Saturday, April 2, 2016

Nền Tảng Của Thể Chế Chính Trị VIỆT NAM CỘNG HÒA - : Nguyễn Thanh Bạch

    Nền Tảng Của Thể Chế Chính Trị VIỆT NAM CỘNG HÒA
Nguyễn Thanh Bạch

I. Sự hình thành của chế độ Việt Nam Cộng Hoà

Quốc gia Việt Nam được thành lập với cơ sở pháp lý là các hiệp ước ký kết giữa Chính phủ Pháp và Cựu hoàng Bảo Đại:

1. Hiệp ước Vịnh Hạ long ngày 07-12-1947

2. Hiệp ước Élysée ngày 08-03-1949

xác nhận “nền đôc lập của nước Việt nam”, chính thức thành lập Quốc gia Việt nam trong Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại.

Tính đến năm 1950, có 35 quốc gia công nhận Quốc gia Việt nam.

Và cuối cùng là Thỏa ước Matignon (Accords de Matignon) ký kết ngày 04-06-1954 giữa Thủ tướng Quốc gia Việt nam Nguyễn Phúc Bửu Lộc và Thủ tướng Pháp Joseph Laniel, xác định Quốc gia Việt nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tách khỏi Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp chuyển giao mọi cơ sở hành chánh, quôc phòng, an ninh cho quốc gia Việt nam.

Sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23 thánh 10 năm 1955, Thủ tướng Ngô đình Diệm thay thế Quốc trưởng Bảo Đại để lên nắm quyền, trở thành Quốc trưởng Việt nam.

Sau đó, Quốc gia Việt nam tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 4 tháng 03 năm 1956, khai mạc vào ngày 17 tháng tư năm 1956 với 123 dân biểu (trong số 405 ứng cử viên) Chủ tịch Quốc hội là Ông Nguyễn phương Thiệp. Quốc hội lập hiến có nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp. Hiến pháp được ban hành ngày 26 tháng mười năm 1956. Nước Việt Nam Cộng Hòa ra đời từ đây, trên cơ sở thừa kế Quốc gia Việt nam, thủ đô là thành phố Sài gòn. Ngày ban hành Hiến pháp trở thành ngày quốc khánh của nước Việt Nam Cộng Hòa (Đệ nhất VNCH). Danh xưng Đệ nhất Cộng hoà chỉ xuất hiện vào năm 1967 khi nền Cộng hoà thứ hai được thành lập.

Lần đầu tiên sau ngày ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, miền Nam Việt nam xây dựng nên chính thể cộng hoà, người lãnh đạo nhà nước do dân bầu, thực hiện chế độ dân chủ pháp trị, tam quyền phân lập, đa đảng và chủ trương chống Cộng.

Chiếu theo Hiến pháp, đứng đầu Hành pháp là Tổng thống, đưọc dân bầu theo phổ thông đầu phiếu, với nhiệm kỳ 5 năm và có thể ứng cử 3 nhiệm kỳ liên tiếp.

Cơ quan Lập pháp, có một Viện với 123 dân biểu, được dân bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 3 năm.

Về ngành Tư pháp, có Viện Bảo hiến với nhiệm vụ duyệt xét luật lệ ban hành cho phù hợp với Hiến pháp. Các toà án gồm có: toà vi cảnh, các toà: sơ thẩm, hoà giải, thượng thẩm, đại hình và các toà án quân sự. Toà phá án (cour de cassation) là pháp đình tối cao, trụ sở đặt tại Sài gòn.

Đệ nhất Cộng hoà tổ chức bầu cử Quốc hội khoá 2 vào năm 1959, với 441 ứng cử viên, tranh nhau 123 ghế dân biểu. Tại Sài gòn, tỉ số dân bầu ủng hộ Chính phủ là 42%. Bác sĩ Phan quang Đán thuộc khối Dân chủ đắc cử với 36.000 lá phiếu.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống vào năm 1961, liên danh Ngô đình Diệm – Nguyễn ngọc Thơ đắc cử với 88% số phiếu. Ngoài ra còn có các liên danh Hồ nhật Tân – Nguyễn thế Truyền và liên danh Nguyễn đình Quát – Nguyễn thành Phương.

Trong thời gian khoảng 5 năm, thời Đệ nhất Việt nam Cộng hoà, dân chúng hưởng thái bình, xã hội ổn định, kinh tế phát triển theo mô hình kinh tế thị trường, gần một triệu dân di cư từ miền Bắc được định cư, an cư lạc nghiệp.

Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 do một nhóm quân nhân chủ trương đưa đến sự cáo chung của Đệ nhất Cộng hoà. Trong thời gian 1963 – 1967, có thể gọi là thời kỳ quân quản, miền Nam Việt nam do quân đội nắm chính quyền. Một loạt hiến chương ra đời, thay thế cho Hiến pháp. Cơ quan lãnh đạo, liên tiếp theo thời gian, có nhiều danh xưng: Hội đồng quân nhân cách mạng, Uỷ ban lãnh đạo lâm thời (tam đầu chế), Hội đồng quân lực, Ủy ban lãnh đạo quốc gia.

Tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo quốc gia với Chủ tịch là Trung tướng Nguyễn văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương là Thiếu tướng Nguyễn cao Kỳ tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến, bầu ra118 đại biểu. Quốc hội lập hiến soạn thảo Hiến pháp và ngày 1 tháng tư năm 1967, ra tuyên cáo Hiến pháp vừa mới ban hành là cơ sở pháp lý của Việt nam Cộng hoà (Đệ nhị Cộng hoà). Ngày 3 tháng 09 năm 1967 là ngày bầu cử Tổng thống và Quốc hội. Liên danh ứng cử Tổng thống và Phó Tổng thống là liên danh Nguyễn văn Thiệu – Nguyễn cao Kỳ đắc cử với 35% số phiếu. Năm 1971, có cuộc bầu cừ lần thư nhì, liên danh Nguyễn văn Thiệu – Trần văn Hương đắc cử, không có đối thủ, do đạo luật mới được Quôc hội thông qua ngày 3 tháng 06 năm 1971 hạn chế khả năng tham gia ứng cử. Theo đạo luật nầy, ứng cử viên phải có 40 chữ ký ủng hộ của dân biểu hay nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký của các thành viên Hội đồng tỉnh. Các liên danh Dương văn Minh, Nguyễn cao Kỳ rút tên vì không thoả mãn được điều kiện nầy.

Chiếu theo Hiến pháp mới, cơ quan lập pháp có lưỡng viện: Thượng viện có từ 30 tới 60 nghị sĩ, nhiệm kỳ là 6 năm, bầu theo liên danh, lấy toàn quốc làm đơn vị độc nhất. Hạ viện có từ 100 đến 200 dân biểu, nhiệm kỳ 4 năm, bầu theo cá nhân, căn cứ theo từng tỉnh.. Hiến pháp còn qui định Hạ viện phải có 6 ghế dành cho người Việt gốc Miên, 6 người Thượng, 2 người Chàm và 2 người thuộc dân tộc thiểu số Bắc Việt di cư vào Nam.

Khoá đầu tiên Thượng viện năm 1967-1973 có 6 liên danh, mỗi liên danh là 10 người, tổng cộng là 60 nghị sĩ. Ông Nguyễn văn Huyền được bầu làm Chủ tịch Thượng viện.

Khoá đầu tiên Hạ viện năm 1967-1971 có 137 dân biểu. Chủ tịch Hạ viện là ông Nguyễn bá Lương. Năm 1971, số dân biểu tăng lên là 159; mỗi dân biểu đại diện khoảng 50.000 cử tri.

Trong Quốc hội, vào năm 1974, Thượng viện có 41 nghị sĩ thân Chính phủ, 19 nghị sĩ đối lập. Hạ viện có 84 dân biểu thân Chính phủ, 59 đối lập và 16 độc lập.

Hành pháp được bầu theo liên danh hai người, một người làm Tổng thống, người kia là Phó Tổng thống.

