới Việt-Trung, Trung Cộng ra thông báo cấm tất cả những máy bay nào xuất hiện trên không phận của 2 quần đảo trên, nếu vi phạm là bắn hạ ngay, tức là hải đảo, vùng biển đã bị mất từ lâu.

Trong một gia tộc, có đứa con hư hỏng, mê bài bạc, ăn chơi, đĩ điếm, bán dần đất tổ tiên để thỏa mãn thú tiêu khiển, thì người trong gia tộc phải có thái độ quyết liệt, dứt khoát để ngăn chận. Đầu tiên là tước quyền pháp lý để cho hắn không có thể tiếp tục bán đất đợ nhà cho ngân hàng hay người khác. Do đó,
đối với tình hình nguy hiểm hiện nay, công việc đầu tiên của dân Việt Nam là "LÔI CỔ BỌN CỘNG SẢN VIỆT NAM" ra khỏi chính quyền càng sớm càng tốt, để chúng không còn đủ tư cách pháp nhân để ký kết những hiệp ước dâng đất cho Trung Cộng nữa, kẻ thù gần là Đảng Cộng Sản Việt Nam, cần phải "giành lấy chính quyền về tay nhân dân" trước khi nói đến chuyện chống ngoại xâm. Cũng giống như quan điểm của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất: giải quyết quốc nạn trước, khi quốc nạn hành thông, là pháp nạn đương nhiên được giải trừ. Nếu không có được một chính quyền dân chủ, thì đừng nói đến chuyện lấy lại đất đai mà Trung Cộng đã chiếm từ năm 1958 đến nay.

Người Việt hải ngoại rất đau lòng, nhưng không thể làm gì, sức mạnh lật đổ bạo quyền Cộng Sản nằm trong tay của hơn 84 triệu người trong nước, chứ không ai cứu mình cả. Những đảng viên Cộng Sản thức tỉnh, có chút lương tri, nhìn thấy nguy cơ mất nước gần kề, hảy sát cánh cùng đồng bào, đứng chung hàng ngũ để cũng nhau "diệt Cộng cướp nước", họ sẽ được đồng bào tha thứ và chấp nhận trở thành người dân nước Việt; bằng ù lì, thì khó ăn nói sau khi đảng Cộng Sản sụp đổ, đương nhiên đắc tội với dân tộc, lịch sử. Người Việt hải ngoại chỉ có khả năng vận động chính trị để hổ trợ cho đồng bào trong nước đứng lên làm cuộc cách mạng quét sạch lũ bán nước Cộng Sản, đồng thời những chất xám hải ngoại cũng có khả năng tìm hiểu luật công pháp quốc tế để làm luận điểm đòi lại những vùng đất đai bị đảng Cộng Sản dâng cho Trung Cộng để được bảo kê quyền lực và ngày nay hơn 300 tên đảng viên cao cấp (kể cả sư quốc doanh Thích Trí Tịnh) trở thành triệu, tỷ phú đô la Mỹ. Chìa khóa nằm trong tay người dân, đảng Cộng Sản không do dân bầu ra, chỉ là thiểu số tự phong trong cơ cấu nhà nước, nên họ không có tư cách pháp nhân là đại diện cho quốc gia để ký kết bất cứ hiệp ước, văn bản nào với quốc tế. Hãy cùng nhau làm cuộc cách mạng, cứu nước, đầu tiên là giựt sập bọn bán nước cho ngoại bang; bản chất của đảng Cộng Sản là khiếp nhược, truyền thống theo như tư tưởng Hồ Chí Minh, sự phản ứng chiếu lệ của đảng rất dễ hiểu, vì đảng đả nhận Trung Cộng bảo trợ, đâu dám nói mạnh.

"Nay chẳng lẽ ngồi đàn những bản.
Vong quốc ca cho bạn bè nghe.
Chi bằng ta hãy hợp quần.
Cùng nhau đoàn kết, đặng khoe sức hùng"
(đức Thầy Huỳnh Phú Sổ).

