Sunday, March 20, 2016

NGHỀ SƯỚNG NHẤT Ở VIỆT NAM - Trần Thảo Minh Hạnh

...
Nghề này mới sướng thứ nhì, thua nghề làm Đảng Viên
Hàng bao nhiêu chục năm nay, cái nghề sướng nhất ở Việt Nam là NGHỀ LÀM ĐẢNG VIÊN của ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
...  Khởi từ thuở ban đầu của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì  Hồ Chí Minh , Lê Hồng Phong , Nguyễn Thị Minh Khai .... đã không cần phải ra công, gắng sức miệt mài với sách vở chữ nghĩa của các trường học.
..... Họ không cần có văn hóa, chữ nghĩa gì cả, không cần có các bằng cấp học vấn và kiến thức văn hoá gì cả ....
Hồ chí Minh đã không có văn bằng tốt nghiệp trung học, ông ta chỉ có trình độ lớp Chín mà thôi, đi làm bồi bàn cho nhà ăn Tây, rồi làm thông ngôn cho Tây ...
Nguyễn Thị Minh Khai đã không có trình độ của lớp ba tiểu học.
...  Rồi Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh Đặng Xuân Khu ....  cũng không có kiến thức và trình độ của cấp Cử Nhân Đại Học.
... Lê Duẫn thì chỉ có trình độ của lớp Năm tiểu học.
.... Nông đức Mạnh đã không có văn bằng trung học .....
Mãi cho đến thời bây giờ: -- đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã không có các bằng cấp nào của đại học, Nguyễn Tấn Dũng thì cũng chỉ có trình độ của lớp Chín, lớp Mười trung học mà thôi .....
Còn Trương Tấn Sang, Trần Đại Quang ....v..v....   thì có văn bằng ngụy tạo, giả tạo, văn bằng giả, văn bằng DỞM  mua của các trường đại học .....
Và một số đảng viên, cán bộ khác nữa của đảng Cộng Sản Việt Nam thì có các bằng cấp Giả, bằng cấp dởm mà thôi mua của các đại học không lớp, không sách vở,  không vách,  không tường (Colleges, Universities Without Walls) ở Mỹ, ở Anh quốc, ngoại quốc để lừa xạo, lừa gạt, bịp bợm mọi người !!!!!!!! .....v..v.... và .....v..v.....
Ấy thế mà các đảng viên của đảng Cộng Sản Việt Nam độc quyền nắm trọn hết tất cả mọi quyền hành, chức tước, địa vị về việc cai trị, quản lý, chỉ huy, lãnh đạo dân chúng và đất nước Việt Nam trong mọi ngành, mọi việc, mọi sự, mọi điều về chính trị, hành chánh, quân sự,  kinh tế, kinh doanh, thương mại, tài chánh, giáo dục, y tế...
.... từ hằng nhiều chục năm nay !!!!!!!!
Họ sống trên đầu, trên cổ, trên xương máu, trên các sự đau khổ kinh khiếp, trên sự nghèo nàn đói rách, khốn quẩn và trên mạng sống của nhân dân lầm than .....
Họ không cần biết đến dân chúng, họ không cần lưu tâm, để ý đến nhân dân !!!!!!!
Họ chỉ cần biết đến các tham vọng khùng điên và ngông cuồng về công danh, địa vị, chức tước, quyền hành, tiền của, tài sản của cá nhân họ mà thôi !!!!!!!! ....
Để đạt được các tham vọng cực điên khùng và ngông cuồng đó của cá nhân họ thì họ đã dùng tất cả các mưu mô và thủ đoạn độc ác nhất, tàn khốc nhất, kinh khủng nhất, gian trá, lọc lừa, bịp bợm, xảo quyệt, qu quyệt, tham lam nhất để khủng bố, tiêu diệt,  ăn cướp, giết người, bắt bớ, giam cầm, tra tấn,  đánh đập, hành hạ và bóc lột tất cả các người dân công chíng, lương thiện và vô tội !!!!!!!
Họ là các đảng viên Cộng Sản nên họ vô tôn giáo, vô tín ngưỡng, vô chính nghiã, vô nhân, vô tình cảm,  vô đạo nghiã, vô Tổ Tiên, vô Nòi Giống,  vô ơn nghiã, vô lương tâm, vô lương tri, vô DÂN TỘC VIỆT NAM và vô TỔ QUỐC VIỆT NAM !!!!!!!!!!
Họ đã bán sơn hà, giang sơn, xã tắc, bán các đất đai, các biển, các đảo của VIỆT NAM và Nhân Dân Việt Nam cho Tàu Chệt Trung Quốc để lấy tiền của, vàng bạc của Tàu Chệt Trung quốc đem chia chác cho nhau để mà làm lợi, mưu lợi lộc riêng cho công danh, địa vị, chức tước, tiền bạc, giàu sang của cá nhân và gia đình  riêng họ mà thôi !!!!!!!!! .....
Giờ đây dân chúng Việt Nam đã nhận biết được các tội ác tày trời kinh khủng, long trời lở đất, gian ác, độc hại khủng khiếp của các đảng viên và của Chế Độ vô nhân đạo của Chủ Nghiã Xã Hội Cộng Sản Việt Nam !!!!!!!
Dân chúng không còn chịu đựng được sự gian ác, thâm độc, ăn cướp, giết người, lường gạt, lọc lừa, bịp bợm của các đảng viên và Chế Độ sắt máu Cộng Sản nên họ đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi Việt Nam đến độ con kiến, con trùn, con rận, con rệp, cái bàn, cái ghế cũng muốn có cánh mà bay thoát ra khỏi Việt Nam !!!!!!!!!!
**  Rồi  đây, bọn Tàu Chệt Trung cộng rỉ tai nhau - bọn chúng đông và nhiều hơn kiến - chúng nói với nhau rằng thịt của người Việt Nam rất thơm ngon, rất bổ dưỡng, cường dương, tráng thận, mạnh mẽ thân mình, ăn vào thì sống thọ được 200 (hai trăm) năm như chúng đã ăn canh Thai Nhi Việt Nam, hiếp dâm tập thể và cắt xẻo vú các đàn bà, phụ nữ, con gái Việt Nam năm 1979 khi chúng nhào sang tấn công biên giới Việt Nam !!!!!!!!!!!
Hiện tại, ngay giờ phút nầy đây, bọn ác qủy Tàu Chệt Trung cộng đang ăn thịt các đàn bà, phụ nữ Việt Nam bị các tổ chức bí mật của nhà nước và các đảng viên gian ác của Cộng Sản Việt Nam bắt cóc đem bán cho bọn Tàu Chệt Trung cộng giết chết mổ lấy nội tạng rồi ăn thịt các nạn nhân đó giống như chúng đang giết chết và ăn thịt mấy con chó, con mèo, con thỏ vậy !!!!!!!!!!!!!!
Bọn Tàu Chệt Trung cộng sẽ tràn sang, nhào sang đua nhau, tranh giành nhau ăn thịt người Việt Nam vì các đảng viên và các cán bộ cộng sản Việt Nam đã bán Dân Tộc và đất nước Việt Nam cho Tàu Chệt Trung cộng rồi !!!!!!!
Chỉ trong vòng một năm là sạch trắng hết người Việt trên đất nước Việt Nam !!!!!!!!!!!
Trần Thảo Minh Hạnh