Trong cuộc bầu cử năm 1967, liên danh Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ đắc cử với 34,8% số phiếu. Tuy nhiên, nếu tính riêng thủ đô Sài gòn thì liên danh Trần văn Hương-Mai thọ Truyền được nhiều phiếu nhất (151.102), nhì là liên danh Nguyễn văn Thiệu-Nguyễn cao Kỳ (148.933), thứ ba là liên danh Trương đình Dzu-Trần văn Chiêu (83.374).

Tổng thống chỉ định Thủ tướng Chính phủ và Thủ tướng đệ trình danh sách Nội các điều hành Chính phủ. Thủ tướng của Nội các đầu tiên, nhậm chức ngày 9 tháng 11 năm 1967 là ông Nguyễn văn Lộc.

Tư pháp: Đứng đầu ngành tư pháp là Tối cao pháp viện (TCPV).

Chiếu theo các điều 81-83 của Hiến pháp VNCH, TCPV có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, phán quyết về tính cách hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, sắc luật; tính cách hợp hiến và hợp pháp của các sắc lệnh, nghị định va quyết định hành chánh.

TCPV có thẩm quyên phán quyết về việc giải tán một chánh đảng có chủ trương và hành động chống lại chính thể Cộng hoà. Trong trường hợp nầy, TCPV sẽ họp khoáng đại toàn viện, các đại diện Lập pháp hoặc Hành pháp có thể tham dự để trình bày quan điểm.

Những quyết định của TCPV tuyên bố một đạo luật bất hợp hiến hoặc giải tán một chánh đảng phải hội đủ ¾ tổng số thẩm phán TCPV.

TCPV có thẩm quyền phán quyết về các vụ thượng tố các bản án chung thẩm.

TCPV có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để quản trị ngành Tư pháp.

Hiến pháp quy định: TCPV gồm có từ 9 tới 15 thẩm phán, nhiệm kỳ 6 năm, luân phiên mỗi 3 năm thì bầu lấy 6 ghế.

Quy chế chọn thẩm phán:

Uỷ hội tuyển cử TCPV gồm có 7 thành viên : Chủ tịch Thượng viện Quôc hội VNCH, 1 thượng nghị sĩ, Chủ tịch Quốc hội VNCH, 1 dân biểu, 1 vị chánh án, 1 biện lý, 1 luật sư.

Điều kiện ứng cử viên: – Công dân Việt nam
  • 10 năm thâm niên làm chánh án, biện lý hoặc luật sư
  • Lý lịch sạch; không có quá khứ chống Chính phủ; hoạt động chống Cộng.
  • Nếu là phái nam thì phải hợp lệ quân dịch.
Danh sách ứng cử viên sẽ được ba hiệp hội chuyên nghiệp luật khoa : luật sư đoàn, công tố đoàn và thẩm phán đoàn tuyển chọn, mỗi hiệp hội 50 hội viên, tổng cộng là 150 . Sau đó, sẽ duyệt lại danh sách, bàn thảo, thanh lọc, rồi chọn 30 tên.

Danh sách 30 ứng cử viên sẽ được đệ trình Quốhội để bỏ phiếu, tuyển lấy 6 người và chuyển sang Phủ Tổng thống phê chuẩn. Chủ tịch TCPV sẽ do chính các vị thẩm phán TCPV tự chọn.

Trụ sở TCPV là Dinh Gia long.

Hiến pháp VNCH 1967 còn thiết lập các định chế đặc biệt: Đặc biệt Pháp viện (ĐBPV) và Giám sát viện (GSV).

ĐBPV có thẩm quyền truất quyền Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ Tướng, các Tổng Bộ trưởng, các Thẩm phán TCPV và các Giám sát viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác.

ĐBPV do Chủ tịch TCPV giữ chức Chánh thẩm và gồm 5 Dân biểu và 5 Nghị sĩ.. Khi Chủ tịch TCPV là bị can, Chủ tịch TNV giữ chức Chánh thẩm.

GSV có thẩm quyền :

1- Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.

2- Thẩm tra kế toán đối với các cơ quan công quyền và hợp doanh.Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng thống, Phó Tổngthống, Thủ tướng,Dân biểu, Nghị sĩ, Chủ tịch TCPV.

3- Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng thống, Phó Tổng thống, Thủ tướng, Dân biểu, Nghị sĩ, Chủ tịch TCPV.

Riêng đối với Chủ tịch GSV và các GSV, việc kiểm kê tài sản do TCPV đảm trách.

GSV có quyền đề nghị các biện pháp chế tài và kỷ luật đối với nhân viên phạm pháp hoặc yêu cầu truy tố đương sự ra trước toà án có thẩm quyền.

GSV gòm từ 9 đến 18 GSV, 1/3 do Quốc hội, 1/3 do Tổng thống va 1/3 do TCPV chỉ định.

GSV có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để tổ chưc nội bộ và quẩn trị ngành giám sát.

Hiến pháp VNCH năm 1967 có quy định trong Chương 7 về chính đảng và đối lập.

Quốc gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ. Hánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điệu kiện luật định.

Quốc gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

Quốc gia công nhận sự định chế hoá đối lập chính trị.

II. Các sắc thái riêng biệt của thể chế chính trị Việt Nam Cộng hoà

Chúng ta hãy cùng đọc «Lời mở đầu» và «Điều khoản căn bản» của bản Hiến pháp VNCH năm 1956 và năm 1967 để tìm ra những nét đặc thù của thể chế chính trị VNCH.

Lời mở đầu Điều căn bản ghi trong Hiến pháp VNCH năm 1956 như sau :

Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;

Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ phát huy;

Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do, điều hoà và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của hoạt động Quốc gia.

Chúng tôi, Dân biểu Quốc hội Lập hiến:

Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà mau đến Ải Nam quan;

Nguyện vọng ấy là:

Củng cố độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;

Bảo vệ tự do cho mỗi người và cho dân tộc;

Xây dựng dân chủ về chánh trị, kinh tế, xã hội, văn hoá cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị.

Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được bảo toàn khi năng lực phục tùng lý trí và đạo đức, khi nền an ninh tập thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người được tôn trọng;

Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hoá và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diân.

Sau khi thảo luận, chấp nhận bản hiến pháp sau đây:

Thiên thứ nhất: Điều khoản căn bản

Điều 1: Việt nam là một nước Cộng hoà, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.

Điều 2: Chủ quyền thuộc về toàn dân.

Điều 3: Quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ lập pháp cho Quốc hội cũng do dân cử.

Sự phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt. Hoạt động của các cơ quan hành pháp và lập pháp phải được điều hoà.

Tổng thống lãnh đạo quốc dân.

Điều 4: Hành pháp, lập pháp, tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ tự do, dân chủ, chính thể cộng hòa và trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tính cách độc lập.

Điều 5: Mọi người dân, không phân biệt nam nữ sinh ra bình đẳng về phẩm cách, quyền lợi và nhiệm vụ, và phải đối xử với nhau theo tinh thần tương thân tương trợ.

Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của con người trong cương vị cá nhân hay trong cương vị tập thể.

Quốc gia cố gắng tạo cho mọi người những cơ hội đồng đều và những điều kiện cần thiết để thụ hưởng quyền lợi và thực hành nhiệm vụ.

Quốc gia tán trợ sự khuếch trương kinh tế, phát huy văn hoá, khai triển khoa học và kỹ thuật.

Điều 6: Người dân có những nhiệm vụ đối với tổ quốc, với đồng bào, mục đích là để thực hiện sự phát triển điều hoà và đầy đủ nhân cách của mọi người.

Điều 7: Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiên một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp.

Điều 8: Nước VNCH chấp nhận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền quốc gia va sự bình đẳng giữa các dân tộc.

Quốc gia cố gắng góp phần xây dựng và bảo vệ nền an ninh và hòa bình quốc tế cùng duy trì và phát triển sư liên lạc thân hữu giữa các dân tộc trên căn bản tự do và bình đẳng.

