Sunday, January 19, 2014

TƯỞNG NIỆM CÁC CHIẾN SĨ HẢI QUÂN VNCH

TƯỞNG NIỆM CÁC CHIẾN SĨ HẢI QUÂN VNCH ĐÃ HY SINH TẠI HOÀNG SA 
19-1-1974

Ngay từ thời thượng cổ, người Hán đã kính nể dân Việt vì họ tuy ở núi mà rất thạo thủy tánh, láy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa. Ðến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Tính tình khinh bạc, hiếu chiến, không bao giờ sợ chết và luôn luôn quật khởi với kẻ thù ‘.Bởi vậy suốt dòng lịch sử, Hải quân Việt đã ba lần oanh liệt chiến thắng quân Tàu trên Bạch Ðằng Giang và sông Như Nguyệt cũng như nhiều đia danh khác như Sông Lô, Hội An, Rạch Gầm, Vàm Cỏ.. Cho nên trong Trận Hải Chiến Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974 với Trung Cộng, dù bị Hoa Kỳ phản bội và bán đứng nhưng Hải quân VNCH đã anh dũng chiến đấu với giặc Tàu một cách oanh liệt tới giờ phút cuối cùng được lệnh rời bỏ phòng tuyến mới chịu lui quân.

Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH, khi có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Để được an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai thuộc lãnh thổ từ lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê, Cá vị Chúa Nguyễn Nam Hà, Nhà Tây Sơn và Nhà Nguyễn.. nằm trong Ðông Hải.

Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958, được báo chí của Trung Cộng lẫn Việt Cộng đăng tải. Những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Ðôn, Paris, Hoa Thịnh Ðón, Bắc Kinh... kể cả Hà Nội. Nhờ đó, ta mới biết được, vào ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng lúc đó là thủ tướng,theo lệnh của chủ tịch nước và đảng VC là Hồ Chí Minh, đả cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau ‘ Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng’. Ngày 22-9-1958, Ðại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký, lên Thiên Triều.

1- QUẦN ÐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CỦA VN :

Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, theo chính sử cũng như những tài liệu của ngoại quốc như Ðại Nam thực lục, Ðại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, Hoàng Việt địa dư chí thời vua Minh Mạng, Quảng Ngãi tỉnh trí của các Tuần Vũ Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Ðình Chi, Quảng Ngãi nhất thống chí của Lê Ngại.đều đề cập tới và xác nhận đó lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt. Với các tác phẩm ngoại quốc, có nhiều thiên ký sự của các giáo sĩ Thiên Chúa trên tàu Amphitrite, viết năm 1701, của Ðô Ðốc Pháp tên là D’Estaing viết năm 1768 rằng :’ Sự giao thông giữa đất liền và các đảo Paracel (Hoàng Sa) rất nguy hiểm, khó khăn nhưng Người Ðại Việt chỉ dùng các thuyền nhỏ, lại có thể đi lại dễ dàng.’ Nhưng quan trọng nhất, là tác phẩm viết về Hoàng Sa của Ðổ Bá tự Công Ðạo, viết năm Chính Hòa thứ 7 (1686), trong đó có bản đồ Bãi Cát Vàng :’ Ðảo phỏng chừng 600 dặm chiều dài và 20 dặm bề ngang. Vị trí nằm giữa cửa Ðại Chiêm và Quyết Mông. Hằng năm vào cuối mùa đông, các chúa Nguyễn Ðàng Trong, cho Hải Ðội Hoàng Sa gồm 18 chiến thuyền đến nơi tuần trú.’ Năm 1776, trong tác phẩm ‘ Phủ Biên tạp lục’, Lê Quý Ðôn đã viết một cách rõ ràng :’ Trước đây, các Chúa Nguyễn đã đặt Ðội Hoàng Sa 70 suất, tuyển lính tại Xã An Vĩnh, cắt phiên mỗi năm vào tháng 2 ra đi, mang theo lương thực 6 tháng. Dùng loại thuyền câu nhỏ, gồm 5 chiếc, mất 3 ngày 3 đêm, từ đất liền tới đảo.’



Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của VN ngay khi người Việt từ đàng ngoài tới định cư tại Phủ Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi vào khoảng thế kỷ thứ XV sau tây lịch. Hai quần đảo trên nằm ngoài khơi Ðông Hải : Hoàng Sa ở phía bắc và Trường Sa nằm về cực nam gần Côn Ðảo.

* QUẦN ÐẢO HOÀNG SA

Nằm giữa hai kinh tuyến đông 111-112 độ và vĩ tuyến bắc 15 độ 45 ố 17 độ 05. Ðây là một chuổi đảo gồm 120 hòn lớn nhỏ nhưng qui tụ thành bốn nhóm chính. Muốn tới đảo, nếu khởi hành từ Ðà Nẳng, bằng tau của Hải quân phải mất 10 giờ (chừng 170 hải lý), theo hướng 083. Bốn nhóm đảo chính là :

- NHÓM NGUYỆT THIỀM (CROISSANT) :

gồm các đảo Cam Tuyền hay Hửu Nhật (Robert), hình tròn, diện tích om2032, là đảo san hô nên có nhiều phốt phát. Toàn đảo chỉ có chim hải âu trú ngụ , tuyệt nhiên không có bóng người. Ðảo Quang Hòa Ðông (Duncan), diện tích 0 km2 48, phía đông đảo là rừng cây phốt phát và nhàn nhàn, phía tây toàn san hô là mơi trú ngụ của chim hải âu. Ðảo Quang Hòa Tây (Palon Island) , hình tròn, diện tích 0km241, trên đảo toàn cây nhàn nhàn và phốt phát , đảo toàn san hô chỉ có chim ở. Ðảo Dung Mộng (Drummond) hình bầu dục, diện tích 0km241, toàn đảo chỉ có nhàn nhàn và phốt phát. Giữa đảo có một vùng đất rộng, thời Ðệ 1 Cộng Hòa trước tháng 11-1963, Tiểu Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến trấn đóng tại đây để bảo vệ lãnh thổ. Hiện trên đảo vẫn cò hai ngôi mộ lính VNCH và 3 ngôi mộ cổ khác với mộ bia viết bằng chử Hán.

Trong số này quan trong nhất vẫn là đảo Hoàng Sa (Pattle) có hình chữ nhật, chu vi 2100m, diện tích 0km230. Ðảo nay đã được khai phá từ lâu đời, nên có nhiều công trình kiến trúc như Ðồn quân trú phòng, Sở khí tượng, Hải đăng và cầu tàu để các chiếm hạm Hải quân/VNCH cập bến. Trên đảo có một ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa Ðảo và do một Trung đội Ðịa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Quảng Nam trấn đóng.

Ðảo Vỉnh Lạc hay Quang Ảnh (Money) nằm biệt lập không thuộc nhóm đảo Nguyệt Thiềm, hình bầu dục, diện tích 0, 50 km2. Trên đảo toàn nhàn nhàn, phốt phát và một loại cây cao trên 5m, có trái như mít. Toàn đảo không có người ở.

Ðảo Linh Côn (Lincoln) cũng năm biệt lập và đã bị Ðài Loan cưởng chiếm vào tháng 12-1946 khi Trung Hoa Dân Quốc, được lệnh LHQ tới đảo giải giới quân Nhật đang trú đóng trên đảo.

- NHÓM TUYÊN ÐỨC (AMPHITRITE) :

Cũng bị Ðài Loan chiếm năm 1946, nằm về phía bắc đảo Hoàng Sa, gồm 16 đảo nhỏ , trong số này quan trong nhất có đảo Phú Lâm (Woody Island) , dài 3700m, rộng 2800m. Trên đảo có nhiều cây ăn trái như dừa, được Nhật Bổn khai thác phốt phát từ thời Pháp thuộc. Năm 1950, Trung Cộng đánh đuổi Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Ðài Loan, chiếm lục địa và luôn các hải đảo của VN, xây phi trường, làm đường xá, lập căn cứ quân sự. Ðây là nơi giặc Tàu phát xuất, tấn công chiếm các đảo của VN sau này.

* QUẦN ÐẢO TRƯỜNG SA :

Gồm chín đảo lớn nhỏ, nằm giữa hải phận của cac nước VN, Phi Luật Tân, Srawak(Brunei) Trong số này đảo lớn nhất là Trường Sa (Sparley) , dài 700m, ngang 200m, nằm ở kinh tuyến 114 độ 25 và vĩ tuyến 19 độ 10 bắc. Ðảo cấu tạo bởi san hô, có nhiều hải âu trú ngụ, đẻ trứng rất to. Trên đó có nhiều loại cây ăn trái vùng nhiệt đới như dừa, bàng, mù u, nhàn nhàn, rau sam

* TRUNG CỘNG CƯỚP CHIẾM HOÀNG SA *

Thật sự người Tàu chỉ chú ý tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN từ đầu thế kỷ XX vì dầu hỏa, khí đốt và vị trí chiến lược của hai đảo trên. Sự tranh dành cướp chiếm bắt đầu từ thời VN bị thực dân Pháp đô hộ, vì mất chủ quyền nên không vòm binh lực để bảo vệ lãnh thổ riêng của mình.

- 1907 Tổng đốc Quảng Châu đòi chủ quyền trên đảo Hoàng Sa.

- 1909 Hải quân Nhà Thanh tới Hoàng Sa hai lần, cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát đạn đại bác để thị oai.

- Ngày 30-4-1921 chính quyền Quảng Ðông, ký văn thư số 831 tự động sáp nhập quần đảo Hoàng Sa của VN vào đảo Hải Nam nhưng đã bị Triều đình Huế phản đối dữ dội vào năm 1923.

- Năm 1933 , Pháp vì bị báo chí trong nước phản đối dữ dội, nên đã đem hải quân ra đánh đuổi quân Tàu, chiếm lại quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh, cầu tàu, đài khí tượng trên hai đảo chính Hoàng Sa, Trường Sa.

- Tháng 12/1946 Ðài Loan lợi dụng việc giải giới Nhật, đã chiếm đảo Phú Lâm trong nhóm Tuyên Ðức trong quần đao Hoàng Sa. Ðảo này lại lọt vào Trung Cộng khi Mao Trạch Ðông chiếm lục địa Trung Hoa.

- Ngày 4/12/1950 Chu Ân Lai lớn tiếng đòi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN.

- Năm 1956 Trung Cộng lén lút chiếm thêm đảo Linh Côn trong quần đảo Hoàng Sa, đang thuộc chủ quyền VNCH.

- Ngày 21/12/1959 Hải quân VNCH với sự trợ chiến của Tiểu đoàn 1 Thủy Chiến Lục Chiến , đã đánh Tàu Cộng , chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Duy Mộng, Quang Hòa trong nhóm Nguyệt Thiềm, bắt giữ 84 tù binh và 5 thuyền binh nguy trang tàu đánh cá. Ngày 27/2/1959 Trung Cộng sau khi thua trận, đã ra thông cáo mạt sát Chính phủ VNCH xâm phạm chủ quyền của Tàu, vì chính Hô Chí Minh cũng như Pham văn Ðồng đã chính thức xác nhận bằng văn kiện, là hai quần đảo trên qua tên Tây Sa, Nam Sa là lãnh thổ của Trung Hoa. Tuy nhiên để giữ hòa khí giữa hai nước, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã thả hết số tù binh trên về nước.

Từ ngày 4-9-1958, Trung Cộng vẽ bản đồ mới và tuyên bố lãnh hải của mình là 12 hải lý. Bản tuyên cáo này chỉ có Bắc Hàn công nhận đầu tiên. Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh họp đảng để nhất trí và ban lệnh cho Phạm Văn Ðồng , ký nghị định công nhận ngày 14-9-1958. Ngày 9-1-1974, Kissinger tới Bắc Kinh mật đàm với Mao Trạch Ðông, được cho coi văn kiện mà Phạm Văn Ðồng đã ký xác nhận , hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Tàu. Theo văn kiện và tuyên cáo lãnh hải 12 hải lý, thì chính VNCH đã chiếm đất của Trung Cộng, từ năm 1958, do VC làm chứng và xác nhận. Ðược cơ hội vàng ròng, tên cáo già Kissinger tương kế tựu kế, nhân danh Nixon, bật đèn xanh, cho Mao đánh VNCH, đề thu hồi lãnh thổ.

Tính đến năm 1974, khi xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, Hải quân VNCH rất hùng hậu với quân số trên 40.000 người (sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ) , phân thành 5 vùng duyên hải và 2 vùng sông ngòi. Hải quân có một hạm đội gồm 83 chiến ham đủ loại. Ðể bảo vệ các sông ngòi, kênh rạch ở Nam phần, Hải quân đã thành lập 4 Lực lượng dặc nhiệm hành quân lưu động, gồm LL tuần thám 212, LL thủy bộ 211, LL trung ương 214 và LL đặc nhiệm 99. Ngoài ra còn Lực lượng Duyên phòng 213, Liên đoàn Tuần giang, 28 Duyên đoàn, 20 Giang đoàn xung phong, 3 Trung tâm Huấn Luyện Hải quân và nhiều căn cứ yểm trợ khắp nơi. Khi xảy ra cuộc hải chiến, Ðề đốc Trần Văn Chơn là tư lệnh Hải quân. Tóm lại Hải quân VNCH rất hùng mạnh trong vùng Ðông Nam Á.