Đảng Cộng Sản Việt Nam có quá trình làm tay sai ngoại bang: thời Tàu Tưởng cử tướng Lư Hán sang giải giới Nhật năm 1945, Hồ Chí Minh phát động tuần lễ vàng toàn quốc, thu hơn 3 tấn, dâng cho Tàu để được sự ủng hộ, kiếm thêm vũ khí (Hồ còn làm một bàn hút á phiện bằng vàng y để tặng tướng Tàu). Sau nầy, thờ Mao Trạch Đông, sẵn sàng đem dâng tất cả những thứ gì, kể cả đất đai cho quan thầy; điển hình là thời Hồ Chí Minh còn sống, lúc Hoa Kỳ dội bom miền Bắc để trả đũa hành động gây chiến ở miền Nam, Mao Trạch Đông lấy cớ sang giúp cho Việt Nam làm hầm trú ẩn bom đạn cho đám con cháu đảng viên trung ương, nhưng mục đích tối hâu là để đào kho vàng do Tôn Sĩ Nghị hốt hoảng bỏ chạy vào năm 1789, khi vua Quang Trung đánh thần tốc, mang về không kịp, nên chôn ở núi Thiên Thai. Mao Trạch Đông là tên đại ma đầu, hắn biết rất rõ cuộc đời bê tha của đàn em Hồ Chí Minh,
ngay từ thời chiến tranh với Pháp, lợi dụng tình hình rối ren của Việt Nam, quân của Mao đã dời nhiều cột mốc biên giới sâu vào lãnh thổ, chứ chẳng phải đợi đến sau nầy thực hiện việc cắm lại móc biên giới mới mất đất. Hồ Chí Minh biết rõ nhưng ngậm bồ hòn làm ngọt, lý do là Mao Trạch Đông hù dọa sẽ phanh phui đời sống tình dục của Hồ cho thiên hạ biết, chỉ có nước độn thổ mới hết nhục. Một việc làm Hồ sợ nhất là Mao từng Hồ sang Trung Nam Hải để ăn chơi với những thiếu nữ vị thành niên, thưởng thức những món cao lương mỹ vị, hút á phiện...trong thú vui vua chúa. Những chuyện nầy là thứ tối kỵ đối với thần tượng "cha già dân tộc", nên Hồ đành phải tuân theo bất cứ yêu sách nào của Mao Trạch Đông đưa ra, chắc có lẽ vụ Phạm Văn Đồng ký kết văn bản năm 1958 cũng là có lý do sâu xa bên trong?. Sau nầy, không biết tên tổng bí thư gốc bộ đội ngố Lê Khả Phiêu có sang Trung Cộng ăn chơi theo kiểu" Đế vương" do đàn em của Mao chiêu đãi, gài bẩy, nên ký kết nhiều hiệp ước dâng đất, đảo, vùng biển cho Tàu từ năm 1999 đến 2000?. Hán Tộc ngoài nghề cầm nhầm bản quyền, làm hàng giả, hàng nhái; còn có mặt mạnh là đi lòn cửa sau rất điêu luyện, nên các nước có nạn tham nhũng cao thì giới tài phiệt Tàu có nơi làm ăn khắm khá, rồi bàn tay lông lá của Bắc Kinh mò tới khuynh đảo cả chính quyền. Ngay cả Hoa Kỳ, người ta đặt nghi vấn về những món tiền vận động ứng cử của ông Bill Clinton là do tình báo Trung Cộng đi lòn phía sau qua người giao dịch là John Huang kết thân với ông ta, nên sau nầy chính sách của ông Bill đối với Trung Quốc là "giơ cao đánh khẽ"?. Hoa Kỳ mà còn như thế, thì tập đoàn Cộng Sản Việt Nam, vốn là thành phần tham lam vô chừng, chắc chắn khó tránh khỏi bàn tay lòn trôn của Trung Cộng, nên đảng lỡ ngậm tiền thì làm sao dám há miệng phản đối!