Và sau đây là Lời mở đầu và Điều khoản căn bản của Hiến pháp VNCH năm 1967:

Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước.

Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể Cộng hoà của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc , thống nhất lãnh thổ, bảo đảm độc lập, tự do, dân chủ trong công bằng bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.

Chúng tôi một trăm mười bảy Dân biểu Quốc hội Lập hiến, đại diện nhân dân Việt nam, sau khi thảo luận, chấp thuận bản Hiến pháp sau đây :

Chương I. – Điều khoản căn bản

Điều I: Việt nam là một nước CỘNG HOÀ, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.
Điều 2: 
  1. Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân.
  2. Quốc gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc. 
  3.  Mọi công dân có nghĩa vụ góp phần phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc.
Điều 3: Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân quyền và phân nhiệm rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hoà để thực hiện trật tư xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội.

Điều 4:
  1. VNCH chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức.
  2.  Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đếu bị cấm chỉ.
Điều 5:
  1. VNCH chấp nhận các nguyên tắc quốc tế pháp không trái với chủ quyền quốc gia và sự bình đảng giữa các dân tộc.
  2.  VNCH cương quyết chống lại mọi hình thức xâm lược và nỗ lực góp phấn xây dựng nền an ninh và hoà bình thế giới.
****
Trong phần mở đầu của Hiến pháp VNCH năm 1956 và 1967, chúng ta thấy, khi soạn thảo Hiến pháp, ngoài các ý niệm về dân chủ pháp trị, độc lập tự do, các vị dân biểu Quốc hội lập hiến còn chú tâm khai triển các triết lý về nhân bản, dân tộc và khai phóng, đã từng được chính thức hoá trong chính sách về giáo dục tại Đại hội Giáo dục quốc gia tại Sài gòn vào năm 1958. Các ý niệm nầy được ghi một cách cụ thể trong tài liệu «Những nguyên tắc căn bản» được Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành vào năm 1959, làm nền tảng cho triết lý giáo dục VNCH.

Theo tài liệu « Chính sách văn hoá giáo dục » của Hội đồng văn hoá giáo dục VNCH ấn hành vào năm 1972, các triết lý về « Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng » có thể hiểu như sau :

1. Tinh thần Dân tộc

Tinh thần dân tộc đề cao các giá trị của dân tộc Việt như: độc lập, tự do, tự chủ, thuần phong mỹ tục…

Thể chế VNCH tôn trọng các giá trị đặc thù, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp và đất nước. Nền Cộng hoà có nhiệm vụ bảo tồn và phát huy những tinh hoa của văn hoá dân tộc, đồng thời bảo đảm sự đoàn kết và sự trường tồn của dân tộc, sự phát triển điều hoà và toàn diện của quốc gia.

2. Tinh thần Nhân bản

Nhân bản là lấy con người làm gốc, đề cao giá trị thiêng liêng của con người, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời nầy làm căn bản; xem con người là một cứu cánh chứ không phải là một phương tiện hay công cụ phục vụ cho bất cứ cá nhân, đảng phái hay tổ chức riêng rẻ nào.

Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân nhưng không chấp nhận việc sử dụng các sự khác biệt để đánh giá con người vá không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo hay chủng tộc. Nhân bản là cội nguồn của đa nguyên. Xã hội nhân bản tôn trọng mọi sự khác biệt để con người cùng nhau xây dựng một cuộc sống hài hoà trong cộng đồng dân tộc. Một thể chế chính trị nhân bản là một thể chế đa đảng, quyền lực của tầng lớp lãnh đạo được pháp luật kiểm soát chặt chẽ. Mọi sinh hoạt về tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật đều được khuyến khích và hỗ trợ một cách công bằng và không thiên vị.

Mặc dầu chưa phải là một thành viên của Liên hiệp quốc, VNCH đã nhìn nhận, áp dụng và cổ vũ quyền con người, quyền dân sự ghi trong bản Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền. Trong hoàn cảnh chiến tranh, gia đình có người thân ở phía bên kia ranh giới quốc cộng vẫn được luật pháp bảo vệ, được đối xử một cách công bằng, có thể tham gia chính trị, làm ăn buôn bán, con cháu được học hành như các con em khác tại miền Nam.

3. Tinh thần Khai phóng

Dân tộc Việt nam sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ, mở rộng, đón tiếp những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, với mục đích hiện đại hoá quốc gia và xã hội, phát triển sự hợp tác quốc tế, đóng góp vào sự thăng tiến của nhân loại.

Do tinh thần khai phóng, VNCH xây dựng một thể chế dân chủ tam quyền phân lập. Mô hình chính trị là mô hình chống cộng, đa nguyên và có thể đi đến lưỡng đảng ( Hiến pháp 1967).

Kết luận

Do hoàn cảnh lịch sử, vì miền Nam Việt nam bị bạn đồng minh bỏ rơi trong khi miền Bắc cộng sản được khối Cộng sản viện trợ đầy đủ nên miền Nam Việt nam đã bị Cộng sản thôn tính và chế độ VNCH tạm thời bị xoá tên kể từ ngày 30 tháng tư năm 1975.

Nhưng linh hồn VNCH vẫn còn sống mãi trong trái tim của người Việt quốc gia ở hải ngoại. Bản sắc VNCH cùng với tinh thần Dân tộc, Nhân bản và Khai phóng vẫn còn in sâu trong ký ức của người Việt lưu vong và sẽ lưu truyền cho các thế hệ mai sau.

Đặc biệt là, đối với giới trẻ ở trong nước đang tìm kiếm một hướng đi thích hợp về chính trị để thay thế cho chủ nghĩa cộng sản đã và sẽ thất bại, thể chế chính trị VNCH sẽ là tấm gương soi sáng hướng đi cho đất nước, thích hợp trong tương lai.

Nguyễn Thanh Bạch 



Wednesday, March 30, 2016

Why China Fears THAAD

    This is Why China Fears THAAD
The first of two Terminal High Altitude Area Defense (THAAD) 
interceptors is launched during a successful intercept test - US Army
Suntaa Jaky Park

On Feb. 7, the United States and South Korea decided to begin official discussions on deploying the Terminal High-Altitude Area Defense (THAAD) system on the Korean Peninsula. In response, Chinese Ambassador to South Korea Qiu Guohong said that deployment of the system could destroy the Beijing-Seoul relationship “in an instant.” The floor leader of South Korea’s ruling Saenuri party, Won Yoo-cheol, calling Qiu’s remarks “rude,” saying that they “disregarded the sovereignty and the security of the Republic of Korea.” While some analysts see China’s blunt position on this issue as a way to drive a wedge in the US-ROK alliance, Beijing’s motivations are defensive. China’s leadership is concerned about THAAD at the strategic level and sees the system as part of a broader US strategy to contain China.

THAAD in South Korea does not pose a direct threat to China. THAAD is an anti-ballistic missile system designed to destroy short to intermediate-range ballistic missiles during their terminal phase, meaning that the system cannot intercept missiles during their boost or mid-course phase. THAAD on the Korean Peninsula, therefore, cannot intercept Chinese missiles heading toward the United States. The X-band radar that is part of the system would be positioned and configured in “terminal mode” to intercept missiles originating from North Korea, instead of being used to scan deep into China. Deploying THAAD would not directly affect China’s nuclear second-strike capability vis-à-vis the US. Instead, the system would complement the Patriot system already in South Korea by adding an additional layer of protection and bolster deterrence against North Korea by increasing uncertainty of its capabilities and complicating its security calculations.

Beijing must be aware of this. Why, then, is it so fiercely opposed to THAAD?

One widely-touted explanation is that China seeks to drive a wedge in the US-ROK relationship by attempting to wield a veto over South Korea’s decision-making. As Adm. Harry Harris, commander of US Pacific Command, recently put it, it is “preposterous that China would try to wedge itself between South Korea and the United States for a missile defense system designed to defend Americans and Koreans on the peninsula.” This is a plausible, but not complete, explanation. China might see the US-ROK alliance as “a weak link,” but only in a relative sense. There are 28,500 US troops on the Korean Peninsula to act under the US-ROK wartime combined command, and the alliance is stronger than ever. Pressuring South Korea to stand down on THAAD would add friction but not break the alliance. Chinese do not issue unusually blunt statements on the system just to obtain marginal benefits.