Sau khi đạt được thắng lợi ngoại giao với Hoa Kỳ qua cặp Nixon-Kissinger, đồng thời với sự đồng lỏa của Việt Cộng, nên giặc Tàu quyết tâm chiếm cho bằng được hai quần đảo ngoài Ðông Hải của VNCH. Dã tâm càng lớn từ năm 1973, sau khi được tin các hảng dầu thăm dò cho biết vùng này có trử lượng rất lớn về dầu khí. Lúc đó VNCH cũng đã bắt đầu ký nhiều hợp đồng, cho phép các hảng dầu tới hai vùng đảo trên khai thác.Thế là ngày 11-1-1974, Trung Cộng lại tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa. Ngày 19-1-1974, bất thần Trung Công tấn công Hoàng Sa , gây nên trận hải chiến, tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu. Trung Cộng dù chiếm được đảo nhưng thiệt hại gấp 3 lần VNCH.

Quần đảo Hoàng Sa thời Ðệ I Cộng Hòa (1955-1963) thuộc tỉnh Quảng Nam. Cũng trong thời kỳ này, chính phủ đã ban hành sắc lệnh số 134/NV ban hành năm 1956, sáp nhập quần đảo Trường Sa, vào tỉnh Phước Tuy. Nghị định số 241/BNV ban hành ngày 14-12-1960, do chính Tổng thống Diệm bổ nhiệm Nguyễn Bá Thước làm Phái viên hành chánh Hoàng Sa. Lại phối trí Tiểu đoàn 1 TQLC trú đóng khắp các đảo, để bảo vệ lãnh thổ VNCH.

2- HẢI CHIẾN HOÀNG SA GIỮA HẢI QUÂN VNCH VÀ TRUNG CỘNG :

Như thường lệ, vào ngày 18-1-1974 gần tới Tết Âm Lịch Nhâm Dần. Lúc đó Tuần Dương Hạm HQ.16 Lý Thường Kiệt, khởi hành từ Ðà Nẳng với công tác chuyển vận Ðơn vị Ðịa Phương Quân của Tiểu khu Quảng Nam , ra Hoàng Sa hoán đổi định kỳ. Trong chuyến công tác trên, còn có một Phái đoàn khảo sát điạ chất , gồm 7 sĩ quan công binh và hải quân. Ngoài ra còn có một người Mỹ tên Gerald Kosh, là nhân viên tùng sự tại Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ Vùng I Chiến thuật. Trước khi vào đảo đổi quân, tàu HQ.16 đã vòng các đảo để kiểm soát, nên đã phát hiện được nhiều tàu chiến của Trung Cộng sơn màu xanh ô liu, ngụy trang như các tàu đánh cá, trang bị toàn vũ khí nặng. Trong lúc đó còn có nhiều tàu chiến khác đang di chuyển từ đảo Phú Lâm, tiến về các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Hoàng Sa.Do tình hình quá khẩn cấp, nên HQ.16 đã báo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Chiến thuật, nên được tăng cường thêm các Chiến hạm như Khu trục hạm Trần Khánh Dư, Tuần dương hạm Trần Bình Trọng và Hộ tống hạm Nhật Tảo. Tuy nhiên tất cả đã được lệnh Trung ương, chỉ phòng thủ không được tấn công trước khi địch chưa khai hỏa.

Theo sử liệu, trong trận hải chiến này, lực lượng hải quân của Trung Cộng rất hùng hậu vì đã chuẩn bị trước. Thành phần tham chiến gồm : Hộ tống hạm 271 Kronstadt, Ðại Tá Vương Kỳ Uy là hạm trưởng, tử thương. Hộ tống hạm 274 Kronstadt, Hạm trưởng là Ðại Tá Quan Ðức. Ðây cũng là Soái hạm, chỉ huy trận chiến, gồm Tư lệnh là Ðô Ðốc Phương Quang Kính, cũng là Phó tư lệnh của Hạm Ðội Nam Hải. Sau trận đánh, toàn bộ chỉ huy của Trung Cộng trên Soái Hạm này, gồm 2 Ðề Ðốc, 4 Ðại Tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu tá và 7 Sĩ Quan Cấp uý, đều bị trúng đạn đại bác tử thương. Trục lôi hạm 389, hạm trưởng là Trung Tá Triệu Quát tử thương. Trục lôi hạm 396, Hạm trưởng là Ðại Tá Diệp Mạnh Hải, tử thương. Phi Tiễn Ðỉnh 133 Komar, có hỏa tiễn địa điạ Styx, Hạm trưởng là Thiếu tá Tôn Quân Anh. Phi tiễn đỉnh 137 Komar, có hỏa tiễn địa địa Styx, Hạm trưởng là Thiếu Tá Mạc Quang Ðại. Phi tiễn đỉnh 139 Komar có hỏa tiên, Hạm trưởng là Thiếu tá Phạm Quy. Phi tiễn đỉnh 145 Komar có hỏa tiễn, Hạm trưởng là Thiếu Ta Ngụy Như và 6 Hải Vận Hạm chở quân chiến đấu. Ngoài ra còn một lực lượng trừ bị gồm 2 Tuần Dương Hạm, 4 Pháo Hạm, 4 Khu trục Hạm , trang bị hỏa tiễn Kiangjiang, 2 Phi đội Mig 19 và 2 phi đội Mig 21, do tư lệnh Hạm Ðội Nam Hải, tổng chỉ huy.

Bên VNCH, lực lượng tham chiến gồm Khu Trục Hạm HQ4 Trần Khánh Dư, Hạm Trưởng Trung Tá HQ.Vũ Hữu San. Tuần Dương Hạm HQ5 Trần Bình Trọng , Hạm trưởng Trung Ta HQ Phạm Trọng Quỳnh. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, Hạm Trưởng Trung Tá HQ.Ngụy Văn Thà. Trong khi giao chiến, HQ10 bị trúng đạn, toàn thể thủy thủ xuống xuồng nhỏ, thì Hạm Trưởng ở lại tuấn quốc với chiến hạm. Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm Trưởng là HQ.Trung Tá Lê Văn Thư. Về lực lượng trừ bị,, có Tuần Dương Hạm HQ6 Trần Quốc Toản, Hộ Tống Hạm HQ11 Chí Linh và Phi Ðoàn F5-A37, nhưng vì ở cách xa chiến trường, nên khi chưa tới nơi, thì chiến cuộc đã tàn... Kết quả, phía VNCH, các chiến hạm 4,5 và 16 bị hư hại nặng nhưng chạy được về Ðà Nẳng sửa chữa và tiếp tục hoạt động sau đó. Chỉ có Chiến Hạm HQ10 bị chìm, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, bị thương nhưng quyết ở lại chết với tàu. Về phía Trung Cộng, Tư Lệnh Mặt Trận, Bộ Tham Mưu và 4 Hạm Trưởng tử thương. Hộ Tống Hạm 274 bị chìm, Hộ Tống Hạm 271 và 2 Trục lôi hạm 389-396 bị hư nặng và phá hủy cùng với 4 ngư thuyền bị bắn chìm

Có một điều bi thảm mà hiện nay ai cũng biết, là hầu hết các Chiến hạm mà Hoa Kỳ đã viện trợ cho Hải Quân VNCH, đều được hạ thủy năm 1940 loại phế thải được tân trạng. Bốn Chiến hạm tham chiến năm 1974 được coi là tối tân nhất , vì HQ4 hạ thủy năm 1943, HQ5 hạ thủy năm 1944, HQ10 hạ thủy năm 1942 và HQ16 hạ thủy năm 1942. Riêng các vũ khí trên tàu, các loại súng liên thanh đều được gở bỏ , khi cho VNCH. Nhưng dù quân lực Miền Nam ít, chiến hạm vừa cũ kỹ lại nhỏ, vũ khí trang bị, chỉ có đại bác nhưng vì Các Sĩ Quan Hải Quân VNCH đều được huấn luyện như Âu Mỹ, rất thiện chiến và tài giỏi. Cho nên đã tác xạ rất chính xác, làm nhiều tàu giặc cũng như Hạm trưởng tử thương. Tệ nhất là người Mỹ, lúc đó vẫn còn là đồng minh của QLVNCH, vẫn đang có hiệp ước hỗ tương chiến đấu và bảo vệ cho nhau. Vậy mà khi cuộc chiến xảy ra, Hạm Ðội 7 Hoa Kỳ đang tuần hành gần đó, chẳng những đã không lên tiếng, không can thiệp mà ngay thủy thủ VNCH bị chìm tàu,, cũng không thèm cứu vét, theo đúng luật hàng hải quốc tế.

Theo các nhân chứng đã tham dự cuộc hải chiến kể lại, thì lúc đó các chiến hạm của Hải quân/VNCH , đã chống trả với giặc rất dũng mãnh, nên chỉ trong mấy phút đầu, đã có nhiều tàu chiến của Trung Cộng đã bị bắn chìm. Về phía VNCH, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HO.16, bị bắn trúng bánh lái và sườn tàu, được HQ.11 dìu về Ðà Nẳng. Trên chiến trường lửa máu, chỉ còn HQ.10 và Hộ tống hạm Nhật Tảo, vùng vẩy chiến đấu vời hằng chục chiến hạm của Trung Cộng, được Không quân từ các căn cứ trên dảo Hải Nam tới yểm trợ.

Cuối cùng Hộ tống hạm Nhật Tảo đã bị bắn cháy và chìm giữa biển Ðông. Hạm trưởng chiến hạm này là Trung Tá HQ.Ngụy Văn Thà,tốt nghiệp khóa 12 sĩ quan hải quan Nha Trang, sinh năm 1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Khi tàu lâm nạn, với tư cách là chỉ huy trưởng, Trung Tá Thà đã ra lệnh cho Hạm Phó là Thiếu Tá HQ. Nguyễn Thành Trí, sinh năm 1941 tại Sa Ðéc, Tốt nghiệp khóa 17 sĩ quan hải quân/Nha Trang, hướng dẫn số quân nhân còn sống sót, trong tổng số 80 người trên tàu, dùng bè cao su về đất liền. Riêng Ông ở lại chết với tàu.

Trên biển, Thiếu tá Trí vì bị thương nặng nên đã chết trên bè, trước khi các quân nhân còn lại, được thương thuyền Skopionella của Hòa Lan, trên đường từ Hồng Kông đi Tân Gia Ba, cứu sống vào đúng đêm giao thừa Tết âm lịch Nhâm Dần (1974). Sau đó 22 quân nhân này được một chiến hạm cũa Hải Ðội 1 Duyên Phòng, đón về đất liền. Còn 16 Biệt Hải của Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt, có lệnh giữ đảo Vĩnh Lạc, sau khi Hòang Sa thất thủ, đã dùng bè cao su vượt biển về đất liền. Lênh đênh nhiều ngày trên sóng nước, nắng mưa gió lạnh, cuối cùng cũng được một Tàu đánh cá cứu thoát đưa về điều trị tại Quân Y Viện Qui Nhơn, 2 người chết vì đói lạnh, số còn lại may mắn thoát được tử thần.

Cuộc hải chiến chấm dứt, các chiến hạm của VNCH đều rút lui, vì Hoàng Sa đã thất thủ. Bấy giờ giặc Tàu mới bắt đâu thu dọn chiến trường và xua quân chiếm đóng tất cả các đảo. Về phía VNCH còn kẹt lại trên đảo, gồm Trung đội DQP.Quảng Nam, các quân nhân Hải quân, 7 Sĩ quan công binh trong toán khảo sát địa chất, 4 nhân viên sở khí tượng và 1 người Mỹ làm việc ở Tòa lãnh sự Hoa Kỳ thuộc Quân đoàn 1. Tổng cộng là 42 người, đều bị giặc bắt làm tù binh, giải về thành phố Quảng Châu và giam trong một trại tù, cạnh dòng sông Sa Giang. Ðây cũng chính là nơi mà hơn mấy chục năm về trước, anh hùng Phạm Hồng Thái đã gieo mình tự vẫn, để không bị sa vào tay giặc Pháp, sau khi ném bom ám sát hụt Merlin, toàn quyền Ðông Dương đang có mặt tại Hồng Kông vào năm 1924.

Lúc đó đúng 8 giờ sáng ngày mồng một tết nguyên đán, thời gian hạnh phúc nhất của các dân tộc Á Ðông vui xuân theo âm lịch, trong đó có VNCH. Riêng 42 tù binh VN liên tục bị bọn an ninh Trung Cộng , tra vấn, bắt buộc phải nhận tội là đã chiếm đóng bất hợp pháp lãnh thổ của Tàu. Nhưng rồi không biết vì sao, Ðặng Tiểu Bình ra lệnh phóng thích tất cả, đưa tới Hồng Kông để mọi người hồi hương.

Lịch sử lại tái diễn, ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân Việt Cộng, tại quần đảo Trường Sa. Trong cuộc hải chiến ngắn ngủi này, vì VC chỉ phản ứng có lệ, nên tài liệu cho biết phía Trung Cộng , không có ai bị tử thương cũng như tàu chìm. Ngược lại, bên VC có nhiều tàu chiến bị chìm, gồm : Chiến Hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ , 1 Tuần Dương Hạm củ của VNCH để lại, 1 Hải Vận Hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300 lính Hải quân bị thương vong.