The Flash War of '74: China and Vietnam's South China Sea Showdown

    The Flash War of '74: China and Vietnam's South China Sea Showdown

While Asia watchers the world over debate China’s latest moves to transform the status-quo in the South China Sea one fake island at a time, we must remember the starting point of Beijing’s quest for dominance in this vital body of water: a brief and bloody battle with Vietnam in 1974 over the Paracel Islands. History clearly shows that it was this fast-paced and intense clash which set events into motion, a battle between Asian powers that is not very clearly understood—until now.

Thanks to the great work of scholar Dr. Toshi Yoshihara, a Professor at the United States Naval War College and one of the world’s best China defense watchers, we now have a much greater understanding of this brief struggle thanks to his recently published research, what he calls “a first cut at an important but largely underappreciated episode in China’s march to the seas.” The good professor also shares important details on how this battle likely influenced current Chinese tactics, laying out in stunning detail “how Chinese strategists tailored their tactics so as to coerce, deter and defeat a rival claimant in the South China Sea.”

Indeed, Yoshihara’s recent piece for the always impressive Naval War College Review titled The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal, is a must read for those who want to know more about this brief conflict along with relevant lessons that apply today’s South China Sea showdown. As Yoshihara explains:
    “The conflict and its aftermath. . . left an outsize and lasting legacy in Asian international relations. The territorial dispute that gave rise to fighting forty years ago remains unresolved and continues to stoke Sino-Vietnamese enmity. When Beijing placed an oil rig in waters close to the Paracels in May 2014, violent protests targeting Chinese businesses broke out across Vietnam. At sea, Vietnamese maritime law enforcement vessels sought to break the security cordon formed around the rig by Chinese civilian, paramilitary, and naval vessels. Amid the standoff, bilateral relations plunged to new lows. The contest, then, is far from over; and the passions the dispute still stirs up trace back to 1974.”
But there is much more to the piece, twenty-four pages in all, than that—a comprehensive and far reaching work to say the least. He begins by reviewing the geographic setting as well as the historical context of the dispute. Yoshihara then recounts prior moves in this disputed area that brought China and South Vietnam to eventual blows. He then describes the battle in an epic style along with its aftermath—using mostly hard to come by Chinese sources which color most of his research. These sources craft an interesting narrative of the battle, taking a strong look at China’s civil-military relations, operational performance of Beijing’s navy and most important of all, the role of China’s paramilitary forces. Finally, he closes out the piece by offering thoughts about how the battle may inform China’s future strategy in the South China Sea and its implications for stakeholders in maritime Asia.

While a complete deep dive illustrating every detail that is worth reading in this excellent long-form article is a tough task in a blog such as this, I offer here five big highlights Asia hands should keep in mind from Yoshihara’s work:

1. Some of the Tactics the Chinese Used in the Battle were Very Innovative
    “The commanders received orders to ‘speed forward, fight close, and hit hard.’ The smaller, faster, and nimbler Chinese vessels purposefully sought close combat (贴身战, literally, “stick-to-body combat”) against the larger, lumbering, and slower-firing RVN units. The tactic was to draw so near that the enemy’s main deck guns would overshoot their targets. By fighting while sheltering in these blind spots, the Chinese effectively nullified the superior range and lethality of the enemy’s firepower. The PLAN commanders chose a knife fight against an adversary expecting a gunfight.”
2. After Vietnam’s defeat on the water and on the islands themselves, they briefly considered escalating the conflict, seeking American help
    “Stung by the defeat, Saigon threatened to escalate. The South Vietnamese navy reportedly sent two destroyers to reinforce Da Nang and directed six warships to head toward the Paracels. The RVN high command also alerted all ground, naval, and air forces to heighten readiness for war. President Nguyen Van Thieu, who arrived in Da Nang to oversee his forces personally, allegedly ordered the South Vietnamese air force to bomb Chinese positions on the Paracels—before rescinding the decision. At the same time, Saigon requested assistance from the U.S. Seventh Fleet, but to no avail.”
3. Paramilitary assets mattered—and could matter again in a future South China Sea clash:
    “The civil-military integration of China’s maritime power, involving the militia and the fishing trawlers, contributed directly to operational success. The militia, stationed forward on Woody Island, acted on short notice. Akin to a rapid-response force, the militia slipped onto the Crescent Group’s southeastern islands under the cover of night, preempting the Vietnamese. Indeed, the militia threw back RVN commandos attempting to seize the islands the next day. The ability to act quickly and effectively denied operational objectives to the enemy while likely buying time for regular troops to mobilize on the mainland. Finally, the militia took part in the seizure of Robert and Pattle Islands that helped to secure China’s control of the entire archipelago.”
Also of note, fishing vessels became an important weapon of war:
    “At sea, trawlers Nos. 402 and 407 acted as first responders. Months before the battle, the fishing boats maintained initial presence in the Paracels while asserting claims to the islands by planting flags on them. The trawlers then sent early warning to headquarters ashore when RVN warships first arrived in the Paracels. The leaders on board also furnished tactical intelligence to the PLAN’s local commanders at sea. The ships helped transfer the militia onto Duncan, Drummond, and Palm Islands the night before the battle and provided the means to conduct landings on Vietnamese-held islands after the RVN warships fled the area. The fishing boats were pivotal in the rescue of crippled minesweeper No. 389.”
4. A Chinese Playbook Emerges from 1974: Enter Scarborough Shoal
    “Chinese behavior during the 2012 Scarborough Shoal incident exhibits operational preferences that echo the 1974 Sino-Vietnamese clash...The more recent crisis began when a Philippine reconnaissance aircraft detected five Chinese fishing trawlers working near the shoal, located some two hundred kilometers west of Luzon Island. . . .
    “Just as armed trawlers played an outsize role throughout the Paracels campaign, civilian and paramilitary vessels took part in the Scarborough Shoal incident. Chinese fishing boats triggered both crises by engaging in activities that, at least in the eyes of rival claimants, were illicit or provocative. Militia-crewed boats in 1974 and paramilitary ships in 2012 acted as China’s first line of defense, helping to probe the intentions and capabilities of their opponents while asserting Beijing’s claims. The noncombatant vessels enjoyed the protection of the PLAN even as they served as the eyes and ears of the Chinese navy. Such mutual support enabled China to evaluate the tactical circumstances; demonstrate resolve without militarizing the confrontation during the initial stages; calibrate the level of coercive pressure needed to compel the opponent’s will; and, should deterrence fail, apply force.
    “The civilian character of the Chinese vessels constrained their rivals’ navies. The South Vietnamese and Philippine navies were apparently loath to fire directly on lightly armed or unarmed civilian vessels, lest they risk major escalation or diplomatic fallout. The two services thus found themselves maneuvering and posturing in vain to expel the Chinese ships.”
5. What Lessons Should the United States and its Allies/Partners in Asia take away?
    “Somewhat counterintuitively, a more powerful PLA [in 2016] could render unnecessary violent clashes like the Paracels battle. Instead, China may rely even more on its maritime law enforcement ships—the signature feature of China’s maritime coercion in recent years—to assert its territorial claims while the Chinese navy backstops such noncombatant units from just over the horizon. The Scarborough Shoal incident and the ongoing face-off over the Senkaku/Diaoyutai Islands amply demonstrate this civil-military integration of maritime power. Greater conventional military means will thus further empower irregular forces to impose China’s will on rival claimants. And, if all else fails, Beijing can still call on its navy to settle a dispute. That China—unlike its weaker rivals—has the option of climbing the escalation ladder only amplifies the intimidation factor. Indeed, the navy’s lurking presence may induce an opponent to back down in a crisis, as it apparently did during the Scarborough confrontation.”
While my short, quick-hits summary does not do justice to this fascinating piece of original research, one thing is quite clear: hybrid styles of warfare are nothing new, and a big part of China’s current military playbook originating decades earlier—something Washington must pay attention to in the months and years to come. And even more reason why we must always remember to study the past to gain valuable lessons about the times in which we live.

Harry Kazianis (@grecianformula) is a non-resident Senior Fellow for Defense Policy at the Center for the National Interest, a non-resident Senior Fellow at the China Policy Institute as well as a fellow for National Security affairs at the Potomac Foundation. He is the former Executive Editor of the National Interest and former Editor-In-Chief of The Diplomat. The views expressed are his own.
Image: Pixabay.
Source: nationalinterest.org



Saturday, March 19, 2016

Cái chết của tiếng Việt Sài Gòn cũ

    Cái chết của một ngôn ngữ: tiếng Việt Sài Gòn cũ
Trịnh Thanh Thủy

Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo. Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền văn hoá đệ nhất, đệ nhị cộng hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quận Đội, trường võ bị Thủ Đức, v.v... Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc biến đi như một sắp xếp của định mệnh hay một định luật của tạo hoá.

Nhắc đến tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì cuộc đấu tranh ý thức hệ mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân đôi. Sau ngày miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm năm 75, miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống, văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một số phận. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp sự chi phối của ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Nguời dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới. Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, v.v... dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.

Có những từ ngữ miền Nam và miền Bắc trước 75 đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ "quản lý" là trông nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lãnh vực thương mại trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu: "Anh xin quản lý đời em". Hoặc từ "chế độ" cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính trị như "chế độ dân chủ". Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như "chế độ xem", "chế độ bao cấp". Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản - giản đơn; bảo đảm - đảm bảo; dãi dầu - dầu dãi; vùi dập - dập vùi. v.v...

Song song với việc cưỡng chiếm, chính quyền cộng sản Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi đó là "tiếng Việt toàn dân". Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.

Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải. Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến trước đó sẽ biến mất trước tiên. Những: trực thăng, cộng quân, tác chiến, địa phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chức (hữu) trách, dứt điểm, phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái bộc pha, viễn thám, binh chủng, phi hành, gia binh, ấp chiến lược, nhân dân tự vệ, chiêu hồi, chiêu mộ, v.v… hầu như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại. Những từ ngữ thông dụng khác như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan. Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như: sổ gia đình, tờ khai gia đình, phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát, làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ, tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật, v.v...

Ở hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong tâm thức một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động tác mở để vỡ ra một con đường: Đường hoài hương. Nhiều người viết hải ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa thường tạo nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương pháp giải toả và trám đầy nỗi hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly dị với quê hương đất tổ sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ báo điện tử liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại. Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.

Thế hệ chúng tôi được người ta âu yếm gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một nửa.

Do đó, nhiều lúc tôi phân vân không biết mình nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của những từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt thông dụng trong nước? Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.

Các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản đối khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi là "chữ của Việt Cộng" và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là ở Nam Cali, báo chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ "cộng sản" nếu không khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay mà đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng đồng địa phương đó.