Hãy nhìn những dân tộc trong khu vực: Tân Gia Ba đất nhỏ, dân không đông, Nhật Bản diện tích xấp xỉ Việt Nam lại thiếu tài nguyên, họ tan tác sau đệ nhị thế chiến. Thế mà sau thời gian vài thập niên, trở thành những con rồng Á Châu, được thế giới và các nước trong khu vực kính nể. Trong khi Việt Nam vẫn là con rồng giấy, cũng vào WTO, rồi hội viên không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Nhưng uy tín là con số không, nguyên do chủ yếu chính là cái đảng cướp Cộng Sản và tên lãnh chúa Hồ Chí Minh gây ra. Dân tộc Việt Nam không hèn, nhưng chính quyền nhu nhược là nguyên nhân đưa đến nhiều thiệt thòi quyền lợi.

Trong quá trình lịch sử, dân tộc Việt Nam từng đánh bại tất cả những thế lực xâm lăng từ phương Bắc để bảo toàn lãnh thổ. Khiến giống Hán Tộc tức giận vì không chiếm được đất và đồng hóa như họ đã thành công với nhiều sắc tộc lân bang. Người Việt Nam kính trọng những bậc anh hùng dân tộc, nhưng chỉ có Hồ Chí Minh là kẻ mất dạy, dám sánh hành động phản dân hại nước của hắn như Đức Thánh Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên qua một bài thơ đầu ngạo mạng khi hắn đi ngang qua đền Kiếp Bạc.
Ngày nay chỉ có Nguyễn Gia Kiểng, người cầm đầu nhóm Thông Luận (nay là Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên) trân tráo nhục mạ anh hùng dân Tộc Quang Trung trong quyển Tổ Quốc Ăn Năn. Chắc chắn quyển sách nầy được Bắc Kinh đánh giá cao là trả thù dùm cho tổ tiên của họ? Người viết đề nghị tác giả nên tặng quyển sách nầy cho các chủ nhân "Ao Cá Bác Hồ" để họ phát cho khách đến "xử lý" xong nhớ bỏ vào thùng, vì cá Vồ không có khả năng tiếp thu thứ nầy nhé!

Trương Minh Hòa



Saturday, April 5, 2008

30 Tháng 4

 
Vũ Lâm
(Trích đăng từ Nguyệt San Con Ong Việt số 92 tháng 4, 2008)

33 năm của những người lính.

33 năm đã trôi qua, đếm từ cái mốc thời gian 30 tháng 4 năm 75 đến 30 tháng 4 năm nay 2008.
33 lần Tháng Tư, lại Tháng Tư, lại 30 Tháng Tư!.
33 lần xoáy mũi dao nhọn vào vết thương vẫn còn ứa máu của những người lính miền Nam trước năm 1975 may mắn sống còn sau cuộc chiến.
33 năm tiếc, nhớ, thương bạn bè chiến hữu bỏ mình trong cuộc chiến, trong trại tù Cộng Sản hoặc ra đi vì tuổi đời chồng chất.
33 năm những người lính còn ở lại quê nhà oằn oại chịu đựng ngon roi thù của kẻ chiến thắng.
33 năm những người thương binh vẫn từng ngày ngậm ngùi nhìn thân thể với những vết sẹo, những thương tật chiến trận để lại.
33 năm còng lưng gánh nặng những đau buồn, tủi nhục, khắc khoải của người lính thua trận mà không phải vì mình bất tài, hèn yếu ...
33 năm đã trôi qua, những người lính vẫn mắc nợ những người lính, nợ nghiệp lính, nợ quê hương tổ quốc nhưng cuối nẻo đường trần không bao giờ trả được!

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long-tuyền đới nguyệt ma!! . . .

33 năm đã trôi qua nhưng vết hằn cuộc chiến vẫn còn đó!
33 năm trăn trở, tiếc nuối một quãng đời dang dở, nửa đường đứt gánh ... đời lính!