Thương biết bao những anh hùng vị quốc, trong đó có những chiến sĩ Hải quân/VNCH năm nào, đã anh dũng chống giặc Tàu xâm lăng, như tổ tiên ta đã bao đời banh thây đổ máu để có ‘ Nam quốc sơn hà, nam đế cư ‘ nhưng ngày nay đã bị CSVN hũy diệt gần như tận tuyệt từ đất liền ra tới biển đảo !

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Đêm 19-1-2013

Mường Giang


Tuesday, December 25, 2012

Friday, November 23, 2012

Vịt tiềm


Những Sự Thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh
    - Hoàng Cơ Minh đã chết như thế nào ?
    - Các tướng Thái khai thác “dịch vụ kháng chiến” ra sao ?
    - Ai chủ trương Khủng Bố người làm báo ?
    - Nhóm Nguyễn Đồng Sơn và những mưu đồ mới.
Nguyễn Toàn

Trước khi nói đến cái chết của ông Hoàng Cơ Minh, thiết tưởng cần phải lội ngược lại thời gian, khi “Mặt Trận” được thành lập, và những hoạt động của nó, để từ đó đưa đến cái chết tăm tối của người đứng đầu tổ chức từng được xảo thuật tuyên truyền của “Mặt trận” đưa lên cao như một vị anh hùng dân tộc.

Từ Thu Tiền Ở Hải Ngoại, Đến “Chiến Khu Quốc Nội”

Thật ra, vào năm 1982, khi hai ông Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu dựng ra “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” (MTQGTNGPVN), thì nhóm này chỉ đưa được có 8 (tám) người về Thái Lan. Nhưng, nhờ biết cướp thời cơ lúc tinh thần người Việt lưu vong đang lên cao, và nhất là nhờ những xảo thuật tuyên truyền lừa bịp như mấy phút phim video “Đông Tiến” dàn cảnh ở Thái Lan, “Mặt Trận” đã đưa “uy tín” của “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh” và phe nhóm lên rất cao.

Trong khi “chiến khu quốc nội” chỉ có trên phim video, thì tại hải ngoại, “Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến” do ông Phạm Ngọc Lũy chủ xướng tha hồ thu góp tiền bạc, các “cán bộ lãnh đạo Mặt Trận” trở thành những “quan lớn phục quốc” và hách dịch. Đoàn viên “Mặt Trận” thì vênh váo, làm như là sắp giải phóng được đất nước tới nơi và sắp đè đầu, cưỡi cổ thiên hạ. Đây là giai đoạn cực thịnh của nhóm Minh-Liễu, vì đã thành công trong việc đánh lừa được đa số người Việt tỵ nạn, khiến một số ít người phát giác được trò lừa bịp của “Mặt Trận” có nói lên cũng không mấy ai tin, mà còn bị chụp mũ là Việt cộng, hoặc bị khủng bố…

Năm 1983, ông Hoàng Cơ Minh từ “chiến khu quốc nội” về Hoa Kỳ với chiếc khăn rằn quàng cổ để mở “Đại Hội Chính Nghĩa”, tuyên bố là đã “thống hợp được 36 (ba mươi sáu) tổ chức kháng chiến gồm 10,000 (mười ngàn) tay súng ở quốc nội”, nhưng sự thật “chiến khu” này chỉ là một mảnh rừng ở Buntharit, thuộc tỉnh Uborn, được viên tướng Thái Sút-Sai, Tư lệnh đơn vị 309 Tình báo làm ngơ cho sử dụng với số tiền “trà nước” lúc đầu khoảng 2,000/ 3,000 đô la Mỹ, và phải đóng “hụi chết” hàng tháng từ một tới ba ngàn Mỹ kim, chưa kể quà cáp biếu xén các bà tướng, bà tá “nước bạn”.

“Chiến khu” này, chính là nơi đã được nhóm Minh-Liễu dùng để khai sinh “MTQGTNGPVN” vào ngày 8.3.1982, công bố “Cương lĩnh chính trị” kêu gọi “người người nổi dậy, nhà nhà thành công chiến đấu chống lại bạo quyền cộng sản”. Tuy trình diễn rình rang và hô hào đao to búa lớn như vậy, nhưng thực ra như trên đã nói, cán bộ nòng cốt của “Mặt Trận” tại “chiến khu” không quá 8 (tám) người (trong đó, có Hoàng Cơ Minh, Lê H., Nguyễn kim H., Nguyễn Trọng H. Lạc), còn các “kháng chiến quân” xuất hiện trong video hầu hết là… thuê của Thái Lan!

Tàn Ác và Sắt Máu

Tuy số cán bộ của “Mặt Trận” tại “chiến khu” đếm không đủ mười đầu ngón tay, nhưng Hoàng Cơ Minh đã phong tướng… không quân cho tả hữu. Cựu Trung tá Nhảy dù Lê H., bí danh Đặng Quốc Hiền, được phong “Tướng Tư lệnh Lực lượng Kháng chiến”, cựu Đại tá Dương Văn Tư (gia nhập “Mặt Trận” từ trại tỵ nạn Thái Lan) được phong “Tướng Tư lệnh Chiến khu (ở Uborn), ông cựu Trung úy Phòng 7 Bộ Tham Mưu Nguyễn Trọng H., bí danh Huy, được thăng “Đại tá Tư lệnh phó Lực lượng Vũ trang. Huy có một Album hình ảnh “Lễ Tuyên Bố Cương Lĩnh Mặt Trận” và sinh hoạt ở “chiến khu” đem vào các trại tỵ nạn để tuyên truyền và tuyển mộ quân.

Trong thời gian 1982-1983, có hai người Việt làm việc cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok là các ông V. và N., đã giúp nhóm Hoàng Cơ Minh rất nhiều. Tuy nhiên, sau một thời gian sôi nổi lúc đầu, những người có mặt tại Thái Lan đã thấy rõ hơn ai hết chân tướng của phe nhóm Hoàng Cơ Minh, nên ai có thể xa lánh dược, thì xa lánh, ai bị “kẹt” thì bất bình và bất mãn. Để trấn áp các sự phản kháng và ngăn chận “đào ngũ” Hoàng Cơ Minh đã cho thi hành kỷ luật thép, và hơn thế nữa, đã dùng sự tàn ác sắt máu đối với những người bất tuân phục. Không kể một số thanh niên vô danh theo “Mặt Trận” từ các trại tỵ nạn, sau đó, đã bị thủ tiêu vì định bỏ “chiến khu”, còn những cái chết bí ẩn của một số người được dư luận biết đến. Được nói tới nhiều nhất là cái chết của Kỹ sư Ngô Chí (Trí) Dũng, một thanh niên trí thức đầy nhiệt huyết đã bỏ đời sống êm ấm tiện nghi ở Nhật Bản đi theo “Mặt Trận”, người đóng góp rất nhiều cho “Mặt Trận” và cũng là người đã nuôi dưỡng “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh” lúc còn bôn ba… ăn nhờ ở đậu tại Nhật. Ông Dũng đã tới sống tại “chiến khu” và rồi không biết chuyện gì đã xẩy ra, mà sau đó, ông Dũng bị giết chết hết sức bất ngờ, xác được vùi ở một khu rừng chồi tại Buntharit. Một người khác là bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, một cựu sĩ quan trợ y trong QLVNCH được “Mặt Trận” tuyển mộ tại trại tỵ nạn, và thăng chức bác sĩ. Ông Nhiều đã bị “Mặt Trận” xử tử. Chưa kể Đại tá Dương Văn Tư chết vì bệnh hoạn và thiếu dinh dưỡng, ít nhất cũng có ba người bị thủ tiêu tại “chiến khu” trong một thời gian ngắn.

Cái chết của Hoàng Cơ Minh

Vào năm 1985, khi tại Hoa Kỳ, cánh Phạm Văn Liễu, Trần Minh Công tách ra khỏi “Mặt Trận” và những mánh lới lừa bịp nhằm moi tiền đồng bào được chính các thủ phạm vạch áo cho người xem lưng, thì cũng là lúc tại Thái Lan, nhà cầm quyền nước này làm khó dễ, trục xuất toàn bộ nhóm Hoàng Cơ Minh về Mỹ (trong đó có Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Kim H. Nguyễn Trọng H…). Thật ra, Hoàng Cơ Minh không mấy khi có mặt tại Thái Lan. Thỉnh thoảng Hoàng Cơ Minh có qua Thái Lan, nhưng thường ở căn nhà tại khu Sảm-Sẻn, được gọi là “Hậu trạm”, chứ ít khi ông ta xuất hiện tại “chiến khu”.

Khi xảy ra vụ các “chiến hữu” chia ra hai phe bôi mặt đá nhau vì ăn chia không đồng đều và “Mặt Trận” đang trên đà tan rã thì Hoàng Cơ Minh ở luôn tại San Jose, Bắc California, thỉnh thoảng tới họp với các “xứ bộ” còn trung thành để làm ra vẻ “Mặt Trận” vẫn còn mạnh lắm. Ông ta mặc đồ lớn, chứ không còn mặc áo bà ba, cuốn khăn rằn ở cổ nữa!

Trong khi đó, “chiến khu quốc nội” tại Thái Lan lâm cảnh rắn không đầu, và bị “đuổi nhà” nên tự động tan rã, và còn một ít người vì lý do này hay lý do khác phải sống chết với “Mặt Trận” thì di chuyển lên vùng Udon.

Gần cuối năm 1987, sau khi tạm “củng cố hàng ngũ” còn lại ở quốc ngoại, Hoàng Cơ Minh lại vận động đút lót để được trở lại “quốc nội Thái Lan” nhưng vừa đặt chân đến đất Thái, ông ta đã nhận được lệnh của viên tướng Svet, Tư lệnh vùng biên giới, bắt phải đổi căn cứ lên miền Bắc Thái. Hoàng Cơ Minh không còn cách nào khác hơn là phải tuân lệnh viên tướng Thái này, một lần nữa phải di chuyển căn cứ từ Udon lên Bắc Thái với dự định lập căn cứ mới tại khu Bukdahan, sát biên giới Thái-Lào. Chính trong cuộc di hành này, mà Hoàng Cơ Minh đã bị một số “kháng chiến quân” bắn chết. Bốn người trong số “kháng chiến quân” từng bị Hoàng Cơ Minh bỏ rơi ở Thái Lan từ năm 1985, với sự xúi dục của tên Lưu Tuấn Hùng đã bất ngờ rút súng bắn sả vào Hoàng Cơ Minh trong lúc đang đi dọc đường. Cần mở một dấu ngoặc ở đây để nói thêm về Lưu Tuấn Hùng. Y là một tên gián điệp Việt cộng dưới quyền điều khiển của Trung tá công an Việt Cộng “Việt Dũng” thuộc “Sở công an TP Hồ chí Minh”, được gửi đi vượt biên với ý đồ trường kỳ mai phục hoạt động trong các lực lượng chống cộng ở hải ngoại. Năm 1983, Lưu Tuấn Hùng được cựu Trung tá Nguyễn văn H. người từ trại tỵ nạn Sikiew ra làm việc cho cơ quan tình báo Hoa Kỳ ở Aranya Prathet đưa ra khỏi trại để điều tra và định dùng y xâm nhập Việt Nam, nhưng rồi kế hoạch không được thực hiện. Hùng được trả về trại Sikiew. (Ông NVH hiện cư ngụ ở Virginia. Vài tháng sau, người ta thấy Nguyễn Kim H. và Nguyễn Trọng H. đến trại tiếp xúc với Lưu Tuấn Hùng và kết nạp y làm “Đại diện Mặt Trận” tại Sikiew. Hắn đã mua chuộc được sự tín nhiệm của Hoàng Cơ Minh và được ông này sử dụng làm “tùy viên”. Chính Lưu Tuấn Hùng đã xúi dục bốn người khác giết chết Hoàng Cơ Minh để đoạt hai ký lô vàng mà ông này mang theo định để đút lót các viên chức Thái trong việc lập lại “chiến khu” mới.

Sau khi Hoàng Cơ Minh “chết”, nhóm người đi theo ông ta (độ 60 người) sợ bị Thái Lan bắt trừng trị, nên không còn con đường nào khác hơn là tạm thời vượt sông Mekong kéo nhau sang Nam Lào, không may lọt vào ổ phục kích của Lào Cộng, bị sát hại một số, còn một số bị bắt làm tù binh Việt Nam, trong số này có cả Lưu Tuấn Hùng. Bởi vậy, người biết chuyện không hề ngạc nhiên khi được tin “Tòa án nhân dân TP Hồ chí Minh” chỉ xử Lưu Tuấn Hùng tù treo! Một chế độ cộng sản sắt máu không bao giờ xử án treo kẻ đã vượt biên trốn ra khỏi nước, gia nhập lực lượng kháng chiến và trở về chống phá chúng bằng vũ khí. Trừ khi kẻ ấy là người của chúng cài vào. Chi tiết về cái chết của Hoàng Cơ Minh đã được một số sĩ quan cao cấp Thái, trong đó, có Đại tá Thamasak thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 80 ở vùng biên giới Prachinburi, xác nhận với kẻ viết bài này.