Trong cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông nhất như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ, hoạt động này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít. Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. "Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt" (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)

Về vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy theo một lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên, sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với tôi: "Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không dùng hoặc dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng cha mẹ của sinh viên, học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy phải đổi sách thì phiền chết."

Sự dị ứng và khước từ việc sử dụng tiếng Việt trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng Việt ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán và thế giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!!

Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài nguyên do:

Thứ nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ. Những người Việt Nam lưu vong phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng tiếng Việt trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.

Thứ hai, sự khác biệt của từ ngữ được dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một thí dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài nước dịch thành hai văn bản khác nhau:

Trong nước: Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy

Interfax dẫn một nguồn tin Hải quân Nga cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ lò hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ. Phát ngôn viên hạm đội này cho hay: "Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống cấp năng lượng phần mũi tàu.
(http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/09/3B9EDF89/)

Ngoài nước: Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga

Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có nguy cơ phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân hỏa hoạn có thể do chạm giây điện.
(http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=48362&z=75)

Một người Việt hải ngoại khi đọc văn bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ ràng vì sự khác biệt như những chữ: phòng điện hoá, được kích hoạt, chập điện, hệ thống cấp năng lượng...

Hơn thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa thông thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về điện toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó nhanh hơn là phiên dịch.

Trong việc phiên dịch, theo tôi, địa danh, đường phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người đọc dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh trên bản đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng khen nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng An sẽ dễ nhận ra hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm bản đồ này.
Tôi thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm ra: đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước Mỹ!

Ngôn ngữ chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay chuyển động để phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị lỗi thời và không còn thích ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng Việt trong nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống đối việc sử dụng tiếng Việt trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã xảy ra khiến người ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp chí, sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những văn bản trong nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc quốc nội được bày bán trong các tiệm sách. Các đài truyền thanh phỏng vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ, nhiều người nổi tiếng ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa. Giới truyền thông bây giờ sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ trích, không còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó chịu và chê trách, họ chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi, không chịu thì phải ráng mà chịu.

Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là "cái chết của một ngôn ngữ". Đau lòng lắm thay!

Trịnh Thanh Thuỷ


Saturday, March 5, 2016

Môn Lịch Sử Tự Chọn - Trần Gia Phụng

    Về Môn Lịch Sử Tự Chọn
Trần Gia Phụng

Ngày 5-8-2015, bộ Giáo Dục và Đào Tạo Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố “Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể”. Dự thảo chương trình nầy khá ôm đồm, trong đó có một môn học gây tranh cãi ồn ào từ mấy tháng nay là môn lịch sử ở bậc trung học, được bản dự thảo chương trình của bộ GD-ĐT đề nghị chuyển đổi từ một môn học bắt buộc thành môn tích hợp ở cấp trung học cơ sở (THCS) và môn tự chọn ở cấp trung học phổ thông (THPT). Cấp THCS là cấp 2, tương đương trung học đệ nhất cấp thời Việt Nam Cộng Hòa. Cấp THPT là cấp 3, tương đương trung học đệ nhị cấp thời VNCH.

Nhiều nhà giáo, nhiều nhà nghiên cứu sử, kể cả các sử gia trong nước, cho rằng làm như thế là hạ giá môn lịch sử, đứng ra tổ chức hội thảo và mời chức sắc bộ GD-ĐT đến thảo luận. Ngày 15-11-2015, tại Hà Nội, cuộc hội thảo mang tên “Môn lịch sử trong giáo dục phổ thông”, diễn ra cuộc tranh luận giữa một bên là đại diện bộ GD-ĐT, và bên thứ hai là các nhà nghiên cứu sử học, các giáo viên trung học. Cuộc hội thảo đi đến kết quả là “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay” (tục ngữ).

Quốc hội Hà Nội cũng vào cuộc. Sau nhiều cuộc thảo luận, quốc hội Hà Nội đưa ra quyết định ngày 27-11-2015, yêu cầu bộ GD-ĐT tiếp tục giữ môn lịch sử là môn học độc lập trong chương trình trung học như cũ. Tuy nhiên quyết định của quốc hội Hà Nội không phải là quyết định cuối cùng.

Cuộc tranh luận về bộ môn lịch sử hiện nay ở trong nước xoay quanh chuyện là nên sắp môn lịch sử trung học vào môn học bắt buộc hay môn học tích hợp hoặc tự chọn? Như thế, các giáo viên, các nhà nghiên cứu sử học, chỉ thảo luận cách thức giảng dạy bộ môn lịch sử ở bậc trung học như thế nào, mà không đi vào điểm căn bản cốt yếu của vấn đề là vì lý do sâu xa nào đưa đến việc bộ GD-ĐT chuyển môn lịch sử từ một môn học bắt buộc thành môn học tích hợp hoặc tự chọn? Nguồn gốc của vấn đề là ở đó.

CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC CỦA CỘNG SẢN

Hồ Chí Minh (HCM), Mặt trận Việt Minh và đảng Cộng Sản (CS) cướp chính quyền và lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9-1945. Bộ trưởng Giáo dục là Vũ Đình Hòe. Chương trình giáo dục lúc đầu vẫn theo chương trình Hoàng Xuân Hãn của chính phủ Trần Trọng Kim. Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ lần thứ ba ngày 3-11-1946, thì Nguyễn Văn Huyên làm bộ trưởng giáo dục, Nguyễn Khánh Toàn làm thứ trưởng.