To understand Chinese concerns about THAAD, first note that China sees the US as determined to maintain its place as the leading global power and unwilling to allow China to take its rightful place within the international order. As Chinese Vice Minister of Foreign Affairs Fu Ying notes, “China is politically treated as an alien and militarily seen as a potential target [by the United States]. Some of its alliances show the intention to take China as the source of security threat.” The Chinese believe that China is “hemmed in on all sides by the US, Japan, Taiwan, ASEAN countries, and Australia, and facing an increasingly unilateral, even imperialist, America” and perceive that Washington is redoubling efforts to contain China by “rebalancing” to Asia. Plainly, Beijing sees a more insidious motive behind the US push to deploy THAAD: containment of China with a regional missile defense network and increased US-Japan-ROK security cooperation.

China questions why the US and South Korea want to deploy THAAD, an expensive system that only protects against missiles at altitudes between 40 and 150 kms; a single THAAD battery costs about $827.6 million. The Chinese argue that deploying the system would be an imprudent and exorbitant investment and overkill because Seoul is so close to North Korea. Even a former United States Forces Korea commander, while supporting the deployment of THAAD, noted that “the best way to deliver a nuclear weapon to Seoul today is in the belly of an airplane” or even drones, if the North Koreans are able to improve their unmanned technology. Drones, in particular, could easily reach the South without being detected by air defenses. Three North Korean drones flew over Seoul undetected and took photos of the South Korean presidential residence in 2014; the South Koreans only found out because the drones crashed on their way back to the North. North Korea might not need a missile to drop nuclear bombs on South Korea, although Washington and Seoul have every reason to deploy an array of systems to protect their citizens against different threats from the North.

The Chinese, however, are wary of the fact that deployment of THAAD would integrate the Korean Peninsula-based defense systems with US and Japanese sensors in Northeast Asia. While Washington and Seoul see Beijing’s opposition to THAAD as an attempt to set a precedent for influencing South Korea’s defense decisions, China sees the United States setting its own precedent for US-Japan-ROK military cooperation with the broader goal of forming a trilateral alliance to contain China. Beijing has historically considered the Korean Peninsula to be critical to China’s security. As a Chinese general wrote in 1592, “Liaodong [a southern coastal part of Manchuria] is an arm to Beijing whereas Chosun is a fence to Liaodong.” During the Korean War, the Chinese lost more than half a million troops to prevent all of Korea from falling within the US orbit. Beijing would consider the emergence of a coherent military bloc that includes South Korea to be a major strategic setback. Beijing’s attempts to capitalize on the difficult state of relations between Japan and South Korea and flourishing economic ties between China and South Korea have very much been about preventing such an alliance from forming.

Beijing also fears that THAAD is a step in the US plan to encircle China with an interlinked set of missile defense systems that runs from Japan to Taiwan and even India. From the Chinese perspective, whether a regional missile defense network, under today’s circumstances, would be useful against China is irrelevant. The Chinese have great respect for the ability of the US to innovate. Beijing has to take into account the possibility that technology could improve, that more missile defense systems could be deployed throughout the region, and that they could be reoriented and reconfigured toward any other country besides North Korea. Even if THAAD were not aimed at China today, intentions can change quickly. The Chinese remember that after decades of hostility toward communist China, Richard Nixon and Henry Kissinger initiated a surprise opening to Beijing to end the Vietnam War and to contain the Soviet Union, only to treat China as a competitor later. Beijing does not trust Washington or its stated goodwill and fears that a regional missile defense network could emerge in Asia to be directed against China.

A regional missile defense network could complicate China’s ability to threaten or defend against US and allied assets in the region. The Chinese see forward-deployed US assets as having offensive purposes. A former Chinese admiral said once that U.S. naval presence near China is akin to “a man with a criminal record wandering just outside the gate of a family home.” Beijing fears that a regional missile defense network could provide a shield for US assets in the region, allowing the United States to threaten China more easily; a tactically defensive system could be used for strategically offensive objectives.

Moreover, as noted by Chinese Foreign Minister Wang Yi, Beijing worries that THAAD’s X-band radar could reach deep into China if configured in “look mode.” Chinese defense planners fear that a ring of X-band radars could make China’s nuclear deterrent less reliable by allowing additional warnng time and better detection capabilities for the United States, tilting the strategic balance of power in Washington’s favor.

While overstated, Beijing’s concerns are understandable. According to Assistant Secretary of State for Arms Control, Verification, and Compliance Frank Rose, defending against Chinese or Russian nuclear missiles would be “extremely challenging – and costly.” However, the 2015 Department of Defense China report notes that China only has 50 to 60 land-based intercontinental ballistic missiles. China also recently emerged with a sea-based deterrent with four Jin-class nuclear-powered submarines with JL-2 submarine-launched ballistic missiles; the relative quality and size of China’s sea-based deterrent mean that it is vulnerable to US submarines and anti-submarine warfare capabilities. Chinese strategists have to consider the possibility that their small nuclear deterrent might not survive a conflict with the United States if missile defense systems expand and develop to blunt whatever is left of Chinese retaliatory capabilities after a US first or precision-guided strike.

If a US missile defense system is theoretically able to negate China’s second-strike capability, Washington might be able to coerce China in a military standoff, gaining concessions while preventing Beijing from meeting its own objectives. Understandably, the Chinese see any capability (for example, the X-band radar) that could affect China’s second-strike capability as a threat to their idea of strategic stability.

China’s opposition to THAAD is still unjustifiable. China should not intervene in South Korea’s sovereign decision-making, especially when Beijing has been reluctant to clamp down on DPRK nuclear and missile programs that threaten Seoul and its allies. China’s policy toward North Korea has brought South Korea closer to deploying THAAD. Beijing also should not accuse Washington of destabilizing actions when China is developing its own strategic ballistic missile defense. While jealously protecting its own interests, Beijing seems to display disregard or unawareness of how others view the situation, an attitude also reflected in China’s stance on the South China Sea disputes. Beijing should become more aware of its own actions and how others view them before denying those countries the means to defend themselves.



Việt Cộng và ISIS, kẻ nào khủng bố “hay” hơn? - Nguyễn Trọng Dân

    Việt Cộng và ISIS, kẻ nào khủng bố “hay” hơn?
Tội ác việt công Mậu Thân 1968
Nguyễn Trọng Dân

Cả hai Việt Cộng và ISIS điều chọn con đường khủng bố để gieo rắc sợ hãi kinh hoàng lên thường dân - thế nhưng dường như Việt Cộng về “thành tích” khủng bố cũng như về chiến thuật và cách tổ chức đội ngũ khủng bố tinh vi và thành công hơn và vượt xa ISIS. Ngoài ra, Việt Cộng sử dụng phương thức khủng bố để gieo rắc sợ hãi lên thuờng dân khéo léo hơn ISIS.

A. “Thành Tích” khủng bố của ISIS và Việt Cộng, ai cao hơn ai?

ISIS hay còn gọi là Nhà Nước Hồi Giáo viết tắt từ Islamic State of Iraq and al-Sham. ISIS rộ lên vào tháng Sáu năm 2014. Như vậy, tính đến nay, nhân loại đã hứng chịu sự khủng bố từ ISIS được gần hai năm. “Thành tích” khủng bố của ISIS trong năm qua có thể tạm kể ra như sau:

- Một khu du lịch ở Tunisia bị tấn công bắn loạn xạ làm 38 khách du lịch đến từ Âu Châu thiệt mạng

- Bom nổ ở quận Suruç thuộc tỉnh Şanlıurfa của Thổ Nhĩ Kỳ làm 33 người bị thiệt mạng và khoảng 104 người bị thuơng.