Nhóm Nguyễn Đồng Sơn và những mưu đồ mới:

Sau khi Hoàng Cơ Minh chết, MTQGTHGPVN không dám công bố tin tức này, vì sợ “Mặt Trận” tan rã và hơn nữa sợ nội bộ sẽ xâu xé nhau để giành giựt tiền bạc vì nhờ số tiền bịp bợm quyên góp được của đồng bào khắp nơi trong mấy năm, “Mặt Trận” đã sử dụng để kinh tài dưới nhiều hình thức như:

Hệ thống Phở Hòa, hệ thống Phở Bằng, hệ thống tàu đánh cá, hệ thống xuất nhập cảng hàng Á châu (nhất là thực phẩm), tiệm bida, mua nhà cho thuê… sau nhiều năm đã sinh lợi rất nhiều.

Vào tháng 5.1988 vừa qua, Nguyễn K.H., bí danh Nguyễn Kim, “Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại MTQGTNGPVN” đã cùng N.X.N, bí danh Nguyễn Đồng Sơn, trở lại Thái Lan (nhờ móc nối với một sĩ quan cấp tướng của Thái, đút lót tiền nhiều để xin được đỡ đầu) để vận động lập lại “chiến khu quốc nội mới” và sẽ tiếp tục xin phép vào các trại biên giới (các trại đang bị Thái chèn ép bắt giam và đòi trả về Việt Nam) để tuyển mộ người (những người trong các trại này đang sống trong tình trạng tuyệt vọng, dễ bị quyến dụ đi theo).

Với sự đút lót và vận động của Sơn-Kim, viên sĩ quan cấp tướng của Thái Lan đang định thúc ép nhóm “kháng chiến” của Thái Quang Trung phải sáp nhập với nhóm của Sơn-Kim để thành lập lại trại Bukdahan. Sau khi đã có trại mới, có một ít quân, họ sẽ xúi dục những người này bịa ra câu chuyện chiến đấu ác liệt với cộng sản và nhân đó, sẽ công bố cái chết của Hoàng Cơ Minh. Họ cũng đã chuẩn bị đưa phó Đề Đốc Hải quân Đinh M.H. lên làm “Chủ tịch Mặt Trận.

Tông tích Nguyễn Đồng Sơn không còn lạ gì đối với các tổ chức chống cộng ở hải ngoại, cũng như với cơ quan an ninh Thái Lan. Y là cháu ruột của Nguyễn Xuân Cúc, bí danh Mười Cúc, tức Nguyễn Văn Linh, đang là chúa trùm đảng cộng sản Việt Nam.

Trước 30.4.1975, Nguyễn Đồng Sơn cùng cánh với Nguyễn văn Hảo. Sau khi cộng sản chiếm đoạt miền Nam, Nguyễn Đồng Sơn cũng đã cùng Hảo giúp cho Việt cộng tiếp thu của cải và “quản lý” kinh tế miền Nam, sau đó, cả hai được Việt cộng cho rời Việt Nam sang Pháp theo đường chính thức. Năm 1983, Nguyễn Đồng sơn đã sang Hoa Kỳ tìm cách xâm nhập “Mặt Trận” và mua được lòng tin cậy của mấy anh em Hoàng Cơ Minh.

Nhóm Thái Quang Trung (con của cụ Thái Văn Kiểm) tuy có nhận sự trợ giúp của Tầu Cộng, nhưng các “kháng chiến quân” sống tại căn cứ Bukdahan cũng rất thiếu thốn cực khổ, và không có tiền mặt để đút lót cho tướng, tá Thái Lan, nên có thể phải nhập với “Mặt Trận” của Sơn-Kim để có thêm phương tiện và nhân sự hầu làm vừa lòng các tướng tá Thái Lan, để được yên, bằng cách canh chừng biên giới và xâm nhập lãnh thổ Đông Dương thâu thập tin tức tình báo cho Thái. Nếu dự định này thành tựu thì sau Hoàng Cơ Minh, “Mặt Trận” của Kim-Sơn sẽ trình diễn một màn lừa bịp thứ hai.

Tiếp tục Khủng bố

Từ ngày “Mặt Trận” ra đời đã xảy ra nhiều vụ Khủng Bố nhắm vào các phần tử Quốc Gia, đặc biệt là những người cầm bút, trong giới người Việt lưu vong tại Mỹ. Từ đe dọa, đến ám sát, đốt nhà… Những người bị Khủng bố đều có chung một “tội” là không chịu hùa theo đồng lõa với những trò lừa bịp của “Mặt Trận”, nên dù không tìm ra thủ phạm, dư luận vẫn biết ai đã chủ mưu những vụ này.

Một hôm vào trung tuần tháng 5.1988, nhân dịp Sơn và Kim đến Bangkok, nhờ tình cờ nghe được câu chuyện trao đổi giữa hai đoàn viên “Mặt Trận”, kẻ viết bài này càng tin thêm là dư luận đã không sai lầm.

Hôm ấy, kẻ viết bài này đang ngồi trong một Snack bar ở đường Sukhumvit, Bangkok, một nơi dành cho người ngoại quốc du hí, thì gặp hai người Á châu có đeo huy hiệu “Mặt Trận” trên ve áo vest. Người viết tảng lờ như không biết họ là người Việt Nam, ngồi tán tiếng Thái với cô cashier, trong khi vẫn lắng nghe và để ý dò xét hai người này. Một trong hai người dè dặt đưa mắt nhìn người viết rồi nói gì đó với bạn đồng hành. Sau đó, một người giả bộ cầm điếu thuốc lá sang hỏi người viết xin mồi lửa bằng tiếng Việt. Người viết cũng phải đóng kịch bằng cách ngẩn tò te như không hiểu hắn nói gì và hỏi lại bằng một tràng tiếng Thái:

- Tôi không hiểu ông nói gì? Tôi là người Thái. Bộ ông là người Nhật hả? Tôi không biết tiếng Nhật.

Y cười, nói với tôi bằng tiếng Anh:

- Ồ xin lỗi ông, tôi nghĩ ông là người Nhật như chúng tôi.

Từ đó, hai người không e ngại tôi nữa. Họ thản nhiên nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nho nhỏ. Trong bar, ngoại trừ tôi và hai người đó là Á châu cùng với cô cashier duyên dáng người Thái, còn khách toàn là Tây phương; vì vậy, hai người này không phải e dè gì cả. Nhưng họ không biết một điều tối hệ trọng là ở Bangkok có rất nhiều gián điệp của nhiều quốc gia Tây phương và của cả cộng sản nữa, và rất nhiều người biết tiếng Việt, nghe, viết, nói cả tiếng Việt rất giỏi. Có nhiều người nếu không gặp mặt, nhìn họ nói mà chỉ nghe qua vách thì sẽ nghĩ là hai người Việt đang nói chuyện với nhau.

Sau khi nói những chuyện tầm phào, bá vơ, chuyện chơi bời du hí ở các động sang trọng của thủ đô Bangkok, nơi rất nổi tiếng về các món ăn chơi ở vùng Đông Nam Á, hai người vừa uống bia Singha (loại bia đen của Thái rất nặng), vừa trò chuyện. Một người hỏi:

- Tại sao không làm luôn thằng Nguyễn Thanh Hoàng của tờ Văn Nghệ Tiền Phong cho rồi?

- Tại sao phải làm thằng Nguyễn Thanh Hoàng?

- Tên này liên tiếp chửi bới, bôi nhọ và lật tẩy Mặt Trận. Nếu không “dứt” thì sẽ tai hại rất nhiều, vì y nắm được rất nhiều tài liệu về hoạt động của Mặt Trận.

- Vậy sao mình không dứt bọn nó cho rồi.

- Bây giờ chưa được. Vì bứt dây động rừng ông biết không? Biết đâu bọn nó đã nhờ cảnh sát bảo vệ, mình cựa quậy bây giờ là nát xương…

Kháng Chiến Phục Quốc Hay Giữ Dưa?

Như trên đã trình bày, chính sách Thái Lan từ trước tới nay đối với các tổ chức kháng chiến chống cộng sản Việt Nam, là mở cửa cho bất cứ người nào có khả năng về nhân sự, tài chánh, và tổ chức để gây dựng một “chiến khu” ở vùng biên giới Thái-Miên hoặc Thái-Lào. Áp dụng chính sách này, Thái Lan có hai điều lợi: Thứ nhất, là họ có một đơn vị biên phòng ngăn cản Việt cộng mà không phải trả lương. Thứ hai, là họ có thể sử dụng những lực lượng kháng chiến Việt-Miên-Lào để trả giá với Việt cộng. Nếu Việt cộng tấn công mạnh sang đất Thái, họ sẽ có cớ để mặc cả bằng cách dọa dẫm sẽ yểm trợ các lực lượng kháng chiến của cả ba nước Đông Dương mạnh hơn… Dù sao thì người Thái vẫn có lợi, đó là chưa kể đến cái lợi về tài chánh do lực lượng có căn cứ ở biên giới Thái phải yểm trợ cho kháng chiến của mình qua tay của người Thái. Kháng chiến đã trở thành một dịch vụ sinh lợi cho các vị tướng lãnh Thái, Tư lệnh các đơn vị được phép yểm trợ cho từng tổ chức kháng chiến. Thí dụ: đơn vị 309 tình Báo Biên Giới trực thuộc Bộ tư Lệnh quân Đội Hoàng gia Thái Lan đỡ đầu cho “Mặt Trận” của Hoàng Cơ Minh. Họ đã che chở cho nhóm Hoàng Cơ Minh và trực tiếp chỉ huy những người lãnh đạo lực lượng Hoàng Cơ Minh. Tư lệnh của đơn vị 309 Tình Báo là tướng Sút-Sai, một người đã được hưởng khá nhiều tiền của nhóm Hoàng Cơ Minh qua trương mục ở Ngân Hàng Quân Đội. Ngoài số tiền “thuê” mảnh đất rừng ở Buntharit, tỉnh Uborn, phải đóng lần đầu cho vị tướng này (khoảng từ 20,000 đến 30,000 dollas); hàng tháng “Mặt Trận” lại phải đóng “hụi chết” cho các vị tướng Thái, khi thì 1000 đô la, khi 2-3000 vô kể. Ngoài ra còn phải quà cáp biếu xén bà tướng, và các vị Đại tá, Trung tá… Đơn vị 315 Tình Báo Biên Giới Thái là cha đỡ đầu cho nhóm kháng chiến của ông Lê Quốc Túy.

Những đơn vị kháng chiến trở thành những tiền đồn cho Thái Lan và tùy theo các đơn vị Thái đỡ đầu, các lực lượng kháng chiến Việt Nam còn phải làm công tác tình báo, trinh sát vào nội địa Lào, Miên để thu thập tin tức tình báo. Vì thế, khi nhìn hình ảnh các kháng chiến quân người Việt Nam, người ta thấy mặc quân phục Thái, đội mũ của lực lượng biên phòng Thái, nhiều người đã tưởng rằng đây là đơn vị của Thái Lan, và không ai nghĩ rằng đó là những người bị giới hạn cư ngụ trong những vùng đèo heo hút gió, không có quyền đi ra khỏi khu vực trú đóng. Thỉnh thoảng mới có một, hai người được người Thái chở vào các thị xã để mua bán, hoặc liên lạc với “hậu trạm” đặt tại Bangkok.

Lực lượng kháng chiến nào cũng có “hậu trạm” đặt tại Bangkok. Khi thì đặt tại nhà một vị tướng Thái, có số điện thoại để liên lạc viễn liên về Hoa Kỳ và các “hậu trạm' này đều thuê hộp thư ở bưu điện để liên lạc với các tổ chức yểm trợ tại Hoa Kỳ hoặc các nước khác.

Cũng có khi thì “hậu trạm” được các sĩ quan Thái của đơn vị đỡ đầu thuê cho ở một căn nhà bên ngoài thuộc khu an toàn, và thường là nhà của các sĩ quan cao cấp Thái để bảo đảm an toàn; tất nhiên cũng có đầy đủ tiện nghi và phương tiện để liên lạc đi các nơi. Trung bình giá một căn cứ (là một cánh rừng thuộc các tỉnh Đông Bắc Thái Lan giáp ranh giới Miên, Lào), các lực lượng kháng chiến Việt Nam trả cho các vị tướng Thái vào khoảng 20,000 đến 30,000 Mỹ kim… mỗi tháng, lại phải đóng tiền “thuê rừng” cho vị tướng vào khoảng 2,000 đến 3,000 dollars. Số tiền này hoàn toàn vào túi riêng của vị tướng. Khi vui thì họ cho ở, phật ý thì họ đuổi.

Trên thực tế, chính quyền Thái chưa bao giờ chính thức yểm trợ các tổ chức kháng chiến Việt Nam, các nhân vật lãnh đạo các tổ chức kháng chiến chỉ được sự che chở ngầm của quân đội Thái và các tướng chỉ huy đơn vị đỡ đầu. Vì vậy, tình trạng của các đơn vị kháng chiến rất mong manh, nhất là anh em từ các trại tỵ nạn nhập vào. Họ bị sống bơ vơ trong các căn nhà lá nằm cheo leo trong những rừng núi hoang vu mà tình trạng tiện nghi rất là thiếu thốn, sinh hoạt hàng ngày cũng vô cùng eo hẹp. Đối với một số những cán bộ lãnh đạo đã có quốc tịch ở các quốc gia tạm dung như Pháp, Úc… thì tình trạng khá hơn, vì khi ông tướng Thái không bằng lòng vì một lý do nào đó (như nộp tiền hàng tháng trễ), thì họ chỉ trục xuất các cán bộ lãnh đạo này ra khỏi nước Thái; còn những người ở các trại tỵ nạn ra thì đi cũng không xong, mà ở cũng không chẳng được, tình trạng này thật là vô cùng bi đát. Người nào liều lĩnh trốn đi một cách bất hợp pháp, nếu người Thái bắt được sẽ bị đánh đập dã man, nếu không thì lọt vào tay cộng sản. Đằng nào cũng… chết!!!