Nguyễn Khánh Toàn, người Thừa Thiên, sinh năm 1905, vào học Trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội năm 1923, rời trường năm 1926, không được cấp bằng tốt nghiệp vì theo lời Toàn, nhà trường cho rằng Toàn chống chính phủ. Năm 1928 Toàn đi Pháp, rồi qua Nga, vào học ở Học viện Thợ thuyền Đông phương (Université des travailleurs d’Orient) từ năm 1928 đến năm 1931, có tên Nga là Minin, có vợ Nga. Sau đó, Toàn ở lại Liên Xô, phụ trách việc giúp đỡ những học sinh Việt Nam mới đến. (Vy Thanh, KYTB Lò đào tạo cán bộ sách động của Quốc Tế Cộng Sản, tập 1, California: 2013, tt. 477-483.) Năm 1939, Nguyễn Khánh Toàn cùng Nguyễn Ái Quốc (HCM) qua Trung Hoa, cùng đến Diên An, căn cứ của CS ở bắc Trung Hoa. Toàn ở lại Diên An, đến năm 1946 mới trở về Việt Nam. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản [nguyên bản Anh văn], Mặc Định dịch, Paris: 1962, tt.79-81.)

Tuy chỉ là thứ trưởng, nhưng Nguyễn Khánh Toàn là người du nhập và áp dụng chính sách giáo dục từ Liên Xô vào Việt Nam. Đó là chính sách “giáo dục phục vụ chính trị” do bộ trưởng Giáo dục Liên Xô là Kalenikov (?) đưa ra. (Theo lời kể của những nhà giáo lão thành, đã từng tham dự khi còn trẻ, khóa huấn luyện chương trình cải tổ giáo dục năm 1946 của Nguyễn Khánh Toàn.)

Chính sách giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ đảng là chính sách giáo dục nền tảng của đảng CSVN, được áp dụng từ năm 1946 cho đến ngày nay, không thay đổi. Điều nầy dễ hiểu vì dưới chế độ CS, không phải chỉ riêng ngành giáo dục, mà tất cả các ban ngành đều phải phục vụ đảng. Hai ví dụ nổi tiếng là “quân đội ta trung với đảng… ” (lời HCM), hoặc “công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình” (khẩu hiệu hiện nay của ngành công an CS).

Phát biểu tại lớp học tập chính trị các giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc, dạy từ lớp 6 đến lớp 12, tại Hà Nội ngày 13-9-1958, HCM nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.” (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958.) Câu nầy được nhà trường Bắc Việt Nam (BVN) xem là tư tưởng vĩ đại về giáo dục của HCM, thật ra được HCM dịch lại lời của Quản Trọng thời Xuân thu (722-479 TCN) bên Trung Hoa: “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc; thập niên chi kế mạc như thụ mộc; chung thân chi kế mạc như thụ nhân.” (Kế hoạch một năm không gì bằng trồng lúa; kế hoạch mười năm không gì bằng trồng cây; kế hoạch trọn đời không gì bằng trồng người.) (Quản Tử, chương “Quyền tu”.)

Như thế, HCM và đảng CSVN thấy rõ tầm chiến lược đường dài quan trọng của ngành giáo dục. Quân đội và công an đều phải trung thành với đảng CS, vậy dứt khoát giáo dục cũng phải trung thành với đảng CS. Giáo dục phục vụ chế độ, có nghĩa là đảng CS đặt sẵn cái cày trước con trâu. Trâu ơi! Cứ thế mà tiến bước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Giáo dục phục vụ chế độ nghĩa là giáo dục phải có tính đảng; giáo viên phải vững chắc lập trường đảng, giáo khoa phải đầy đủ tính đảng. Nền giáo dục phục vụ chế độ nhắm đào tạo những con người hồng (đảng tính) hơn chuyên (chuyên môn), đồng thời là những con người biết vâng lời đảng CS, hơn là biết suy nghĩ độc lập.

Nói trắng ra, nền giáo dục dưới chế độ CS, từ đại học xuống tới mẫu giáo, không được độc lập mà phải phục vụ đảng, nghĩa là lệ thuộc hoàn toàn vào chủ trương chính trị của đảng CS.

Xin chú ý là giáo dục phục vụ chế độ thì tất cả các bộ môn trong chương trình giáo dục, đều phục vụ chế độ, trong đó có môn lịch sử. Cộng sản Việt Nam rất chú trọng đến ngành lịch sử nói chung và môn lịch sử trong trường học nói riêng. Môn lịch sử trong trường học được CS dùng để tuyên truyền về chủ nghĩa CS, về phong trào CS Việt Nam, về các lãnh tụ CS, đặc biệt về HCM, về hoạt động và thành quả của đảng CSVN từ khi thành lập năm 1930 cho đến ngày nay, nhứt là giai đoạn từ khi giành được chính quyền năm 1945 cho đến thành công năm 1975…

Chính sách giáo dục nầy về sau được củng cố thêm bằng luật số 11/1998/QH10 của Quốc hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998, theo đó: “… Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân… lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.”

LỊCH SỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Lịch sử là những hoạt động của loài người, đã xảy ra trong quá khứ của loài người, liên hệ đến đa số loài người. Vì là những sinh hoạt đã xảy ra trong quá khứ, nên không ai có thể ngược dòng thời gian để sửa đổi quá khứ, nghĩa là không ai có thể sửa đổi được lịch sử.

Môn lịch sử, sử học, hay sử ký trình bày lại quá khứ loài người như quá khứ đã xảy ra, hay cố gắng trình bày quá khứ càng trung thực càng tốt. Muốn trình bày quá khứ trung thực, đúng sự thật đã xảy ra, thì yếu tố tối cần thiết đầu tiên cho người viết sử là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng mới có thể viết được sự thật lịch sử.

Chỉ mới ngang đây, bắt đầu xuất hiện hai mâu thuẫn lớn giữa chính sách giáo dục CS với môn lịch sử:
    1. Một bên là giáo dục (trong đó có môn lịch sử) phục vụ đảng, phục vụ chế độ CS, còn một bên là trình bày quá khứ trung thực như quá khứ đã xảy ra, trung lập, không sửa đổi, không phục vụ ai cả.

    2. Chế độ CS là chế độ độc tài, toàn trị, chuyên chế, không có tự do, trong khi muốn trình bày trung thực quá khứ thì phải có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng.