Cái nghịch lý của hòa bình 30 tháng 4.

33 năm đã trôi qua, người Việt lưu vong nhìn lại quê hương Việt Nam, không ai không khỏi ngậm ngùi chua sót. Chiến tranh là tàn phá, là tai ương, là tử vong điều không thể tránh được và người dân cả hai miền Nam Bắc đều trông đợi hòa bình, nhưng cái mốc hòa bình 30 tháng tư năm 1975 đầy nghịch lý, người dân miền Nam đã trốn chạy hòa bình!

Những người tị nạn đầu tiên sợ hãi, hốt hoảng ra đi, những cặp vợ chồng lếch thếch, tay bồng, tay bế, tay dắt con cái, tay xách, tay mang những tài sản cá nhân gom góp vội vàng, gỏn gọn chỉ là cái bao, cái túi, họ chạy đi mà không biết mình sẽ đi đâu, đến đâu. Chồng mất vợ, vợ lạc chồng, con cái thất tán, giữa sự sống và chết họ chen lấn xô đẩy, dành giật lấy một chỗ đứng, chỗ ngồi trên máy bay, trên những con tầu rời bỏ quê hương.

Chấm dứt chiến tranh, hòa bình, nhưng hàng triệu người đã trốn chạy ra biển, họ vượt biển bằng những chiếc thuyền mong manh phó mặc cho số mệnh, họ cầm bằng cái chết để trốn chạy cộng sản, đó là cái nghịch lý của hòa bình 30 tháng tư, 33 năm về trước.

33 năm nghiền ngẫm cái nghịch lý của ngày chấm dứt cuộc chiến 30 tháng tư. Cái nghịch lý của luật trời: Người hiền lương thua kẻ gian ác? Cái nghịch lý của định mệnh: Những người tù lương thiện ở trong các nhà tù mà người cai tù là những tội phạm.

33 năm Cộng Sản tàn phá đất nước.

Sau cuộc chiến, Cộng Sản Việt Nam thay vì xây dựng, đoàn kết, hướng về một chân trời mới đầy hứa hẹn cho dân tộc, họ lại đạp đổ, phá nát, tàn phá, bần cùng đất nước nhiều hơn trong chiến tranh. Họ quỷ quái mưu mô hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, họ cướp bóc tài sản trắng trợn, họ giết phe bại trận một cách tinh xảo che mắt được thế gian, nhân loại, họ giết từ từ, giết chầm chậm, giết người mà không thấy máu, giết thể xác, giết phần hồn, giết cả triệu quân dân cán chính miền Nam, giết bằng đầy ải, tù đày, giết gián tiếp cả những người thân thuộc, gia đình, cha mẹ, vợ con.

33 năm những oan hồn của người tù cải tạo, của thuyền nhân trên biển vẫn còn vất vưởng nơi trại tù, nơi rừng sâu núi thẳm, trên biển khơi mênh mông.

33 năm văn minh xã hội chủ nghĩa thụt lùi, đạo đức suy đồi, đầy dẫy những tệ đoan, tham nhũng, ăn chơi, đĩ điếm đồi trụy trong cuộc sống hiện nay ở trong nước.

33 năm hàng vạn những người con gái Việt phải đi làm vợ làm đầy tớ xứ người, lũ lượt khắp nơi người dân Việt phải đi làm lao công, tôi mọi, làm nô lệ xứ người, những xứ mà trước năm 75, thua kém, chậm tiến lạc hậu hơn miền Nam Việt Nam.

33 năm, người dân Việt trong nước lẫn hải ngoại vẫn phải nặng trĩu hoài vọng tự do, dân chủ, phú cường, niềm hoài vọng xa tầm tay với khi vẫn còn tập đoàn thống trị Cộng Sản, cai trị bằng công an, nhà tù.

33 năm người Việt lưu vong vẫn còn phải trầm tư hướng vọng về quê hương với tủi hận, xót xa, thương phận nước long đong đầy ắp oan khiên.