Mấy năm nay, các tổ chức kháng chiến có căn cứ ở Thái Lan cứ quanh quẩn dậm chân ở biên giới Đông Dương, vừa nuôi béo các ông tướng, bà tướng Thái Lan bằng những đồng tiền thu góp của đồng bào ta ở hải ngoại, vừa đóng vai trò “giữ dưa” canh đất không lương cho “nước bạn”.

Đây là chiếc thùng không đáy sẽ khiến cho chúng ta lao tâm khổ trí, hao tài, tổn sức vì nó. Nhưng nếu bỏ đi thì cũng không đành lòng, vì còn đâu cơ hội mong manh giải phóng quê hương? Và niềm tin mù mờ kia sẽ lụi tàn theo năm tháng và quên lãng với thời gian; rồi những cám dỗ xa hoa của đời sống tiện nghi ở nước tạm dung sẽ làm chúng ta không còn thiết tha với chuyện đấu tranh gian khổ. Một khi ngọn lửa đấu tranh đã thực sự lụi tàn, chỉ còn là những tro than lạnh lẽo, thì làm sao chúng ta có thể khơi lại cho bùng cháy dữ dội để thiêu đốt bọn quỷ dữ cộng sản Việt Nam.

Tệ hơn nữa, có những nhóm người bất lương với các ý đồ đen tối, đã lợi dụng những “chiến khu” ở Thái Lan, để lừa bịp đồng bào, vơ vét tiền bạc của những người dễ tin - Khủng Bố những ai dám nói thật, biến kháng chiến thành trò hề, và đẩy lùi giấc mơ phục quốc ngày một thêm xa!!!

Nguyễn Toàn

Bài này đã đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong trang 25-26-27 và 88-89 số 303, từ ngày 1 đến 15 tháng 9 năm 1988.




Tuesday, October 30, 2012

Bia chủ quyền ở Trường Sa của VNCH

Hàng chữ trên bia:

Việt Nam Cộng Hoà
Quần Đảo Trường Sa
Đảo Song Tử Tây
Vĩ Tuyến 11 độ 25 phút 5 giây Bắc
Kinh Tuyến 111 độ 19 phút 6 giây Đông
Quần Đảo Trường Sa trực thuộc Tỉnh Phước Tuy
Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8 năm 1956
dưới sự hướng dẫn cuả Hải Quân Việt Nam

HẢI QUÂN VIỆT NAM



Sunday, July 29, 2012

Bom đạn nào tàn phá quê hương? - Nguyễn Quý Đại

Nguyễn Quý Đại

Thành phố Genève/ Genf Thụy Sĩ thơ mộng, nghiêng bóng bên những hồ nước xanh biếc, mỗi lần ghé Công trường Place des Nation Genève gợi tôi nhớ dư âm ngày đau thương của lịch sử Việt Nam, Ngoại trưởng các cường quốc hội nghị ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, giải quyết vấn đề Việt Nam đưa đến Hiệp định Genève ký kết ngày 20.7.1954, Việt Nam bị chia đôi đất nước. Nguyên nhân nào Việt Nam bị chia đôi? rồi kéo dài cuộc nội chiến 20 năm, bom đạn ngoại bang tàn phá quê hương? hơn 3 triệu người đã hy sinh trong cuộc chiến cho đến ngày cuối cùng 30.4.1975. Chúng ta lại một lần bỏ nước ra đi làm người viễn xứ! thời gian trôi mãi không ngừng và bất tận, đời người chỉ có giới hạn, chúng ta tìm về những điểm chính lịch sử, không phải gây lại lòng hận thù mà là bài học kinh nghiệm hữu ích cho con cháu mai sau.

Những người trách nhiệm với lịch sử đã an giấc ngàn thu, công và tội chỉ còn lại trên những trang sử cho hậu thế, cái khó người viết sử không tránh khỏi thế lực bên ngoài, bị kiểm duyệt, dưới chế độ CS luôn đề cao chủ thuyết, đánh bóng một nhân vật..nhưng sự thật sai lầm nghiêm trọng, những cuộc thanh trừng đẩm máu trong nội bộ, giết lầm hơn bỏ sót ít được nhắc đến? Trường hợp Hồng quân Nga giết hàng chục ngàn sĩ quan Ba Lan ở rừng Katyn, các tài liệu sử thời Ba Lan thân Liên Xô đổ tội cho quân đội Đức Quốc Xã, hơn 20 năm qua mới đưa ra bằng chứng ai đã giết? Hiện nay ở hải ngoại có đầy đủ tài liệu phong phú, gần 100 tác phẩm viết về cuộc chiến Việt Nam, để chúng ta có thể nhìn lại sự thật lịch sử và những đau thương của dân tộc Việt Nam.

Những cơn gió bụi

Diễn tiến lịch sử ngày 19.6.1940 Nhật Bản buộc Pháp mở cửa Đông Dương cho quân đội Nhật vào Việt Nam. Nhật lập khối Đại Đông Á ngày 1.8.1940, đòi hỏi Pháp cung cấp thực phẩm cho quân đội của họ, Quân Nhật vào Việt Nam trên tay chỉ có vũ khí không cần lương thực, ăn hết lúa gạo Việt Nam? Pháp vì quyền lợi buộc dân VN giảm diện tích trồng lúa, và trồng những cây kỷ nghệ để phục vụ chiến tranh! thu mua ngũ cốc đầy kho, nạn nhân là người Việt Nam chịu nhiều đau thương, khốn khổ, năm 1944-1945 Ất Dậu, gần 2 triệu người bị chết đói !

Âu Châu quân Đồng Minh đổ bộ ngày 06.6.1944 thành công ở bải biển Normandie, đến ngày 23.8.1944 quân Đồng minh giải phóng Paris. Tướng Charles de Gaulle lập chính phủ, Đồng Minh chiến thắng trên các mặt trận. Ý bại trận Mussolini bị giết, ngày 30.4.1945 Hitler tự từ, người kế vị là Karl Doenitz đầu hàng vô điều kiện ngày 09.5.1945. Chiến tranh để lại đau thương, nghèo đói và đổ nát. Nước Đức bị chia đôi 2 miền Đông và Tây, gây nên chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Tình hình không thuận lợi cho quân Nhật ở Đông Dương nên ngày 09.3.1945 Nhật đảo chánh Pháp thành công chớp nhoáng. Đại sứ Nhật Yokoyama yết kiến vua Bảo Đại tại điện Thái Hòa, tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. từ đó Nhà giáo Trần Trọng Kim ở Singapore, Thái Lan được mời về thành lập chính phủ ngày 09.3.1945, nhưng Nhật không hơn gì bọn thực dân Pháp với tham vọng làm anh cả da vàng, chính phủ Trần Trọng Kim lệ thuộc vào chính sách Đại Đông Á của Nhật.

Ngày 26.7.1945 các nước Đồng Minh gởi tối hậu thơ Postdame buộc Nhật đầu hàng nhưng Nhật còn ngoan cố. Ngày 06.8.1945 lúc 8 giờ sáng chuyến bay B-29 cất cánh từ TINIAN một đảo nhỏ thuộc Marianas ném trái bom «litte Boy» xuống Hiroshima nhiệt độ từ 5400-7500 độ F lửa bốc cao 1900 feet sát hại hơn 100 ngàn người; và ngày 09/8 ném «Fat man» xuống Nagasaki giết chết 74 ngàn người. Ngày 15.8.1945 Nhật Hoàng Hiro Hito đầu hàng vô điều kiện trên chiến hạn Missouri của Hoa Kỳ chấm đứt đệ nhị thế chiến. Tại Postdam Berlin đại diện các nước: Hoa Kỳ là Harry Truman, Anh Quốc Winston Churchill sau thay thế Clement Attlee; Liên Sô là Stalin. Giải quyết vấn đề Đông Dương quân đội Anh Quốc và Trung Hoa đến Việt Nam giải giới quân đội Nhật Bản, được phân chia trách nhiệm phiá Nam vĩ tuyến 16 quân đội Anh; bắc vĩ tuyến 16 quân đội Trung Hoa.

Khúc quanh Lịch Sử

Ngày 17.8.1945 hàng ngàn công chức trên đường Paul Bert đến Hàng Trống biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, cán bộ Việt Minh chen vào cuộc biểu tình phất cờ đỏ sao vàng hoan hô VM! xách động phong trào và cướp chánh quyền, các Ủy Ban Nhân Dân ra đời. Việt Minh cướp chính quyền mùa thu năm 1945, Bảo Đại đời vua thứ 13 cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị ngày 30.8.1945 tại cửa Ngọ Môn, làm công dân Vĩnh Thụy. Hồ Chí Minh thành lập Chính Phủ Lâm Thời ở Hà Nội ngày 2.9.1945. Thanh niên hăng say tranh đấu dành độc lập và chủ quyền vì thất vọng với chủ trương của Nhật và nội các Trần Trọng Kim không gây được uy tín. Người ta không để ý đến chủ thuyết cộng sản Stalinism, Maoisn, Marx-Lenin là gì trước cao trào dành độc lập

Tối hậu thư Postdam muốn "chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình tại Đông Dương", không đề cập rõ nội dung ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật rút về nước? ngày 16.9.1945 phái bộ quân sự Anh Quốc do tướng Douglas Gracey đến Sài Gòn quân Pháp đi theo, quân Anh ngầm hỗ trợ quân Pháp chiếm lại Sài Gòn và các tỉnh miền Tây, và dần dần tiến ra Bắc. Gần 200 ngàn quân Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) đến Hà Nội có các lãnh tụ lưu vong của VNQDĐ, và Việt Cách theo về nước. Phía Việt Minh gặp trở ngại trước sự hiện diện của các đảng phái cách mạng theo khuynh hướng Quốc Gia. Chủ tịch HCM tuyên bố giải tán đảng CS Ðông Dương ngày 11.11.1945 nhưng tiếp tục hoạt động ngầm, (sau nầy đổi thành đảng Lao Động cuối cùng là đảng CSVN)

Tổ chức tổng tuyển cử ngày 06.01.1946 thành lập chính phủ Liên Hiệp ngày 02.03.1946 phe đối lập có 70 ghế, bề ngoài tạm thời hoà hoãn với các đảng khác nhưng trong thực tế, họ đã dùng nhiều thủ đoạn thanh trừng nếu không theo chủ trương của đảng CS. từ ngày 28.10.1946 Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ ngày 13.11.1946 với thành phần đa số là người của VM. Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam phải bỏ qua Trung Hoa..

(Bài học lịch sử khó quên khi làm việc chung với CS. Nếu một ngày nó đó Việt nam thay đổi như các nước Đông Âu 20 năm về trước, Việt Nam phải theo chế độ Dân Chủ, Đa Nguyên, những người yêu nước đủ khả năng tham gia chính quyền, các cuộc bầu cử phải nhờ Ủy Ban Giám Sát Quốc Tế. Bởi vì tiến trình Dân chủ khởi đầu chưa vững mạnh, tránh sự gian lận, lật lọng và thủ đoạn thanh toán của đảng CSVN từ trước đến nay họ thường áp dụng. Chính họ ký Hiệp định Paris chưa ráo mực, đã đem quân chiếm miền Nam.)

Pháp và Trung Hoa ký hiệp ước ngày 28.2.1946 Trung Hoa rút quân vào tháng 6.1946, quân Pháp thay thế ở Bắc Kỳ, trong đó có sự thỏa thuận Pháp trả lại cho Trung Hoa các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ Vân Nam. Trong thời gian quân đội Trung Hoa đến Việt Nam thừa hưởng khá nhiều quyền lợi, các tướng Lư Hán và Tiêu Văn được chính phủ Hồ Chí Minh hối lộ vàng để củng cố thế lực, bài thơ quyên vàng bạc, nữ trang đăng trên báo Cứu quốc:
    Đeo hoa chỉ tổ nặng tai
    Đeo kiềng nặng cổ hỡi ai có vàng
    Làm dân một nước vẻ vang,
    Đem vàng giúp nước giàu sang nào tày .....
Toàn dân Việt Nam muốn độc lập tự do, sau thế chiến 2 là thời giải thực, thời tàn của chế độ thực dân, các quốc gia bị thuộc điạ đều muốn đuổi thực dân ra khỏi bờ cõi. Sau thế chiến thứ nhất năm 1935 Mahatma Gandhi tranh đấu bất bạo động đòi Anh quốc trả lại chủ quyền. Thủ tướng Anh Attlee trả chủ quyền cho Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1950 thì hoàn toàn Độc Lập, Miến Điện 1948, Indonesia được Hòa Lan trao trả độc lập 17.8.1945.