- Ba tay súng ISIS lao vào tấn công Viện Bảo Tàng Quốc Gia Bardo của Tunisia làm 21 du khách Âu Châu chết tại chỗ.

- Buổi Thánh-lễ al-Badr và al-Hashoosh ở Yemen có rất đông người cầu nguyện đã bị nổ bom tự sát bởi ISIS làm 142 người chết tại chỗ.

- Chiếc máy bay Metrojet Flight 9268 thuộc hãng hàng không Nga bị người ISIS cho cài bom làm nổ khiến toàn bộ 224 người từ hành khách đến phi hành đoàn điều thiệt mạng.

- Nhà ga của Ankara, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ bị ISIS gài bom làm 103 thường dân bị thiệt mạng và 400 trăm bị thương.

- Miền Nam Beirut bị đặt bom làm 43 người bị thiệt mạng.

- Thủ đô nước Pháp bị các tay súng ISIS bất ngờ tấn công làm 130 thương dân tử nạn.

Sang đến năm 2016, thì ISIS cho các tay súng tấn công quận Sultanahmet của tại thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ làm 13 người bị giết và 14 người bị thương. Mới đây nhất là vụ đặt bom tại Bỉ làm khoảng 30 thường dân bị thiệt mạng.

Như vậy có thể tạm kết luận “thành tích” khủng bố của ISIS trong một thời gian quá ngắn ngủi đã có thể vượt xa các tổ chức khủng bố khác nhưng đem so với Việt Cộng thì đúng là còn thua xa.

Sau đây là bản thống kê chi tiết từng năm tổng số các nạn nhân do bị Việt Cộng khủng bố do cơ quan USAID của Hoa Kỳ loan báo ở link http://pdf.usaid.gov/pdf_docs/PNADX657.pdf USAID là cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ, rất có uy tín trên toàn thế giới và đã có những đóng góp đáng kể trong việc giúp xóa đói giảm nghèo cũng như hổ trợ y tế và dạy nghề cho Việt Nam trong gần 25 năm nay.

Như vậy, nếu đem tổng số nạn nhân chia cho mười năm liệt kê trong bản thống kê thì bình quân có khoảng 1,179 nạn nhân bị tử thương và 4,117 nạn nhân bị bắt cóc bởi thảm hạo khủng bố do Việt Cộng gây ra. Con số các nạn nhân bị tử thương bình quân mỗi năm này đương nhiên là vượt trội thành tích khủng bố của ISIS trong năm 2015 chỉ có 734 người bị thiệt mạng là tối đa.

Tuy nhiên, nếu so sánh như thế thì không công bằng cho ISIS bởi biết đâu chừng, ISIS sẽ cố đạt “thành tích” cao hơn trong năm nay so với “thành tích” khủng bố bình quân mỗi năm của Việt Cộng thì sao? Cho nên để so sánh cho thêm phần công bằng thì cần phải phân tích chi tiết hiệu quả của chiến thuật hay phương thức khủng bố của cả hai ISIS và Việt Cộng.

B. Chiến thuật và cách tổ chức đội ngũ khủng bố giữa ISIS và Việt Cộng, ai hay hơn ai?

Nguyên tắc căn bản của khủng bố là nhắm vào thường dân hiền lành, hoặc đặt bom có miểng hoặc tấn công bởi các tay súng một cách bất ngờ ở những nơi tụ tập đông người nhất để gây thiệt hại tối đa về nhân mạng. Cả hai ISIS và Việt Cộng điều hiểu rõ và tuân thủ nguyên lý căn bản này của chiến thuật khủng bố. Thế nhưng về cách thức tiến hành khủng bố, ISIS đã không học được sự tổ chức khéo léo tinh vi của Việt Cộng khi tiến hành khủng bố.

Trước hết, ISIS thiệt hại quá nhiều về nhân lực mỗi khi tiến hành khủng bố trong khi Việt Cộng thiệt hại rất ít về nhân lực khi tiến hành khủng bố.

Hầu hết các cảm tử quân của ISIS điều hoặc thiệt mạng hoặc bị bắt sau khi tiến hành khủng bố trong khi Việt Cộng hoàn toàn không hề bị thiệt hại về nhân lực như ISIS ngoại trừ một vài vụ bị đổ bể bất thành - thí dụ như vụ đặt bom khủng bố của tên Nguyễn Văn Trỗi trên cầu Thị Nghè chẳng hạn, hay vụ của tên Nguyễn Anh Tuấn, tính cài bom cho nổ trường học khiến sẽ có ít nhất 100 học sinh bị thiệt mạng nếu thành công!

Điều khác biệt rõ ràng trong cách thức tổ chức lực lượng khủng bố mà khiến Việt Cộng đã hơn hẳn ISIS vì Việt Cộng đã chia ra làm ba nhóm nhỏ trong một tổ chức khủng bố tại bất cứ nơi nào. Ba nhóm nhỏ này bao gồm:

1. Nhóm lấy tin tức, dò la địa hình và nhận chỉ thị khủng bố từ Cục R chuyên đặc trách khủng bố. Nhóm này cũng đặc trách móc nối để lấy tin tức từ nhà chức trách.

2. Nhóm đặc công lo kỹ thuật bom mìn cũng như vạch ra cách thức tiến hành khủng bố. Trong nhóm này lại chia ra làm hai tổ, tổ đặc công thực hiện khủng bố và tổ kỹ thuật chế tạo hay cung cấp miền vũ khí cho đặc công.

3. Nhóm hậu cần hỗ trợ đường rút lui và kinh tế cho mọi thành viên khi cần thiết sau khi tiến hành khủng bố. Có đôi khi, tổ kỹ thuật được sát nhập vào nhóm hậu cần khi tổ đặc công bị thiệt mạng cần chờ đợi thay thế.

Như vậy mạng lưới khủng bố của Việt Cộng rất tinh vi, dày đặc và mỗi vụ khủng bố của Việt Cộng bao gồm cả ba nhóm hợp tác. Trong khi đó, các thành viên trong một nhóm khủng bố của ISIS phải lo từ đầu đến cuối - nghĩa là từ kỹ thuật, lên kế hoạch lẫn hành động cũng như hoàn toàn thiếu khả năng tính toán đường rút lui.

Do đó mà giới chức trách điều tra thấy rõ người của ISIS tiến hành khủng bố cũng là kẻ đảm trách phần kỹ thuật chế tạo bom mìn. Điều này khiến các nhóm khủng bố của ISIS sau khi tiến hành khủng bố thường bị bắt, bị tử thương và hoàn toàn bị triệt tiêu. ISIS cần phải thường xuyên đào tạo và gầy dựng nhóm khủng bố mới tốn rất nhiều thời giờ, nhân lực. Trong khi đối với Việt Cộng, một tổ chức khủng bố tại địa phương của họ có thể liên tục thực hiện khủng bố mà mọi sự thiệt hại nhân lực nếu có không làm cho hoạt động khủng bố bị tê liệt.

Quan trọng hơn hết, thí dụ như nếu ở địa phương nào đó tổ chức khủng bố của họ cần nhóm chế tạo bom mìn vì nhóm này bị bắt chẳng hạn thì cục R có thể điều nhóm kỹ thuật từ nơi khác đến và nhóm kỹ thuật này vừa cung cấp bom mìn vũ khí cho nhóm mình, và cho luôn nhóm “đồng ch”í của mình trong khi chờ đợi lực lượng bổ sung. Sự thăng chuyển này khiến mạng lưới khủng bố của Việt Cộng vô cùng linh động và hoàn toàn làm giới chức trách điều tra mệt mỏi đuối hơi.

Sự thành công của ISIS khi khủng bố từ ngày đầu đến nay điều hoàn toàn do bởi nhà chức trách đã thờ ơ trước các tin tức cảnh báo từ tình báo đưa về. Các hoạt động tuyển người quá đại trà của ISIS đã khiến nhân viên của các chính phủ khác nhau có thể trà trộn nằm vùng vào dễ dàng và nắm phần lớn những dự tính khủng bố của ISIS.