33 năm kết thúc một cuộc chiến, đất nước không còn chia đôi bằng tên gọi, chính quyền, trên bản đồ, nhưng thực tế, dân Việt vỡ ra thành nhiều mảnh phiêu dạt khắp nơi trên thế giới. Không còn tiếng súng nhưng thù xưa vẫn còn, chiến tranh không còn bằng súng đạn nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn, không chỉ ở trong nước mà cả ở khắp nơi hải ngoại có người Việt sinh sống. Chiến tranh vẫn còn giữa người Việt quốc gia và Cộng Sản, giữa người dân trong nước đang đòi tự do dân chủ với tập đoàn cai trị, với đảng cộng sản. Chiến tranh chỉ thật sự chấm dứt khi đảng Cộng Sản bị khai tử và Việt Nam thực sự có tự do dân chủ, có chính quyền dân cử, chính quyền từ dân mà ra.

33 năm làm người tị nạn.

Tôi là người tị nạn, đúng nghĩa của một người tị nạn, nếm đúng mùi vị đắng, chát của thân phận tị nạn. Tôi đến xứ sở này, thành phố này không tính toán, không chọn lựa 33 năm về trước, khi gần đến tuổi 30 với độc nhất một bộ quần áo lính màu xanh hải quân đã bạc mầu, không lon lá huy hiệu, nó chỉ khác với quần áo thường vì có hai túi trước và có cầu vai. Chân đi đôi dép Nhật đã mòn quẹt vì lê lết trong các trại tị nạn. Trong túi không có lấy một đôla. Tôi đến đây không được đón tiếp ở phi trường chờ lấy hành lý như những người tị nạn sau này. Không được nghe lời chào hỏi bằng tiếng Việt. Và, cả mấy tháng sau tôi vẫn còn thẫn thờ, câm lặng, bậm môi chịu đựng nhát búa khốc liệt của định mệnh. Tôi mất tất cả những gì đã có trong cuộc đời, nghề nghiệp, cấp bậc, tương lai ... và khởi đầu cuộc đời như một đứa bé mới bập bẹ tập nói, tập đi. Tôi đến đây đơn độc, để lại vợ và hai con còn bé nhỏ nơi quê nhà, lúc bấy giờ, nơi ấy, nơi này giống như âm dương cách trở, mờ mịt, bít bùng tin tức và, ngày ấy ai cũng nghĩ là vĩnh viễn không có ngày gặp lại như những người di cư vào Nam năm 1954 bỏ lại người thân ngoài Bắc. Chung quanh tôi lúc ấy, cái gì cũng xa lạ, tôi không thể ngày nào cũng ăn nhạt nhẽo miếng sandwich, trứng, thịt, hot dog, hamburger. Tôi thèm một bát cơm với chén nước mắm chanh ớt, ước muốn một đĩa rau muống luộc, thèm một lát cá kho ... mong tìm được một người Việt để chào hỏi, để tâm sự bằng tiếng Việt.

Những ngày đầu tị nạn, tôi cô đơn lầm lũi trong gia đình một người Mỹ khá giả ở một khu rất sang trọng của thành phố, mặc dù hai vợ chồng này tôi đã quen biết từ trước, người sĩ quan cố vấn của tôi khi còn phục vụ tại Việt Nam.

Tôi ngỡ ngàng sao đường phố ở Mỹ im vắng, không có người đi bộ. Tôi đi suốt một ngày trên xe Bus, từ sáng sớm đến tối khuya, chuyển hết xe này đến xe khác, dò theo những tuyến đường trên bản đồ lộ trình, thành phố sao rộng lớn mênh mông, lẫn lộn cả với đồi, núi, rừng cây ... tôi ngóng nhìn khắp phía để hy vọng tìm được một người Việt Nam ...

Những kẻ phản bội.