Nhưng tiếc thay nước Việt Nam không may mắn như các Quốc gia trên, thực dân Pháp còn giữ chính sách thuộc điạ ở Đông Dương tái chiếm Việt Nam, Việt Minh ký hiệp định sơ bộ với Pháp ngày 06.03.1946 hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội Pháp trở lại Việt Nam! với mục đích củng cố hàng ngũ, tiêu diệt các thành phần Quốc gia, Quân đội Trung Hoa rút về nước các đảng phái chính trị hết chỗ dựa bị Việt minh tiêu diệt phải chạy sang Trung Hoa. Hội nghị Fontainebleau Hồ Chí Minh từng gặp riêng Bộ trưởng Bộ thuộc điạ ông Marius Moutet, nhưng không đem lại giải pháp nào cho vấn đề Việt Nam! trên thực tế Hội nghị Fontainebleu và Thoả ước đã ký kết âm thầm vào nửa đêm 14.9.1946 một thất bại ngoại giao cho Việt Nam.

Đệ Nhị Thế Chiến

Việt Minh và Pháp thường đụng độ bằng vũ lực tranh chấp, VM kêu gọi toàn quân dân Việt Nam cùng đánh đuổi thực dân ra khỏi bờ cõi. Từ đó Dân tộc Việt nam phải trải qua giai đoạn (1946-1954) khó khăn. Bộ đội VM rút khỏi Hà Nội ngày 29.11, chiến tranh chống Pháp bùng nổ ngày 19.12.1946, VM chủ trương tiêu thổ kháng chiến, nhiều nơi VM đốt phá Ðình-Chùa, nhà cửa ... ở kinh thành Huế nửa đêm 19.12.1946 cán bộ VM ra lệnh đốt một phần lớn cung điện trong hoàng thành! chiến tranh chống Pháp trong 9 năm dài đầy máu và nước mắt.

Thành phần trí thức vào chiến khu chống Pháp, nhưng một thời gian bất mãn với đường lối độc tài của cán bộ CS phải bỏ trốn về thành (La rentrée des jeunes intellectuels), dù họ không thân thiện với Pháp nhưng đành quay về thành sống yên thân, hơn là bị nghi ngờ làm mật thám, phản động, gián điệp, bị đấu tố ... VM thanh trừng tất cả nếu ai không theo chủ thuyết CS, Hồ Chí Minh nói „Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều bị bẻ gãy... „ (1) Nhiều người bị VM sát hại vì lý do chính trị, tôn giáo, đối lập như: Đức Hùynh Phú Sổ Hoà Hảo miền Nam, học giả Phạm Quỳnh ở Huế, Tạ Thu Thâu nhà văn Khái Hưng ở Hà Nội.....

Cựu hoàng Bảo Đại được HCM mời làm cố vấn cho chính phủ lâm thời, không đồng ý sự đàn áp của VM tiêu diệt những người yêu nước không theo CS, lợi dụng ngày 16.3.1946 theo phái đoàn ngọai giao sang thăm Trung Hoa, cựu Hoàng qua Côn Sơn Trùng Khánh và đến Hông Kông. Dân chúng Việt Nam đều biết Hoàng đế nước Nam chỉ ở Huế, đi nghỉ mát Đà Lạt săn bắn vùng Cao Nguyên, thích ăn chơi hơn lo việc nước, không có tinh thần yêu nước như các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân ... nhưng các nhà cách mạng Việt Nam theo khuynh hướng Quốc gia tự do, nhìn thấy nhu cầu cho tình hình Việt Nam nên ủng hộ cựu Hoàng thành lập chính phủ, lãnh đạo công cuộc tranh đấu dành độc lập không theo chủ nghiã cộng sản quốc tế. Cuối tháng 12.1947 cựu Hòang đến Pháp thương thuyết, ngày 05.06.1948 về nước ký thỏa ước Hạ Long trên chiến hạm Duguay-Trouin, Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đại, với nội các gồm đại diện các Đảng phái, Tôn giáo, đòi hỏi chính phủ Pháp trao trả độc lập .... Sau thoả ước nầy Quốc trưởng Bảo Đại sang pháp và ký thỏa ước Elysée với tổng thống Vincent Auriol ngày 8.3.1949 Pháp thừa nhận Việt Nam là Quốc gia thống nhất Bắc-Nam-Trung, có nền ngoại giao, kinh tế, tài chánh, tư pháp, giáo dục riêng ..thỏa ước nầy xem như xóa bỏ những Hiệp ước đã ký trước đó về vấn đề bảo hộ và Pháp hứa giúp thành lập quân đội Quốc gia do sĩ quan người Việt chỉ huy (từ tháng 7 năm 1949 đến 7.1954 Quốc Gia Việt Nam thay đổi 8 chính phủ với 5 thủ tướng!) Phủ Toàn quyền ở dinh Norodam đổi sang danh xưng là Phủ Cao Uỷ Đông Dương .

Tình hình thế giới cũng biển đổi, cuối năm 1948 Quân đội của Mao Trạch Đông/ Mao Zedong đại thắng ở Hoa Bắc tuyên bố thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa ở Bắc Kinh và tràng xuống miền sông Dương Tử làm chủ Vân Nam tướng Lư Hán đầu hàng ngày 11.12.1949. Tưởng Giới Thạch/Chiang Kai Shek di tản ra đảo Đài Loan. Ngày 18.1.1949 Mao thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh và khối cộng sản quốc tế giúp đỡ HCM chống Pháp.

Từ đó nước ta có hai chính phủ Quốc gia thân Tây phương, và Cộng sản thân Nga-Tàu. Hội nghị ngày 25 tháng giêng 1954 ở Berlin, thông báo ngày 18 tháng 2 có hoà đàm Genève khởi sự ngày 26 tháng 4 để giải quyết vấn đề Đông Dương cho đến ngày 08.05.1954 bàn cãi về vấn đề Việt Nam, các giới chính trị ở Pháp cũng như quân sự tranh chấp nội bộ, Pháp thua nhiều trận phải rút quân về gần Hà Nội, Pháp nhận thấy cuộc chiến tranh Đông Dương phải chấm dứt trong danh dự ? Phải giải quyết vấn đề ở Hội nghị Genève.

Thung lũng Ðiện Biên Phủ tỉnh Lai Châu, cách Hà Nội về phía Tây khoảng 500km. Từ Hà Nội theo quốc lộ 6 qua Sơn La, Thuận Châu, vượt đèo Pha Ðin sang Tuần Giáo rồi rẽ vào Ðiện Biên, bắt đầu ngày 13.3.1945 quân đội Việt Minh dưới quyền chỉ huy của tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Hoàng Văn Thái với chiến thuật biển người, mở cuộc tấn công bất thần vào hai vị trí Gabrielle và Béatrice và chiếm được 2 cứ điểm đầu tiên trong chiến dịch theo một số tài liệu cũng như hồi ký của tướng Võ Nguyên Giáp Giáp, viết có cố vấn quân sự Trung cộng Vi Quốc Thanh/ Wei guoqing, La Qúy Ba /Luo Guibo ... Việt Minh chủ trương vừa đánh vừa hội nghị, trận chiến kéo dài 57 ngày đêm, tướng De Castries chỉ huy trận ĐBP phải đầu hàng ngày 08.5.1954

Niềm khao khát chung của dân tộc có được một nước VN tự do độc lập khiến người dân tự nguyện hy sinh tất cả, đổ bao nhiêu sức người với những nắm gạo bớt ra của từng bữa cơm để nuôi quân, hy sinh quyền lợi riêng cho cái chung của dân tộc. Nhưng tiếc thay hơn 50 năm cuộc sống của họ vẫn cơ cực dưới mức nghèo khổ và lạc hậu. Quân Pháp bị thiệt hại 16.000 người trong đó 1500 chết, 10.000 bị bắt làm tù binh theo (René Julliard 1963). Điện Biên Phủ đã tiêu diệt lực lượng Liên hiệp Pháp 17 tiểu đoàn, trong số có 11 tiểu đoàn thiện chiến của nhảy dù và Lê dương, 1 tiểu đoàn Pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp và 70 phi cơ. Quân Việt Minh thiệt hại 23.000 người gồm có 8000 tử trận và 15.000 bị thương. Vì quyền lợi và danh dự riêng Pháp phản bội chính phủ Bảo Đại dù trước đó với Thoả ước Elyée công nhận Việt Nam độc lập, thống nhất 3 miền, rồi lại ký Hiệp Định Genève chia cắt Việt Nam! Là một bài học cho chúng ta suy nghĩ về chủ quyền Quốc gia, nếu mình không đủ sức tự cường, phải sống đời sống của loại cây chùm gởi !

Hiệp định Genève 20.7.1954

Hội Nghị Genève đi đến hồi kết thúc bằng Hiệp Định Genève, gồm ngoại trưởng đại diện các quốc gia tham dự: Anh (Eden Robert Anthony), Pháp (Georges Bidault), Nga (Motolov Vyacheslav Mikahailovich) Trung Hoa (Chou En Lai /Chu Ân Lai), Hoa Kỳ (Dulles John Froter). Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng cầm đầu, phái đoàn có đại tá Tạ Quốc (Quang) Bửu, đại tá Hà Văn Lâu, các ông Phan Anh, Trần Công Tường, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Thanh Hà, Nguyễn Thanh Sơn, Đặng Tính, Trần Lâm, Hoàng Nguyên, Trần Thanh, Lê Văn Chánh. Campuchia (Tep Phan), và Lào (Phoui sananiakone, Sem Sary). Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam gồm có các ông: Nguyễn Quốc Định, ngoại trưởng (chính phủ Bửu Lộc) là trưởng đoàn, Nguyễn Khắc Khê, Trần Văn Tuyên, Trương Văn Chình, Bửu Kính, Đoàn Thuận. Đến ngày 10/5, phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh được cử làm trưởng đoàn và tăng cường thêm ông Nguyễn Duy Thanh. Trong lúc đang diễn ra Hội Nghị Genève thì tại Việt Nam, Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/54, ông Diệm cử Bác sĩ. Trần Văn Đỗ làm Bộ Trưởng ngoại giao thay thế Nguyễn Quốc Định. Ông cũng thay ông Định làm trưởng phái đoàn Việt Nam tại Genève, ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tham dự không có quyền biểu quyết.

Các cường quốc vì quyền lợi riêng, đi đêm với nhau họp bàn chia đôi Việt Nam Trung Cộng năm 1954 chiến thắng Trung Hoa Quốc Dân Đảng làm chủ được Trung Hoa Lục Địa, chưa có chỗ đứng trên quốc tế, con trai Mao và hơn 500 ngàn quân Trung cộng bị loại khỏi vòng chiến ở chiến trận Cao Ly. Trung Cộng muốn chứng tỏ cho Ấn Độ, Nam Dương và các nước không liên kết một thái độ ôn hòa, không bành trướng của mình. Nga cũng chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản nhưng không có khả năng kiểm soát mọi chuyện ở Á Châu, vai trò đem lại hòa bình ở Đông Dương tạo cho Nga một hình ảnh đẹp của một quốc gia mưu cầu hòa bình cho thế giới, đó cũng là một thủ đọan chính trị giữa cộng sản Nga-Tàu. Họ cũng không thân thiện gì, từng xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Nga-Hoa. Anh Quốc vì quyền lợi ở Hong Kong, Singapor, Mỹ không ký muốn loại Pháp ra khỏi Việt Nam với dự định can thiệp vào Đông Dương....

Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức ngày 17.6.54, tuyên bố rằng nếu không đạt được thỏa hiệp trước ngày 20.7.1954 ông từ chức. Tại phiên họp cuối cùng Phạm Văn Đồng đồng ý (?) với đề nghị của ngoại trưởng Nga lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới phân chia, vì hạn định của Mendès France đến nhưng chưa giải quyết xong vấn đề chót. Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Anh và Nga, phải ngưng đồng hồ của trụ sở Liên Hiệp quốc vào lúc nửa đêm 20.7.1954. Sau cùng thỏa ước ngưng chiến ký kết (đaị tá Tạ Quang Bửu thay mặt Tổng tư lệnh quân đội nhân dân cùng tướng Delteil thay mặt tướng Ely.)