Tuy nhiên, vì chính phủ các nước chưa thật sự liên kết hợp tác chặt chẽ để chống khủng bố nên nguồn tin từ chính phủ này đã không thể đến được chính phủ kia để dự phòng. Nhờ vậy, các dự tính khủng bố của ISIS mới xảy ra hiệu quả dù hầu hết, những dự tính này đã được dự đoán trước bởi tình báo. Cho nên có thể nói, sự thành công khi tiến hành khủng bố của ISIS hiện nay chỉ là sự thành công nhờ vào may mắn nhiều hơn là do tổ chức tinh vi chu đáo.

Còn về phía Việt Cộng, mục tiêu khủng bố được dấu kín từ cục R, phương thức tiến hành và kế hoạch điều được bảo mật đến giờ phút chót. Xác xuất khủng bố tiến hành khủng bố thành công bởi Việt Cộng (không bị thiệt hại về nhân lực) rất cao so với ISIS mà vụ nào cũng bị tổn hại nhân lực.

C. Sử dụng khủng bố để không chế ràng buộc thường dân quy phục, giữa ISIS và Khủng bố Việt Cộng, ai thành công hơn ai?

Việt Cộng cũng hơn hẳn ISIS về cách hoạch định mục tiêu để tiến hành khủng bố. ISIS tiến hành khủng bố ở những nơi đông người để cố gây thiệt hại tối đa về nhân mạng. Việt Cộng cũng thực hiện điều nay nhưng hơn ISIS, Việt Cộng còn dùng khủng bố tiến hành lên các mục tiêu kinh tế dù sự thiệt hại về nhân mạng có thể rất ít.

Việt Cộng đã khéo léo dùng khủng bố để phá hoại kinh tế song song với mục đích gây nhiều thiệt hại về nhân mạng.

Phá ruộng của nông dân, đốt kho lúa, giết gia súc buộc nông dân phải đóng thuế cho Việt Cộng, ủng hộ cho Việt Cộng để khỏi phải bị thiệt hại về tài sản hay tránh khỏi bị đe dọa về tính mạng. Số phận của những thương gia tiểu tư sản, tư sản trên thị xã hay trên thành phố, tỉnh cũng chịu cùng một hoàn cảnh. Có rất nhiều thương gia đã phải đóng thuế (ngầm) cho Việt Cộng để được yên thân.

Như vậy, khủng bố được Việt Cộng sử dụng cùng một mức độ tàn bạo như ISIS nhưng mục tiêu của khủng bố thì rộng và khôn ngoan hơn ISIS. Do đó, hiệu quả của khủng bố đem đến cho Việt Cộng nhiều lợi ích hơn ISIS. Đến giờ phút này, ISIS chỉ gặt hái sự trả đũa của thế giới từ các cuộc khủng bố do mình tiến hành trong khi tốc độ Hồi giáo hóa vẫn không mấy nhanh hơn như trước khi có ISIS. 

Trong khi đó, khủng bố đã buộc nhiều tầng lớp thường dân trở thành hoặc ủng hộ hoặc gia nhập vào lực lượng Việt Cộng ngày một đông hơn để được yên thân về tài sản, sanh mạng. Vì vậy, khủng bố đem đến nhiều thuận lợi cho Việt Công hơn cho ISIS.

D. Kết:

Mãi mãi, sẽ không có một tổ chức khủng bố nào trên quả địa cầu này có thể đạt được “thành tích” khủng bố như Việt Cộng, với tổng số thường dân Việt Nam Cộng Hòa bị bắt bị giết, bị phá tài sản nhiều không kể xiết. Chỉ tính đến năm 1963 mà đã có trên 11 ngàn người dân vô tội, có cả đàn bà và trẻ em đã bị thiệt mạng bởi khủng bố do Việt Cộng gây ra như theo tài liệu của cơ quan USAID.

Sự khủng bố của ISIS mà đem so với sự khủng bố của Việt Cộng thì ISIS chỉ xứng đáng làm học trò của Việt Cộng mà thôi!

Ngày hôm nay, những người dân Việt Nam Cộng Hòa nhìn về Brussels hay Paris với một sự cảm thông sâu sắc, để rồi những đau đớn ray rứt khôn nguôi cứ dâng lên khi nhìn những tấm hình người thân của mình trên bàn thờ, đã thiệt mạng vì sự tàn bạo của bọn khủng bố Việt Cộng.

Mục tiêu của bọn khủng bố như ISIS hay Việt Cộng có khác biệt, nhưng nỗi đau của thân nhân gia đình các nạn nhân bị khủng bố thì như nhau.

Cả Âu Châu và thế giới bị khủng bố của ISIS từ hai năm nay mà đã bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống, hãy nghĩ thử coi, những người dân Việt Nam Cộng Hòa đã phải hứng chịu khủng bố của Việt Cộng dai dẳng và thường xuyên suốt 20 năm thì mất mát và đau đớn nhiều đến chừng nào!

Kính xin post bài nhạc này như nén hương lòng gởi đến những ai chịu cảnh mất mát người thân do bị Việt Cộng khủng bố. Chuyen Tinh Mong Thuong: Thanh Toan, Thanh Tuyen

Nguyễn Trọng Dân
________________________________________________________________________
Một số hình ảnh khủng bố do đảng Cộng sản VN
gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam Cộng Hòa
Năm 1965: 2 photos này là diễn biến cuộc khủng bố của Việt cộng bằng bom mìn cài trong chiếc xe hơi rồi cho nổ. Hiện trường là trước tòa nhà Quốc Hội của miền Nam Việt Nam (nay là nhà hát Sài Gòn). Bên kia đường là thương xá TAX, nơi có đông đảo dân Sàigòn đi dạo để mua sắm. Bao nhiêu nạn nhân là dân thường, đàn bà con nít điều đó không quan trọng. Trọng tâm của quân khủng bố VC là gây tiếng vang nhằm tạo sức ép với Thế giới và ngay cả chính quyền Sàigòn, kể cả khủng hoảng tinh thân người dân miền Nam. 

Việt Cộng đặt mìn xe đò để giết dân lành vô tội
Việt Cộng đặt mìn để giết dân Việt cùng màu da
 Việt cộng .... những tên khủng bố độc ác .... giết dân mình
On Christmas Eve 1964 (24.12.1964)


 Three years earlier, the Viet Cong terrorists told civilians living in the Duc Duc Refugee Village that a March 4, 1968 attack on Duc Duc was to force the people to return across the river to the Arizona area and grow rice. Since the people of Duc Duc never listened to the Viet Cong terrorists, the village was burned to ashes on March 30, 31 1971. Hundreds of innocent men, women and children were killed, wounded and reported missing. These people were killed, because they chose to live near the 5th Marines Combat Base. Where they enjoyed some freedoms for their families..




 Nạn nhân bị trói trước khi bị hạ sát ở Huế! Việt cộng lén lút xâm nhập miền Nam. Để không bị lộ, Việt cộng giả bộ mẹ mẹ con con... Bản chất ác quỷ đã lộ ra trong sự xảo trá cho dân ăn Tết Mậu Thân 1968 như thế này đây!













'Việt Nam - Hồ Chí Minh!' - Huy Phương

    “Việt Nam - Hồ Chí Minh!”
Tổng Giám Mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt đã phát biểu: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ!”
  
Huy Phương

Bà Nguyễn Thị Nhuận, một điều dưỡng viên hiện đang làm việc tại Nam Úc, đã kể lại một câu chuyện trên VnExpress, nghe đến nát lòng!

Bà được bệnh viện gửi đến nhà một người khuyết tật, bị bại liệt hai chân, để giúp chăm sóc thường ngày, giúp ông tắm rửa, ăn sáng, dùng máy nâng ông vào ghế tắm và đặt lại giường nằm. Vừa làm, bà vừa giải thích cho ông biết, nhân viên ngày thường đến chăm sóc ông hôm nay bị bệnh nên bà được cơ quan y tế cử đến thay thế.