Dưới chế độ CS độc tài toàn trị bưng bít, để giải quyết hai mâu thuẫn nầy, CS chỉ cần một động tác rất dễ dàng và đơn giản là CS không cần sự thật quá khứ, mà để phục vụ đảng, thì CS tùy tiện viết lại lịch sử, sửa đổi lịch sử theo nhu cầu của đảng CS. Nói cách khác, lịch sử của CS không phải là sự thật quá khứ, mà là thứ lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là lịch sử biên tập lại theo quyết định của đảng CS, nhằm tuyên truyền và làm lợi cho CS.

Có khi vì nhu cầu tuyên truyền, CS bịa đặt ra những câu chuyện dối trá rồi đưa vào lịch sử, như chuyện “Lê Văn Tám”. Người sáng tác chuyện Lê Văn Tám là sử gia hàng đầu của CS là Trần Huy Liệu. Trước khi chết năm 1969, Trần Huy Liệu hối hận, nhờ sử gia Phan Huy Lê cải chính khi nào có cơ hội. Phan Huy Lê đã cải chính điều nầy tại Hà Nội vào tháng 2-2005, xác nhận chuyện Lê Văn Tám không có thật. (Người Việt Online, 20-3-2005.) Tuy đã được cải chính, sách giáo khoa sử CS đến nay vẫn còn ca ngợi “anh hùng” Lê Văn Tám…

Loại lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể phổ biến trong không gian bưng bít dưới chế độ độc tài. Tại Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1975, ngoài sách vở, báo chí, tài liệu của CS, không có bất cứ nguồn sách vở, tài liệu, báo chí nào khác, để so sánh, đối chiếu, nên CS ưa viết gì thì viết, vẽ vời rồng rắn tự do trong các sách giáo khoa sử CS.

Hơn nữa, “giáo khoa là pháp lệnh”. Thầy cô giáo không được giảng dạy ra ngoài giáo khoa. Học sinh nhắm mắt học theo giáo khoa, không được bàn cãi. Nếu có người, nhất là những người lớn tuổi, phát hiện giáo khoa sử CS không đúng sự thật, cũng đành phải im tiếng, vì lên tiếng phê bình sách giáo khoa là bị ghép tội chống đảng, phản động, và sẽ bị tù tội… (Kinh nghiệm vụ Nhân Văn-Giai Phẩm làm cho mọi người khiếp sợ.)

Việc soạn thảo và in sách giáo khoa được kiểm soát chặt chẽ. Những người soạn sách phải là đảng viên có lập trường CS vững vàng và sách giáo khoa phải được duyệt xét thật kỹ càng trước khi in. Ngoài ra, để kiểm soát đời sống văn hóa quần chúng, CS độc quyền phân phối giấy in, quốc doanh các nhà in, các phương tiện truyền thông, đài phát thanh, báo chí, sách vở, văn học, nghệ thuật, điện ảnh, giải trí, và hoàn toàn không có một tạp chí tư nhân.

ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI CUỘC

Sau biến cố năm 1975, chiếm được Nam Việt Nam (NVN), CS tiếp tục bế quan tỏa cảng, thống trị đất nước một cách chặt chẽ. Nhà cầm quyền CS tịch thu, tiêu hủy toàn bộ sách vở, báo chí NVN mà CS kết tội là “văn hóa đồi trụy”. Ngoài việc bắt quân nhân công chức chế độ Cộng hòa đi tù dài hạn không tuyên án, CS còn bắt bớ, tù đày những nhà văn hóa, những văn nghệ sĩ NVN không theo CS, đóng cửa những nhà xuất bản, đưa vào quốc doanh những nhà sách, những nhà in. Chủ đích của CS là xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa NVN, giống như vào thế kỷ 15, nhà Minh xóa bỏ văn hóa Đại Việt.

Dầu CS dốc hết sức tiêu diệt văn hóa NVN, nhưng CS vẫn bất lực trong việc triệt tiêu di sản văn hóa NVN. Di sản văn hóa NVN gồm hai phần:
    1. Di sản văn hóa dân tộc cổ truyền được bảo tồn và lưu truyền ở NVN sau năm 1954, mà ở BVN bị CS tiêu diệt. 2. Nền văn hóa mới từ Âu Mỹ du nhập và phát triển trong 21 năm tự do dân chủ ở NVN. Chính di sản văn hóa NVN lan truyền trên toàn quốc làm thay đổi xã hội sau năm 1975.
Ngoài ra, còn có thêm các yếu tố thời cuộc mới, cũng giúp cho dân chúng Việt Nam, dầu bị CS kềm kẹp, vẫn tự học hỏi và thay đổi nếp sống, nâng cao nhận thức chính trị, văn hóa.

Đó là sau biến cố năm 1975, phong trào di tản rồi vượt biên ra nước ngoài lánh nạn CS càng ngày càng rầm rộ. Người Việt ra nước ngoài tập hợp thành cộng đồng người Việt hải ngoại hết sức năng động khắp nơi trên thế giới. Sau một thời gian ổn định cuộc sống ở nước ngoài, người Việt hải ngoại chẳng những gởi tiền, gởi hàng hóa, thuốc men về cứu trợ gia đình, bà con, mà còn chuyển nhiều thông tin, kiến thức, sách báo, tài liệu văn hóa, chính trị, lịch sử về nước.

Cũng sau năm 1975, CS áp dụng chính sách kinh tế chỉ huy, làm cho đất nước càng ngày càng nghèo đói, kiệt quệ. Để tự cứu mình, từ năm 1985, CS bắt đầu thay đổi. Lúc đầu, sự thay đổi khá chậm chạp, nhưng rồi nhanh dần.

Vì muốn hội nhập vào dòng sống quốc tế hiện đại, CS đành phải dần dần mở cửa rộng hơn. Công nghệ truyền thông thế giới tràn vào Việt Nam; mạng lưới thông tin quốc tế (Intermet) bao trùm trời đất. Dù CS cố gắng bưng bít, dựng lên những bức tường lửa, luồng gió văn hóa tự do dân chủ từ nước ngoài càng ngày càng xâm nhập Việt Nam.