Hiệp Định Genève có 47 điều khoản và một phụ lục. Phiên họp kết thúc Hội nghị đúng vào sáng sớm ngày 21.7.1954 dưới sự chủ toạ của Anthony Eden, trong lúc mọi người còn đang ngủ. Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tướng Bedell Smith không ký, nhưng không cản trở việc thi hành Hiệp định, ông Trần Văn Đỗ ngoại trưởng chính phủ Ngô Đình Diệm (thay thế Bửu Lộc làm thủ tướng ngày 7.7.1954) ông Trần Văn Đỗ uất ức ở hội nghị và phản đối thỏa hiệp hấp tấp của Việt Minh với thực dân Pháp các điều khỏan chia đôi đất nước, dù chính phủ Việt Nam Quốc Gia không thừa nhận Hiệp định Genève và điện về Việt Nam:

- Không sao thắng được sự cừu địch của kẻ thù và sự am hiểm của bạn giả dối của chúng ta. Người ta dùng những thủ tục bất thường để làm tê liệt hoạt động cuả phái đoàn mình. Tất cả các thỏa hiệp họ đều bí mật kín với nhau. Chúng tôi rất đau buồn vì sự thất bại hoàn toàn của phái đoàn! (2)

Thi hành Hiệp định ngưng bắn ngày 27.7.1954 ở Bắc, ngày 11.8.1954 tại miền Nam. biên giới phân chia, từ sông Bến Hải đến làng Bồ Đồ Su biên giới Lào Việt, cầu Hiền Lương do Công binh Pháp dựng năm 1950 (trước đấy dân hai bờ qua lại bằng thuyền). Cầu có 7 nhịp, dài 178m, được lát bằng 894 miếng ván, mỗi bên có chủ quyền 89m cầu. Ranh giới trên cầu Hiền Lương sông Bến Hải đã kéo dài hơn 20 năm. từ vĩ tuyến 17 ra Bắc thuộc chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thủ đô là Hà Nội; từ vĩ tuyến 17 vô nam thuộc chính phủ Quốc Gia Việt Nam, thủ đô Sài Gòn. Vấn đề kiểm soát quốc tế thi hành việc đình chiến một Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến được thành lập với đại diện Ấn Độ làm chủ tịch, Gia Nã Đại và Ba Lan làm hội viên. Bản tuyên ngôn cuối cùng đã đề cập đến vấn đề tổng tuyển cử thống nhất đất nước sau hai năm dưới sự giám sát của Ủy Hội Quốc Tế.

Việt Minh phải rút quân đội ở Lào trong thời hạn 4 tháng, ở Campuchia hạn 3 tháng. Quân đội Pháp rút khỏi Bắc Kỳ trong 10 tháng chấm dứt việc xâm lăng của thực dân trên đất Bắc, chính sách thuộc điạ hà khắc và tàn bạo cuả Pháp đã giết hàng loạt những nhà cách mạng Việt Nam yêu nước đấu tranh dành độc lập. Nhưng đạo quân viễn chinh cũng phải trả giá rất đắt tại chiến trường Việt Nam trong thập niên cuối cùng, quân Pháp bị giết và mất tích 92.000 người bị thương 114.000; tù binh 28.000 người, kinh phí hơn 30 tỷ quan Pháp. (Theo Louis Saurel trong cuốn La guerre de Indochine).

Cuộc Di cư lớn nhất của thế kỷ 20

Pháp và phe Quốc gia có thời hạn tập trung 80 ngày tại Hà Nội, 100 ngày ở Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng. Tại miền Nam bộ đội tập kết tại Hàm Tân 80 ngày, Bình Định 100 ngày và Cà Mau 300 ngày. Từ tháng 8-1954 mỗi ngày có hàng ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng vào Sài Gòn hay sang Pháp bằng đường hàng không và hàng ngàn người mỗi ngày bồng bế nhau về cảng Hải Phòng để được xuống tàu thủy đưa vào Nam (gọi là tàu há mồm). Tính đến chuyến tàu sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950.000 người từ Bắc di cư vào Nam. Có nhiều nơi dân muốn di cư bị công an Việt Minh ngăn chận, gây nhiều xô xác đẫm máu. Bình minh về trên đất Bắc hay là những ngày dài trong khổ đau với chính sách cải cách ruộng đất đấu tố, thanh trừng như vụ Nhân Văn Giai phẩm!

Dân di cư được phân phối định cư khắp nơi, dù đời sống lúc đầu khó khăn, nhớ quê hương ruộng đồng, bỏ nhà cao cửa rộng chen chúc ở các trại định cư, được trợ cấp tiền mặt mỗi ngày cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng đủ sống. Tổng số 315 trại định cư cho 508.999 người, được chia ra Nam phần 206 trại cho 393.354; Trung phần 59 trại gồm 61.094 người; cao nguyên 50 trại cho 54.551 người. Thiên Chúa giáo gồm 676.348 Tín đồ, Tin Lành 1.041 Tín Đồ, Phật Giáo 182.817 Phật Tử … Nhiều người mua nhà ở riêng không vào các trại định cư. Thời gian ngắn khó khăn người di cư được chính phủ giúp đỡ lập nghiệp, nếu nhìn lại từ 1954-1975 có những khu phố sầm uất phát triển giàu mạnh như Hố-Nai Biên-Hòa, Đà-Nẵng khu Tam-Toà, vùng Cái-sắn Rạch-Giá ... Lâm-Đồng Bảo-Lộc ... nơi nào có người Bắc định cư đều có nhà Thờ, nhà cửa khang trang, con cháu học hành đỗ đạt và đời sống thành công trên mọi lãnh vực. Các nhà Văn di cư tự do viết sách, làm báo phát hành, đóng góp cho nền văn học miền Nam thật khởi sắc, sinh hoạt đổi mới hơn các quán nhậu có những bảng hiệu mới lạ như „đúng đây rồi, cờ tây, mộc tồn, nai đồng quê ..“

Ngày 19.7.1955 Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) đề nghị chính phủ Quốc Gia Việt Nam sau nầy đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mở hội nghị Hiệp thương bắt đầu từ 20.7.1955 theo qui định trong Hiệp định Genève để tổng tuyển cử đề nghị của Bắc Việt bị chính phủ Nam Việt bác bỏ ngày 10.8.1955. Đó là lý đo đưa đến cuộc chiến tranh Nam-Bắc. Miền Nam theo thể chế tự do, cựu hoàng Bảo Ðại với danh xưng Quốc trưởng nhưng sống ở Cannes bên Pháp, không trực tiếp điều hành Quốc Gia Việt Nam. nên Ngô Ðình Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955 truất phế Bảo Ðại. Ngô Ðình Diệm lên làm tổng thống đầu tiên Việt Nam Cộng Hòa ngày 26.10.1955. Năm 1956 quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, chấm dứt thời làm mưa gió hơn 80 năm đô hộ Việt Nam, tự do khai thác tài nguyên mang về cho bản quốc

Đảng Lao Động quyết tâm đánh chiếm miền Nam, Lê Duẩn bí mật vào Nam nghiên cứu tình hình khi trở ra Bắc tại hội nghị lần thứ 15 ở Hà Nội ngày 13.5.1959. Lê Duẩn đưa nghị quyết giải phóng miền Nam và miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghiã... (chủ trương của chủ tịch Hồ Chí Minh) Hà Nội thành lập Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch MTDTGPMN thành lập ngày 20.12.1960 ở chiến khu Dương Minh Châu, vùng biên giới Tây Ninh Campuchia. Gọi là mặt trận „giải phóng miền Nam“ từ năm 1960, với nhân sự nòng cốt hơn 25.000 cán bộ hồi kết, sau tết Mậu Thân ông Huỳnh Tấn Phát (1913-1989) được bầu làm chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bình cháu ngoại Phan Châu Trinh làm bộ trưởng ngoại giao là con cờ tạo thế đứng trong các cuộc Hoà đàm Paris ? Sau 30.4.1975 một thời gian chính phủ nầy đã bị xoá tên !

Tổng bí thư đảng CS Lê Duẩn đã từng tuyên bố „ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc ..“ (3) Trường Chinh nói: “Kháng chiến là một hình thức cao rộng, của đấu tranh giai cấp, nghiã là cuộc đấu tranh lớn lao trên thế giới, giữa tư bản và vô sản ...” (4), lời phát biểu trên của những kẻ quyền lực làm tay sai cộng sản quốc tế, gây nên cuộc nội chiến tương tàn khổ đau cho dân tộc Việt Nam, như nhà thơ Phùng Quán đã viết: “Những con người tiêu máu của dân như tiêu giấy bạc giả  (Trăm Hoa Ðua Nở). Nếu không có chiến tranh để hai miền Nam Bắc, tự do xây dựng xã hội, phát triển kinh tế, dân trí cao, thì việc thống nhất trong tình thương và hoà bình có thể thực hiện được, không cần vũ khí của bất cứ nước nào mang đến cho mượn !!

Tiến lên Xã Hội Chủ nghiã ở miền Bắc

Thời gian đầu hoạt động Việt Minh chưa chủ trương tranh đấu giai cấp để kêu gọi dân chúng đoàn kết để chống Pháp, sau cách mạng mùa Thu Việt Minh chủ trương “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn”, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt chước theo mô thức của Nga-Tàu. Từ năm 1949-1956 Việt Minh đã làm 5 đợt cải cách ruộng đất, con tố bố mẹ, nàng dâu xỉ vả mẹ chồng, tổng bí thư Trường Chinh đã đấu tố cả cha mẹ ông ta.. Giết chết hơn 200 ngàn người vô tội, toà án nhân dân thành lập ở các vùng thôn quê do những cán bộ không học xét xử, những đêm đấu tố tại các đình làng, xã thôn.. người dân miền Bắc có lẽ họ không bao giờ quên giai đoạn đó, Xuân Diệu đã ca ngợi:
    Anh em ơi! quyết chung lưng
    Ðấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù
    Ðịa hào, đối lập ra tro,
    Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
    Thắp đuốc cho sáng khắp đường
    Thắp đuốt cho sáng đình làng đêm nay
    Lôi cổ bọn nó ra đây
    Bắt quỳ gục xuống, đoạ đày chết thôi
Thành phần bị ghép tội điạ chủ đem ra đấu tố đánh đập, dù những người nầy đã giúp đỡ cho cuộc kháng chiến, là Mẹ của chiến sĩ nhưng vẫn bị kết án tử hình dưới nhiều hình thức cực hình khác nhau, Tố Hữu xách động
    Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
    Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Sit-ta-lin bất diệt…
Hiệp định Genève kết thúc, chính phủ VNDCCH xây dựng xã hội chủ nghiã tiến lên thiên đường đỏ, mọi người phải sống theo chủ trương đường lối của đảng, ảnh hưởng Trung cộng sâu đậm. Năm 1956 Mao chủ trương “trăm hoa đua nở” với chiến dịch” Bách hoa tề phóng, Bách gia tranh minh / trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” cuộc ”cách mạng văn hoá” Lục Nhất Định trưởng ban tuyên truyền trung ương cùng vợ Mao bà Giang Thanh cầm đầu cuộc thanh trừng giết gần 30 triệu người ! (Đặng Tiểu Bình cũng bị thanh trừng)

Những văn nghệ sĩ theo kháng chiến chống thực dân, phong kiến về thành phố cầm bút phục vụ văn nghệ, nhưng đảng buộc họ viết theo chủ trương của đảng, đời sống càng ngày càng khó khăn về kinh tế, gò bó về xã hội ! Đảng LD thanh trừng văn nghệ sĩ chống đối vụ án Nhân Văn hàng trăm văn nghệ sĩ bị tập trung tẩy não và lao động trên núi rừng trung du như Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Trương Tửu, Hữu Loan … 30 năm sau đảng CSVN nhận ra sai lầm với lời tuyên bố năm 1986 của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói cho văn nghệ” văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn Gia Phẩm được phục hồi danh dự, nhà thơ Hữu Loan là nhân chúng cuối cùng trả lời phỏng vấn về vụ án Nhân Văn trên đài BBC London. Những năm 1966-1968 cũng xảy ra vụ án xét lại? Lê Duẩn kết tội những cán bộ thân Liên Xô thời Khrushchev hạ bệ Stalin năm 1956 thi hành chính sách mềm dẻo chủ trương “chung sống hoà bình” ảnh hưởng chủ trương của Khrushchev như: Ung Văn Khiêm, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Dương Bạch Mai... phản đối chiến tranh tấn công miền Nam bị thanh trừng, trong vụ nầy có nhà văn Vũ Thư Hiên bị cần tù thời gian khá lâu .. Phe hiếu chiến Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ ... mưu đồ quyền lực đã giết hại hàng triệu người vô tội, lợi dụng khát vọng độc lập, sử dụng xương máu nhân dân để phục vụ quyền lợi bè nhóm và Quốc tế cộng sản. Miền Bắc tiến lên Xã Hội Chủ Nghiã thế nào chúng ta đã biết sau ngày 30.4.1975 .

Chính quyền Quốc Gia ở Miền Nam

Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thực hiện cách mạng Quốc Gia và khai sinh nền Ðệ Nhất Cộng Hòa. Quân Ðội Quốc Gia với toàn vẹn chủ quyền được thống nhất chỉ huy dưới danh xưng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa (Tháng 8 năm 1955 Bộ Tổng tham mưu hoàn toàn do sĩ quan Việt Nam điều khiển, Việt ngữ lúc nầy mới được thay Pháp ngữ !). Các trường huấn luyện các ngành chuyên môn được thành lập để đào tạo các chuyên viên ưu tú trong quân đội. Khó khăn lúc đầu thành lập quân đội từ thời quốc trưởng Bảo Đại phải dùng những Cai, Đội, cũng như ngành Cảnh sát phải dùng người từ thời Pháp Nhật, (một số người kém văn hóa và đạo đức từng làm việc với bọn thực dân). Riêng ngành Cảnh sát Quốc Gia năm 1965, Tổng Nha tuyển dụng những người có Tú Tài trở lên được theo học các Khóa Sĩ Quan Cảnh Sát để thành những cấp chỉ huy tương lai. Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được thành lập để đào tạo những khóa Biên Tập Viên (Tú Tài II) và Thẩm Sát Viên (Tú Tài I) và phải qua một kỳ thi tuyển. Thời gian học của các Sĩ Quan này là 1 năm. Khóa 1 Sĩ Quan Cảnh Sát Quốc Gia khai giảng ngày 01.3.1966 tại trại Lê văn Duyệt, trong khu Biệt Khu Thủ Ðô Sài Gòn. Đầu năm 1969 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia thành lập ở Thủ Ðức. Những sĩ quan quân đội ưu tú VNCH được đào tạo từ Đà Lạt, Thủ Đức, trí thức đầy nhiệt huyết, văn võ song toàn, nhưng thời gian quá ngắn không đủ thâm niên để lãnh đạo quân đội. Thành phần hoán chuyển từ quân đội Pháp đã cầm vận mệnh Quốc gia VNCH 1954-1975 một thời gây sóng gió chính trị miền Nam, thời loạn tướng và chạy trốn trước 30.4.1975.