33 năm ở thành phố này, tôi được cái hân hạnh làm người đến trước tiếp đón nhiều người đến sau, được nhìn những nét mặt tị nạn còn xạm đen khắc khổ ngơ ngác của những đợt thuyền nhân đến từ các trại tị nạn Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương. Rồi đến những đợt HO, những đợt đoàn tụ cha con, chồng vợ ... Những người tị nạn đến sau đều có thân nhân, bạn bè, đồng hương người Việt ra tận phi trường tiếp đón, hôm trước hôm sau đã vui vẻ, cười nói tiếng Việt ồn ào, có tiệc tiếp đón dù sơ sài, có phở, có bún bò Huế, có bánh xèo, bánh cuốn và mau chóng hội nhập nếp sống rất Việt Nam giữa lòng xứ sở Hoa Kỳ ...

Tôi nhắc đến kỷ niệm chuyện tị nạn của tôi ở đây để trần tình với những người có ý nghĩ là đến sau thiệt thòi, trâu chậm uống nước đục. Sau cái mốc thời gian 30 tháng tư, không có cái buồn nào hơn hay kém cái buồn nào, và người tị nạn đến trước, đến sau chưa biết ai buồn, ai khổ hơn ai ... !!

Tôi muốn nhắc đến những ngày đầu tị nạn của mọi người vì hôm nay, quanh tôi đã có nhiều người làm bộ quên, hay cố tình quên quá khứ tị nạn, quên đi những con thuyền mong manh trên sóng biển, quên đi những ê chề nhục nhã với cướp biển, hải tặc, quên những ngày tù đầy cộng sản, quên những cán bộ quản giáo ngu dốt nhưng có quyền lên mặt dậy bảo, quên những ngón đòn thù, những báng súng nện lên thân thể.

Những gì đau khổ trong quá khứ cũng nên bỏ lại cho quá khứ để sống với hiện tại và tương lai, quên được là điều đáng mừng nhưng đừng quay lưng trở mặt với chính nghĩa quốc gia, cuộc chiến chống cộng vẫn còn, người Việt cả ở trong nước lẫn hải ngoại vẫn đang phản kháng, chiến đấu để đạp đổ chế độ Cộng Sản, đòi tự do, dân chủ, đòi hỏi chính quyền CS phải bảo toàn lãnh thổ đừng âm mưu, lén lút dâng đất dâng biển cho Tầu Cộng.

Quên quá khứ tị nạn cũng được, nhưng đừng làm cản trở, đừng tiếp sức cho Cộng Sản trong cuộc chiến đòi tự do, dân chủ cho quê hương, đừng phản bội xương máu chiến sĩ đã hy sinh cho cuộc chiến vì tự do chống giữ miền Nam chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản.

Tôi muốn nhắc lại chuyện tị nạn vì hôm nay quanh tôi, những người chỉ mới đây, như mới ngày hôm qua đến xứ sở này còn ngơ ngác xin làm người tị nạn Cộng Sản mà hôm nay đã xuênh xoang áo gấm về làng, hưởng thụ, huênh hoang với hai chữ Việt Kiều.

Có những người, những đảng phái vì ham danh hám lợi còn quay về hợp tác, bênh vực cho cái chế độ CS tàn ác.

Có những con buôn, những nhà báo đốn mạt, chỉ vì vài trăm bạc, vài chục bạc trả cho một cái quảng cáo thương mại hàng tháng trên những tờ báo chợ mà bán rẻ lương tâm, trơ trẽn tuyên truyền, ca ngợi Cộng Sản. Tôi đã nhìn một người chủ báo mà nghĩ thầm “Cái mặt này, cái con người này chỉ đáng giá từ năm chục đến một trăm”.

Đoản khúc buồn viết cho ngày 30 tháng 4.
(30 tháng 4 2006 COV - 71)

Hôm nay 30 tháng tư, 31 năm trôi qua, quá khứ như thật gần và nỗi đau uất hận vẫn còn đó.