Do ảnh hưởng của các yếu tố trên đây, dân chúng trong nước dần dần tự mở rộng hiểu biết, tiếp thu thêm nhiều điều mới lạ, càng ngày càng khám phá thêm nhiều sự thật lịch sử, càng phát hiện thêm những dối trá, lừa bịp trong tài liệu, giáo khoa sử của CS.

LỊCH SỬ THEO ĐINH HƯỚNG XHCN BỊ PHÁ SẢN

Trong khi trình độ hiểu biết của dân chúng và của sinh viên, học sinh được âm thầm nâng cao, nhà cầm quyền CS vẫn giữ lối tuyên truyền cũ, vẫn tiếp tục giảng dạy môn lịch sử theo kiểu phục vụ đảng CS, và theo sách giáo khoa (pháp lệnh) do CS soạn thảo.

Theo chương trình, cấp THCS thi tốt nghiệp cuối năm lớp 9, và cấp THPT thi tốt nghiệp cuối năm lớp 12. Hai lớp nầy cách nhau ba năm, nhưng học cùng giai đoạn lịch sử từ năm 1930 là năm đảng CS được thành lập cho đến năm 2000. Tuy cùng giai đoạn, chương trình lớp 12 mở rộng nhiều hơn so với lớp 9.

Vì là chương trình thi tốt nghiệp lấy bằng cấp, nên giáo viên phải dạy kỹ và học sinh phải học kỹ giai đoạn nầy. Trải qua hai kỳ thi (lớp 9 và lớp 12) nên giai đoạn nầy được dạy kỹ và học kỹ hai lần. Đảng CS được thành lập năm 1930 nên CS rất chú trọng đến giai đoạn nầy.

Trong giai đoạn nầy, ngoài chiến tranh 30 năm từ 1946 đến 1975, CS còn có hai cuộc chiến quan trọng mà CS gọi là chiến tranh “Bảo vệ biên giới Tây Nam” tức chiến tranh Cambodia năm 1978; và chiến tranh “Bảo vệ biên giới phía Bắc” tức chiến tranh chống Trung Cộng xâm lược năm 1979. Cả hai cuộc chiến nầy gây hậu quả trầm trọng cho người Việt. (Đã có nhiều sách báo viết đến.)

Điều đáng nói là sách Lịch sử lớp 12 viết về giai đoạn nầy, do bộ GD-ĐT soạn và in lần thứ sáu năm 2014, tt. 206-207, trình bày cả hai cuộc chiến quan trọng trên chỉ trong 23 dòng chữ, kể cả tiểu đề, chiềm khoảng 2/3 trang sách. (Cũng trong sách nầy, trận Điện Biên Phủ năm 1954 chiếm 6 trang; trận Sài Gòn năm 1975 chiếm 5 trang.)

Còn chuyện Trung Cộng xâm lăng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì sách không viết đến. Điều nầy có nghĩa là CSVN tránh nói đến vì đã nhượng hai quần đảo nầy cho TC.

Đó là giai đoạn lịch sử 1930-2000. Còn lịch sử Việt Nam trước đó, tức từ khi lập quốc đến năm 1930, thì được CS sắp vào chương trình các lớp không thi, tức các lớp 6, 7, 8 (PTCS) và 10, 11 (PTTH). Giai đoạn nầy lâu dài hơn, lại là thời kỳ tổ tiên chúng ta chống Trung Hoa để giành độc lập và bảo vệ độc độc lập. Cộng sản lơ là giai đoạn nầy, chẳng những vì đảng CS chưa thành lập, mà còn vì những chiến công vang dội của tổ tiên chúng ta làm kinh động Trung Hoa, và nhất là nuôi dưỡng và hun đúc tinh thần chống ngoại xâm Bắc phương của người Việt Nam.

Các em học sinh càng ngày càng nhận chân rõ những dụng ý trong nội dung môn sử phục vụ chế độ nên đâm ra chán học môn sử, chứ không phải vì các em không thích học môn sử. Sử gì mà khi nào CS cũng thắng, địch cũng thua; chỉ biết ca tụng Liên Xô, TC một cách lạ lùng.

“Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ,

Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào.

Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ,

Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời và ngờ nghệch làm sao…”

(Việt Phương, “Cuộc đời như vợ của ta ơi”, tập thơ Cửa mở.)

[Việt Phương từng là thư ký riêng của Phạm Văn Đồng.]

Khi chưa cải tổ, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông gồm bốn môn thi bắt buộc là ngữ văn, toán, ngoại ngữ, và một môn tự chọn trong số các môn còn lại: vật lý, hóa học, sinh học, lịch sử, địa lý. Có nhiều nơi, nhất là ở thành phố, rất ít học sinh chọn thi môn sử. Ví dụ trong năm 2015 ở Sài Gòn, trường Bùi Thị Xuân (quận 1), trong 630 học sinh dự thi THPT chỉ có 9 em chọn thi môn sử; trường Lê Thị Hồng Gấm (quận 3), có 400 học sinh dự thi THPT, thì chỉ có 10 em chọn thi môn sử. Trường Long Trường (quận 9), trong 540 học sinh chỉ có 20 em chọn thi môn sử. (Báo VNEpress, trong nước ngày 8-5-2015.)

Từ đó, nhà trường CS gặp nhiều khó khăn trong việc dạy môn lịch sử. Khó khăn đầu tiên là nền tảng chính sách giáo dục CSVN hiện nay trong nước vốn được minh định bằng luật số 11/1998/QH10 của Quốc hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998: “… Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân… lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.”

Thực tế ngày nay ai cũng biết chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời và bị đào thải từ sau biến cố Đông Âu năm 1990-1991. Ngày 25-1-2006, quốc hội Âu Châu họp tại Strasbourg (Pháp) lên án chủ nghĩa CS là tội ác chống nhân loại. Còn “tư tưởng Hồ Chí Minh”, thì chính HCM xác nhận “Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin.” (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152. Nguyễn Văn Trấn là một cán bộ CS cao cấp ở miền Nam.)

Sinh viên, học sinh không còn tin chủ nghĩa Mác-Lênin và biết rõ HCM không có tư tưởng, nhưng nhà cầm quyền CS lại không chịu thừa nhận thực tế nầy, mà vẫn “kiên định lập trường”, bắt học sinh phải học. Làm sao học sinh không chán ngấy?