Bỗng nhiên bà nghe ông hỏi, bà đến Úc lâu chưa?

Bà trả lời:

- Thưa ông, mới hai năm nay và tôi đến từ Việt Nam!

Nghe chưa dứt hai tiếng Việt Nam, ông già bỗng giận dữ quát to, một cách thô lỗ:

- Mày ra khỏi nhà tao ngay! Ra ngay!

Người điều dưỡng viên trong câu chuyện này ấp úng:

- Nhưng, ông đang trong nhà tắm...

- Không! Ra ngay, ra ngay!

Bà Nhuận nhẫn nhục để ông trên ghế tắm, khoác cái áo choàng cho ông và đi ra gọi điện báo về văn phòng. Họ bảo bà cứ yên tâm ra về, họ sẽ cử người đến làm tiếp và an ủi bà:

- Đừng coi đó là chuyện của riêng bà!

Bà Nguyễn Thị Nhuận kể lại: “Tôi cảm thấy tủi thân, trào nước mắt. Tôi mới từ Việt Nam qua với tâm trạng tuy mình còn kém tiếng Anh, nhưng người Việt Nam cũng nổi tiếng anh hùng, dũng cảm, thông minh, sáng tạo...”. Bà cũng chẳng có tội tình gì với ông già, được đến để chăm sóc ông, và cũng tự đánh giá mình là người tử tế. Nhưng tại sao lại bị đối xử như vậy? Chẳng lẽ chỉ vì bà là người Việt Nam?”

Lẽ cố nhiên người điều dưỡng viên trong câu chuyện này không được bệnh nhân cao niên kia giải thích vì sao ông lại khinh miệt một người Việt đến như thế! Có thể trước đây, một người Việt Nam nào đó đã làm những điều xấu xa, hay đối với ông tồi tệ thế nào, khiến giờ đây ông ghét tất cả người Việt.

Cơ quan y tế cử bà Nguyễn Thị Nhuận đến giúp đỡ cho người đàn ông Úc cao niên kia đã an ủi bà: “Đừng coi đó là chuyện của riêng bà!”

Phải, câu chuyện này không phải là của riêng bà, một người Việt đang làm việc tại Úc mà của tất cả thanh danh của người Việt đang ở nước ngoài. Người ta cũng mường tượng ra, một người Việt Nam nào đó đã đối xử xấu xa hay làm một điều gì đó khiến cho một người Úc căm giận đến thế?

Du học ở Úc, bà Nguyễn Thị Nhuận cũng đã được bạn bè, ngay cả những người Châu Á, than phiền về lối sống vô trách nhiệm của sinh viên Việt tại đây, biết đến những thanh niên Việt Nam đang can dự vào các tội buôn bán ma túy tại nơi đã cưu mang họ, và bà cũng mới nghe tin hai người Việt bị bắt vì tội trộm cắp ở Thụy Sĩ.

Cũng như chúng ta, bà Nguyễn Thị Nhuận lâm vào hoàn cảnh này hẳn phải tức giận và xấu hổ, trăn trở tự hỏi: “Ai đã làm cho đất nước chúng ta lâm vào cảnh trái ngang này?”

Câu kết luận của bà Nguyễn Thị Nhuận là: “Có lẽ mỗi ngày tôi và các bạn nên nhìn thẳng vào tấm gương thực (chứ không phải những tấm gương nịnh mặt) để thấy những vết nhọ của mình.”

Khi mà mặt mình mang nhọ, đừng nghĩ là không ai thấy, có ra đường thì chớ vênh váo thêm nhục!

Bạn thử đứng vào vị trí một nhân viên quan thuế tại phi trường Changi, Singapore, khi cầm sổ thông hành của một cô gái Việt mới đến đây, mà không thể không liên tưởng đến chuyện tối nay, anh có thể gặp cô này trên con đường Joo Chiat Road tấp nập của Singapore. Hay một nhân viên phi trường Nhật nào đó cầm một cái sổ thông hành Việt Nam trong tay, mà không nghĩ đến bao nhiêu người Việt, kể cả các quan chức là lũ ăn cắp, buôn lậu.

Không phải không có lý do hay phát biểu của Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Hà Nội Ngô Quang Kiệt đã phát biểu: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ!”. Thay vì nhìn nhận sự thật, “soi gương” thì chính quyền Hà Nội, thông qua truyền thông Việt Nam, đã bắt bẻ, đặt vấn đề về lòng yêu nước của ông, cuối cùng áp lực cho ông được về hưu sớm hơn so với kế hoạch.

Sau Tháng Tư, 1975, dân Bắc, ai đi Nam về cũng có chung một nhận xét “trẻ con trong Nam hầu như rất ít nói bậy và viết những điều tục tĩu lên tường nơi công cộng, đi đâu về nhà thì lễ phép cung kính vòng hai tay thưa gửi người bề trên. Đặc biệt, ngoài đường, xe cộ nếu có đụng chạm thì cũng không dẫn đến xô xát, chửi bới nhau như ngày nay.”

Sau năm 1975, “đất lành chim đậu”, nhiều đợt di dân mới ồ ạt từ Bắc vào Nam, tạo điều kiện cho Nam Bắc gần gũi nhau, nhưng cũng chính từ đó, thói hư tật xấu dễ lan tràn, đồng hóa hơn là học hỏi được điều tốt, và ngày nay cái tên “thành phố Hồ Chí Minh” cũng lấm lem không thua gì Hà Nội.

Sau Cách Mạng Tháng Mười, 1917 của Nga, nhà văn Maxim Gorki đã có nhận xét rằng: “cuộc cách mạng đã có tác dụng tích cực lật đổ được chế độ phong kiến, nhưng với sự nắm quyền và quản lý xã hội của giai cấp vô sản ít học, nước Nga sẽ phải đối đầu với một tình trạng còn nguy hiểm hơn, đó là lâm nguy văn hóa.'”

Đó là Việt Nam ngày nay. Muốn cải cách văn hóa, giáo dục, lối sống, cũng như của mọi công cuộc cải cách khác, trước hết phải cải cách chính trị, nói chung là thay đổi chính quyền. Từ đâu mà từ nửa thế kỷ nay vấn đề đạo đức - văn hóa - giáo dục của đất nước chúng ta trở nên tồi tệ như hôm nay, và hai tiếng Việt Nam trở thành một mối bận tậm, hổ thẹn của người Việt Nam, khi đi ra nước ngoài!

Tôi xin kể một câu chuyện nhỏ mới xẩy ra đây thôi.

Ba năm nay, ở Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia, vào dịp lễ Quốc Khánh 2 Tháng Chín, tòa đại sứ CSVN đều tổ chức một buổi tiệc “buffet” và mời đại diện đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở Malaysia tham dự. Buổi tiệc chưa bắt đầu, trước con mắt của quan khách ngoại quốc, dân Việt Nam đã nhào vào bàn tiệc lấy thức ăn, đến mức khách tham dự không còn gì ăn, tạo ra một khung cảnh hỗn loạn vô cùng xấu hổ. Năm sau, rút kinh nghiệm, tòa đại sứ tổ chức hai nơi, một ngoài trời và một trong hội trường cho quan khách. Người Việt Nam sau khi đã ăn ở ngoài trời, lại nhào vào hội trường vơ vét thức ăn. Vừa xấu hổ và vì danh dự, đại diện tòa đại sứ Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách!

Câu chuyện đạo đức hôm nay không phải là chuyện đạo đức mà chúng ta trước kia đã có và đã nói tới, mà chính là thứ đạo đức được nhồi nặn trong chủ nghĩa Cộng Sản, thứ “đạo đức cách mạng” sản xuất từ ngay vận nước suy vi, mùa Thu 1955, khi mà dân tộc Việt Nam “vô phúc” nhập cảng nhầm cái chủ nghĩa độc hại, không khác gì thực phẩm độc hại giết người của Trung Cộng hiện nay, là chủ nghĩa Cộng Sản.