Ngày này năm xưa, tôi đang trên chiến hạm. Chiến hạm vẫn hùng dũng, mây trời cũng thế, biển Việt Nam vẫn mầu xanh thẫm, nhưng tôi như cái xác không hồn ... Trước đó vài hôm, chiến hạm từ ngoài Trường Sa, hai máy tiến “full” chạy về, mọi người trên chiến hạm lặng lẽ, âm thầm, vì biết có biến cố lớn đang xẩy ra trên bờ, mỗi người có nỗi lo, nỗi suy tư riêng. Suốt ngày tôi loanh quanh trên đài chỉ huy, trong phòng chiến báo để dò tin tức dù không phải là phiên trực. Lệnh lạc bất nhất, thay đổi, khi thì chuẩn bị pháo lên đảo Phú Quý ngoài khơi Phan Thiết, rồi lại bị đuổi đi. Khi thì lệnh pháo phi trường Hàm Tân, khi thì không. Ban đêm “công voa” Việt Cộng bật đèn sáng chưng, xe chạy hàng dài theo hương lộ 1 ven biển, xuôi Nam về hướng Vũng Tầu, có lệnh cho các chiến hạm gần đó gom lại để hải pháo, rồi lại không cho nữa! Đến khi chấm tọa độ pháo lên chợ Bà Rịa, pháo cầu Cỏ May tôi biết là ... hết rồi! Cho đến khi nghe được lệnh đầu hàng trên máy truyền tin, tôi bất động như ngừơi chết đứng. Sau cùng, con tầu bỏ nước ra đi, tôi thuỷ táng cuộc đời ... hình ảnh, thư từ, kỷ niệm, quân phục và mộng ước của một đời, được gói gọn trong lá cờ vàng, chôn sâu xuống lòng đại dương ... Tôi mang đời lưu vong. Người tị nạn đơn độc, cô đơn.

Hôm nay 30 tháng 4, ba mươi mốt lần rồi, tôi vẫn ở thành phố này. Cuộc đời có thay đổi từng năm, hy vọng trong tôi, của tôi về đất nước quê hương Việt Nam có thay đổi, nhưng sao đợi mãi chẳng đến!!

Hôm nay 30 tháng tư, vẫn như mọi năm, tôi ra với tổ chức cộng đồng người Việt để phất ngọn cờ vàng, để nghe hùng ca lính, để tưởng nhớ những người đã chết, để chửi rủa uất hận về một chế độ đã gây tang thương cho đất nước. Những người quanh tôi từ 31 năm về trước mỗi năm một già nua tiều tuỵ, tóc bạc hơn xưa và thiếu vắng dần. Tôi yêu thành phố này và nhưng người thân quen đã từ lâu.

Năm nay 30 tháng 4, San Diego buồn hơn mọi năm, vắng hơn mọi năm, vì trong cùng một thành phố, lần đầu tiên có đến 2 nơi tổ chức 30 tháng 4, tôi mường tượng là mình thua trận thêm một lần nữa, cũng lại thua trên đất Mỹ. Ngày xưa thua vì bọn phản chiến. Bây giờ phản chiến không còn nữa, nhưng có bọn phản bội, tráo trở mưu mô. Tôi xin mọi người quanh tôi, bạn tôi, hãy sáng suốt nhận định kẻ thù, nhìn rõ mặt bọn tráo trở lừa bịp.

Bảo vệ lá cờ vàng nhưng phải thận trọng, bọn Cộng Sản nằm vùng, bọn thời cơ tráo trở, băng đảng bịp bợm cũng đang phất lá cờ vàng, bởi vì:

- Người ta bắn con chim Trĩ thì dùng con chim Trĩ làm mồi. Người săn hươu thì dùng con Hươu làm mồi.

Đôi khi tôi thấy mệt mỏi, có lúc chán chường, chỉ muốn làm một người Việt thầm lặng sống trên đất Mỹ này. Quên đi đất nước Việt Nam khốn cùng vào Cộng Sản.

Không biết tôi, chúng tôi, còn đủ kiên cường, đủ sức lực, còn nuôi sống Con Ong Việt đến bao giờ...!

Vũ Lâm