Quân đội được thành lập qua nhiều giai đoạn khác nhau, nhiệm vụ khó khăn dưới thời đệ nhất Cộng Hoà phải đối đầu quân đội Giáo phái Hoà Hảo ở miền Tây, Bình Xuyên (Bảy Viễn) Sài Gòn và Bà Rịa; Cao Đài ở Tây Ninh, các đảng phái chính trị tại miền Trung (chiến khu Ba lòng, Nam Ngãi) cán bộ CS nằm vùng hoạt động tuyên truyền quấy phá các vùng quê…Chính phủ Ngô Đình Diệm đã ổn định tình hình, tự do dân chủ còn non trẻ vì đất nước trải qua chiến tranh và nô lệ chưa thể một sớm chiều để thăng tiến, hệ thống hành chánh, công an còn ảnh hưởng thời Pháp thuộc, chưa thể làm cuộc cách mạng mau chóng, chính phủ Ngô Đình Diệm phải cần một thời gian để ổn định, TT Diệm ký sắc lệnh thành lập Đại Học Huế 1957 để mở mang Văn hóa và giáo dục cho miền Trung. Vì kinh tế chưa phục hồi để phát triển phục vụ quốc gia phải nhờ Mỹ viện trợ tài chánh quân sự và cố vấn (Military Assitance Advisory Group) có thêm các cơ quan viện trợ phát triển (United States Agency for International Development) rồi từ đó họ ý muốn can thiệp vào Việt Nam…Có những bất đồng chính kiến Việt Mỹ về đường lối lãnh đạo đối với tình hình mới ở Đông Dương. Cùng xảy ra những vụ xuống đường biểu tình ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, trái lưụ đạn nổ gây tử thương một số Phật tử tham gia biểu tình, lãnh đạo phong trào đấu tranh không ai xa lạ Thượng Tọa Thích Trí Quang tục danh (Phạm Trí Quang) gây thêm sóng gió nào đình công bãi thị, tự thiêu lấy lý do đàn áp tôn giáo. Tháng 8 năm 1963 nữ sinh Quách Thị Trang bị trúng đạn trong cuộc đàn áp biểu tình ở trước chợ Bến Thành tình hình càng căng thẳng hơn. Chính Phủ Hoa Kỳ ủng hộ nhóm tướng lãnh lật đổ TT Ngô đình Diệm ngày 11.11.1963. Anh em TT Ngô Đình Diệm bị đại úy Nguyễn Văn Nhung cận vệ của tướng Dương Văn Minh giết trên thiết vận xa M113, ngày 2.11.1963 dưới thời TT Ngô Đình Diệm cai trị có những sai lầm, lịch sử phán xét phân minh, sự thật từ từ được hé mở .

Đảo chánh tranh dành quyền lực

Nhóm Tướng, Tá tham gia lật đổ TT Ngô Đình Diệm tự thăng quan tiến chức như diều gặp gió, cầm vận mệnh Quốc Gia gây xáo trộn đời sống xã hội ở thành phố, đảo chánh chỉnh lý. v v Vùng nông thôn cán bộ CS hoạt động mạnh hơn, được sự bao che cuả các gia đình có con đi tập kết để bao vây thành thị. Chính phủ mới không đủ khả năng uy tín để chống cộng, nên phải nhờ quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh giúp chiến đấu chống lại cộng sản, ngày 8.3.1965 Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên bãi biển Nam Ô Đà Nẵng, quân Đồng minh: Đại Hàn, Thái Lan, Úc, Phi Luật Tân lần lượt đến miền Nam. Ngược lại ngoài Bắc nhiều sư đoàn Trung cộng bí mật sang giữ hậu phương, cho bộ đội vào chiến trường miền Nam. Các cố vấn quân sự, chính trị các nước cộng sản quốc tế giúp Bắc Việt viện trợ tối đa lương thực, vũ khí, xe tăng, máy bay cho bộ đội tiến hành cuộc chiến chiếm miền Nam. Việt Nam thống nhất nhà cầm quyền CSVN phải gởi thanh niên đi lao động tại các nước cộng sản tiếp tục trả nợ chiến tranh bằng mồ hôi và nước mắt! và sai lầm đáng buồn Phạm Văn Đồng ký quốc thư ngày 14 .9.1958 nhận ranh giới biển 12 hải lý của Chu Ân Lai công bố và gián tiếp công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay còn tranh cãi.

Miền Nam tự do quân đội đối đầu với bộ đội miền Bắc trên các mặt trận, thì hậu phương xãy ra phong trào chống chính phủ, chống Mỹ đạo diễn là Thượng Toạ Thích Trí Quang được bầu làm Chánh thư ký Viện Tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống Nhất ngày 4.1.1964, sau khi đảo chánh chính phủ TT Ngô Đình Diệm. TT Trí Quang một cao tăng của Giáo Hội Phật Giáo xách động Phật tử đem bàn Thờ Phật xuống đường gọi là tranh đấu đòi hỏi tự do cho dân chủ và Đạo Pháp? nhưng sau ngày 30.4.1975 không còn nghe tiếng T.T Trí Quang có lẽ nhiệm vụ của ông đã hoàn thành?

Chính quyền VNCH tiếp tục cố gắng cải tổ hành chánh, năm 1966 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được thành lập đào tạo sĩ quan chuyên môn, có trình độ tú tài trở lên để thi hành luật pháp Quốc gia. Có Thượng Viện, Hạ Viện, đại diện của các tôn giáo, đảng phái, đối lập do dân bầu. TT Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo quốc gia không tránh được các vấn nạn tham nhũng, buôn lậu. Tết Mậu thân 1968 là ngày tết linh thiêng của dân tộc Việt nam, dù 2 bên đồng ý ngưng chiến đón xuân, nhưng CS lợi dụng ngày Tết tổng công kích trên toàn miền Nam, dân miền Nam vô tôi bị thiệt hại về tài sản cũng như sinh mạng, ngày tết đã biến thành ngày giỗ của hàng ngàn người từ Nam đến Bắc!

Ký giả Eddie Adames thuộc Associated Press (AP USA) chụp hình tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư lệnh CSQG bắn chết tù binh VC gây dư luận không tốt đẹp cho bản thân tướng Loan, mà còn bất lợi cho chính phủ miền Nam! Tổng công kích tết Mậu Thân cán bộ MTDTGPMN thiệt hại nặng qua các cuộc giao tranh, đại tướng Bộ trưởng quốc phòng Bắc Việt Võ Nguyên Giáp thảo kế hoạch chỉ huy, nhưng ký giả nước ngoài phỏng vấn ông đã chối “We had nothing to do with it. The National Liberation Fromt put it on “Don Oberdorfer trang 45.

Từ khi quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam, CS thêm lý tưởng tuyên truyền, “chống Mỹ cứu nước “; “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” thêm vụ giết lầm người ngày 16.3.1968 của trung úy William Calley ở Mỹ Lai. Tivi phát hình bé Phạm thi Kim Cúc bị bom lửa (Napal), như đổ dầu thêm vào lửa cho phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam. Những đêm pháo kích về thành phố bằng hoả tiển 122 ly, xe đò bị giật mìn gây nhiều người chết, bị thương, hàng ngàn người bị chôn sống ở Huế.. thì ít được nhắc đến ? Sử gia Jean Luis Margolin giáo sư Université de Provence là một trong tác giả viết cuốn “Le livere noir du communisme” đã nói “tôi đã xuống đường biểu tình ủng hộ MTGPMN, tôi đã reo mừng với cuộc chiến thắng tại Việt Nam. Không phải mình tôi mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản..”

Miền Nam ra lệnh tổng động viên thanh niên, sinh viên, học sinh phải nhập ngũ thi hành quân dịch, đồng thời mật đàm Paris được hình thành giữa phái đoàn Mỹ và Bắc Việt đưa đến Hội nghị Paris kéo dài 4 năm từ 1969-1973... Hiệp định Paris do Kissinger và Lê Đức Thọ phê chuẩn tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế khách sạn Majestic đại lộ Kléber Paris. Hiệp định Paris ngày 27.1.1973 Quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam trong danh dự và mở đường cho sự sụp đổ của chính quyền VNCH. Ðây là kết quả của gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp thế giới. 58 ngàn quân Mỹ đã hy sinh tại Việt Nam, họ đến như một tia sáng bảo vệ bức tường Tự Do ở Đông Nam Á, Họ ra đi âm thầm của người bại trận, vết thương đổ nát quê hương không thể hàn gắn, máu của người miền Nam vẫn chảy để bảo vệ tự do Mùa hè đỏ lửa, Bình long, An Lộc, Cổ Thành Quảng Trị... lệnh tổng động viên 1973 học sinh, sinh viên bị tụt một tuổi phải giã từ sân trường đi chiến đấu ... sự trưởng thành của quân lực VNCH vững mạnh dù thiếu sự yểm trợ của Đồng Minh.

Ngày 14.3.1975 cố TT Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lãnh quân đội VNCH ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên, máu của quân dân miền Nam đổ ra trên tỉnh lộ 7 về đến Nha Trang, Sài gòn. Ðà Nẵng di tản chiến thuật ngày 29/3 hàng trăm ngàn người hải hùng lên các tàu hải quân hy vọng tìm được tự do, trong lúc đòan quân bộ đội CSVN tiến về thành phố. Ngày đó vẫn còn như những vết hằn sâu kín, những nỗi buồn còn vướng đọng những giọt nước chưa khô. Chuyện thật nhưng khó tin nếu không sống dưới chế độ cộng sản. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê trước 1975 từng từ chối giải thưởng văn học nghệ thuật của TT Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hiến Lê có cảm tình và ủng hộ cuộc chiến „giải phóng miền Nam „ sau năm 1975 ông đã tâm sự „muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm ..“. Học giả Đào Duy Anh đã trao đổi với Nguyễn Hiến Lê khi từ Hà Nội vào thăm Sài Gòn sau năm 1975 „ông ngại hai ba chục năm nữa, kinh tế vẫn chưa tiến được, và xã hội chủ nghiã vài trăm năm nữa cũng chưa xây dựng xong, mình bị phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ„ Hồi ký NHL trang 521.

Mở đầu cho phong trào rời bỏ đất nước ra đi của hơn hai triệu người Việt ngày nay sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Đảng CSVN bắt tất cả người làm việc của chế độ VNCH, Công chức, Sĩ quan, chuyên gia kỷ thuật, Giáo viên, kể cả các lãnh đạo Tôn giáo vào trại tập trung cải tạo trong các vùng núi với sơn lam chướng khí, thiếu lương thực, thuốc men sống như những người tù khổ sai ..nhà cầm quyền VN đổi tiền hai lần và đánh tư sản mại bản, đuổi người đi kink tế mới, chiếm đoạt nhà cửa để bần cùng hóa xã hội, đưa quân can thiệp nội bộ Campuchia hy sinh thêm 50 ngàn nghiã vụ quân sự, chiến tranh biên giới Việt Hoa gây thiệt hại kinh tế... Dù thống nhất đất nước, ngày nay có đổi mới nhưng dân tộc Việt Nam chưa thật sự tự do và dân chủ, bạo lực chỉ chiếm được đất chứ không chiếm được lòng người. Những người trí thức yêu nước chống ngoại xâm đòi hỏi tự do và nhân quyền, đã bị CSVN đàn áp kết án tù đày, giống như Trung Hoa trong vụ Thiên An Môn đàn áp Sinh viên. Muốn có tự do nhân quyền phải từ bỏ chế độ Cộng sản độc tài tham nhũng mới có hy vọng đất nuớc phát triển giàu mạnh, theo kịp các quốc gia văn minh trên thế giới.

Nguyễn Quý Đại

1. Bên giòng Lịch sử LM Cao Văn Luận
2. Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê
3. Đêm giữa ban ngày của nhà văn Vũ Thư Hiên
4. Nguyễn Kỳ Nam tài liệu Lịch sử 1945-54 trang 83
Tài liệu tham khảo
-The NLF’s Foreign Relations and the Vietnam War" (Cornell, 1998)
-Án Tích Cộng sản Việt nam của tác giả Trần Gia Phụng
-Việt nam đi về đâu huyền thoại và sự thật Luật sư Lê Trọng Quát
-Quân sử tập 3 Bộ Tổng Tham Mưu
-Những ngày chưa quên tác giả Đoàn Thêm
-Những cơn gió bụi tác giả Trần Trọng Kim..
-Hồi Ký Võ Văn Giáp
-Hình trên Internet