Đó cũng là từ ngày hai tiếng Việt Nam được kẹp đôi và gắn bó với cái tên Hồ Chí Minh, như bài hát của “đứa con bất hiếu” Phạm Tuyên, mà những tên ăn bả của Việt Cộng đã nhảy cỡn lên mà reo hò trong các đại hội “Việt Kiều:” “Việt Nam - Hồ Chí Minh!” “Việt Nam - Hồ Chí Minh!”

Chúng ta đã rõ! Cái tên Việt Nam chưa bao giờ nhận được sự bẽ bàng, khốn khổ, khinh miệt từ ngày nó được ghép theo cái tên Hồ Chí Minh!

Huy Phương



Tuesday, March 29, 2016

Russia, you’ve made Japan really mad

    Russian naval base on islands claimed by Japan could lead to fireworks
The disputed isles between Japan and Russia.
Debra Killalea 

RUSSIA has revealed plans to build a naval base on territory that includes disputed islands in a move sure to anger rival Japan.
In a daring and ambitious move, Russia’s Defence Minister Sergei Shoigu revealed Moscow was considering setting up a naval base in the Kuril Islands.

However the area in the Far East of the country is on land Japan already considers to be part of its territory.

Mr Shoigu told a ministry session that a naval expedition is due to leave in April for the Greater Kuril Ridge in order to “study the possibility of basing forces of the Pacific Fleet on the archipelago”.

The islands, which Japan refers to as the Northern Territories and Russia as the southern Kurils, is at the centre of a long-held dispute between the military powerhouses dating back to the end of World War II.

Anger of the ownership of the four islands — Etorofu, Kunashiri, Shikotan and the Habomai group of islets — is so strong that it has prevented the two from signing a peace treaty.

The islands were seized by the Soviet army in the closing days of World War II following Japan’s surrender.

Japan has been fighting for recognition of its ownership of the islands ever since.

However Russia maintains it will return Shikotan and the Habomai islets following the conclusion of a post-war peace treaty, Japan Times reported.
Russia’s plan will not go down with Japan. It’s Prime Minister Shinzo Abe is due to meet Russian President Vladimir Putin next month. Source:AFP

THE DISPUTE
Russia’s build up extends far beyond Europe with the military in Asia set to see the deployment of state-of-the art Bal and Bastion anti-ship missile systems and new drones to the southern Kurils.

The anti-ship missile systems to be deployed on the disputed islands are capable of hitting targets more than 300km away, according to Associated Press.

Ms Shoigu confirmed Russia was strongly considering the possibility of setting up a naval base on the islands.

Ships of Russia’s Pacific Fleet will visit the area in the northern summer to study possible locations, he said, adding the military will also continue to strengthen its presence in the Arctic region.

The Kremlin has made expanding Russia’s military presence in order to protect the country’s national interests in the Arctic a top priority in light of increasing international interest in the region’s vast oil and other resources.

Russia’s military move comes just weeks ahead of a meeting to be held between Japanese Prime Minister Shinzo Abe and Russian President Vladimir Putin.

The pair are expected to meet in May where it is hoped they will come to some sort of resolution over the dispute.

WHAT IT MEANS

Russian Defence Minister Sergei Shoigu unveiled Russia’s military plans last week. Source:AP

The move is part of Russia’s big plan to beef up its military forces all the way from its western border to the Pacific Islands.

It is not known how much it will cost all up, but it takes place at a time when the Russian economy is in recession under the dual impact of low oil prices and Western sanctions imposed on Moscow over its role in the Ukrainian crisis.

In announcing the build-up, Mr Shoigu said the deployment of NATO’s forces near Russia’s borders had caused concern and as part of a response new units in the Western Military District, including two new divisions, would be formed.

The military forces in western Russia will receive 1100 new weapons systems, including warplanes, helicopters, tanks and other armoured vehicles.

In terms of its build up in Asia, Mr Shoigu also revealed that Bal and Bastion shore-to-ship missiles and Eleron-3 drones will be deployed on the disputed islands by the end of 2015, according to Japan Times.

Can Russian President Vladimir Putin fix it? Source:AP
THE BACKGROUND

The islands lie of the northern island of Hokkaido and in the 18th and 19th centuries saw the minority Ainu community migrate there, the BBC reported.


The islands were taken by Russia in 1949. Russia deported its citizens back to Japan and the islands are now home to a 30,000 strong Russian community.

However the dispute is about more than just land and people.

According to the BBC, the islands are not only rich in fish stocks but reportedly hold oil and gas reserves.


Sunday, March 27, 2016

America’s Military Is in Much Worse Shape Than You’d Think

    This Is Why America’s Military Is in Bad Shape

John Sullivan, Justin T. Johnson

America’s military is dangerously weak and unprepared today, and it’s not getting better. At least that’s what top military leaders told Congress recently. Unfortunately, the testimony of these top generals and admirals did not get the attention it deserved.

For the last 15 years, the United States military has not prepared for conflict with a near peer competitor like Russia or China. General Mark Milley, chief of staff of the Army, shared his worries with Congress, explaining that the Army would be able to handle a serious conflict but “not at a level that is appropriate for what the American people would expect to defend them.”

In other words, because soldiers are not adequately prepared, the U.S. Army would either be late to arrive to a conflict (due to more time for training) or they would send soldiers into harm’s way unprepared.

These are not issues isolated to the Army. The Commandant of the Marine Corps, General Robert Neller, when commenting on the ability to meet requirements in a major conflict, said the Marine Corps “would be able to do that but probably not within a timeframe that current plans call for [them] to arrive to participate in that conflict.”

The chief of Naval Operations, Admiral John Richardson, also admitted that there is “a readiness debt that we have had difficulty pulling out of or even making progress on as the funding levels are what they are and the security environment continues to put demands on the force.”

Almost two decades of conflict and years of budget constraints have taken their toll on the military, both in terms of deferred modernization and insufficient readiness.

In the 2016 Index of U.S. Military Strength, the American military received a grade of “marginal”. We can see why in one news story after another. Only one third of Army Brigade Combat Teams are battle ready.

Half of the Air Force’s combat forces are insufficiently prepared for a high-end conflict. The Navy is forced to put more strain on its sailors and ships by doing eight to ten month deployments, instead of the more manageable 6 months.

All Marine Corps aircraft either need to be replaced or recapitalized. Not to mention, the Marines’ current level of Class A mishaps is nearly double the ten year average. Neller confessed that “the simple fact is that we don’t have enough airplanes to meet the training requirements for the entire force.”

Last year, the former chairman of the Joint Chiefs said the planned defense budget was “the lower ragged edge of manageable risk need to execute our nation’s defense strategy.” The suggested base defense budget at the time was $573 billion. This year’s defense budget request is more than $20 billion lower.

If last year’s estimate was the lower ragged edge, this year’s budget request surely is below that edge of manageable risk.

As Sen.John McCain, R-Ariz., commented recently:

“I fear it means that our military is becoming less and less able to deter conflict and if, God forbid, deterrence does fail somewhere and we end up in conflict, our nation will deploy young Americans into battle without sufficient training or equipment to fight a war that will take longer, be larger, cost more and ultimately claim more American lives than it otherwise would have.”

This fear is echoed by Secretary of the Air Force Deborah James who stated that, “history teaches us that the consequences of insufficient preparation are the prolonging of conflict and the increased loss of life.”

Congress needs to take action to relieve the stress being placed on the defense budget. While men and women in uniform accept a level of risk when they join, Congress and the American people need to provide the funds necessary to minimize this risk.

Gen. Welsh, chief of staff of the Air Force, put it best when saying the men and women of our armed forces “are willing to pay the price if they think it’s important, if they think the nation supports them, if they think they’ll have the resources and the equipment and the training to be the best in the world at what they do. That’s all they ask.”

A fully adequate defense budget needs to be responsibly funded by Congress. National defense is an explicit Constitutional priority. Congress should recognize their constitutional duty and fully support our war fighters.