Càng ngày càng nhiều sự thật lịch sử được đưa ra ánh sáng, như chuyện về HCM, về Nhân Văn-Giai Phẩm, về Cải cách ruộng đất, về cuộc tấn công NVN… Vì vậy học sinh lại càng nghi ngờ tính cách trung thực, khách quan của giáo khoa sử CS.

Giáo khoa sử CS luôn luôn bôi đen, mạ lỵ địch thủ chính trị của BVN, là NVN hay Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Sách sử CS cho rằng VNCH là “ngụy quân, ngụy quyền”, nhưng ngày nay, thực tế cho thấy VNCH đã tận tình chiến đấu để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ. Gần đây, một người Hà Nội đã viết như sau: “Người ta gọi các anh là “quân ngụy”,/ Bởi các anh là lính Việt Nam Cộng Hòa./ Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ,/ Bởi các anh ngã xuống vì Hoàng Sa.” (Phan Duy Kha, 14-1-2014, http://phanduykha.wordpress.com.)

Thêm một chuyện nữa. Trong chiến tranh 1946-1975, Trung Cộng (TC) viện trợ mạnh mẽ cho CSVN. Sau năm 1975, CSVN chạy theo Liên Xô, nhưng Liên Xô sụp đổ năm 1991. Cộng sản quay qua đầu phục TC. Trung Cộng giúp CSVN duy trì quyền lực, nhưng ép CSVN ký hiệp ước nhượng ải Nam Quan, nhượng biển, nhượng đảo cho TC. Trung Cộng trở thành quan thầy của CSVN.

Trong khi đó, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm phương bắc, tức chống Trung Hoa xâm lăng. Lịch sử Việt Nam đã hun đúc tinh thần chống ngoại xâm mạnh mẽ nơi nhân dân Việt Nam, đến nỗi ngày 29-12-2014, bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh phải than lên rằng: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc.” (Phát biểu của bộ trưởng Phùng Quang Thanh ngày 29-12-2014. Tin báo chí trong và ngoài nước ngày 30-12-2014.)

Chỉ cần vài ví dụ thật đơn giản trên đây, cũng đủ thấy chẳng những ngành giáo dục mà cả chế độ CS rất lúng túng, khó khăn khi lịch sử đích thực của tổ tiên Việt Nam được phổ biến rộng rãi.

RƯỢU CŨ BÌNH MỚI

Để giải quyết những khó khăn trên đây, bộ GD-ĐT/CS cải tổ chương trình trung học, đưa ra “Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể”, theo đó bộ GD-ĐT đề nghị chuyển đổi môn lịch sử từ một môn học bắt buộc thành môn tích hợp và môn tự chọn.

Về lịch sử tích hợp, ở cấp THCS (cấp 2, tương đương trung học đệ nhất cấp), môn lịch sử được tích hợp với các môn khác, nghĩa là không phải là học môn sử riêng biệt như chương trình cũ, mà là một hình thức mới, kết hợp và lồng ghép lịch sử với một số môn liên hệ vào nội dung chủ đề các bài học.

Về lịch sử tự chọn, ở cấp THPT (cấp 3, tức trung học đệ nhị cấp), ngoài các môn học bắt buộc là toán, ngữ văn [Việt văn], ngoại ngữ, công dân với tổ quốc, học sinh được tự chọn một môn trong số các môn học còn lại là lịch sử, địa lý, hóa học, sinh học, vật lý…

Trong cả hai trường hợp, dự thảo chương trình mới chỉ thay đổi cách dạy môn lịch sử ở trường học, và tránh không đả động gì đến đến điều quan trọng cốt yếu là chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, nghĩa là môn lịch sử vẫn phải lệ thuộc vào đường lối chính sách của đảng CS, truyên truyền cho đảng CS.

Làm như thế, học sinh được âm thầm tách xa khỏi môn sử, vì ở cấp THCS, môn sử được kết hợp với các môn khác; còn ở cấp THPT, học sinh gần đến tuổi trưởng thành, bắt đầu chú ý đến thời sự, hiểu biết rộng rãi hơn, không thích môn lịch sử phục vụ chế độ, thì có con đường khác để học, không vướng bận chuyện học sử.

Đây là một diệu kế kín đáo của bộ GD-ĐT trong việc cải tổ chương trình trung học lần nầy, vừa duy trì môn lịch sử phục vụ chính trị theo chủ trương của đảng CSVN; vừa làm phai lạt môn sử, lại mở một lối đi khác cho những học sinh không thích học môn lịch sử phục vụ chính trị. Các em không thích môn sử nầy, thì các em có sẵn con đường tránh đi chỗ khác, cho được việc đảng, khỏi thắc mắc.

Lúc đó, bộ GD-ĐT và nhà trường CS sẽ có lý do chính đáng để đổ lỗi cho học sinh: Học sinh không học môn lịch sử là do học sinh tự quyết định, là vì học sinh thích học các môn khác hơn, là vì học sinh có năng khiếu các môn khác hơn, hoặc là vì các môn khác dễ học hơn môn sử …, chứ không phải vì lỗi về cách giảng dạy của nhà trường, hay lỗi của chương trình môn lịch sử do bộ GD-ĐT đưa ra, hay lỗi tại bản chất môn lịch sử phục vụ chính trị làm cho học sinh chán ghét. Thâm thúy đến thế là cùng.

KẾT LUẬN

Chủ trương chính sách giáo dục của chế độ CS là giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ đảng CS. Nhiệm vụ của nền giáo dục CS đã được khẳng định rõ ràng chắc nịch như thế, không tranh cãi và không bao giờ thay đổi. Từ năm 1945, CS nhiều lần thay đổi chương trình giáo dục, nhưng chỉ thay đổi cách thức tổ chức các lớp trung tiểu học (hệ 10 năm, hệ 12 năm), chứ không thay đổi nội dung giảng dạy, không thay đổi chính sách giáo dục, và luôn luôn duy trì môn lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các sách sử CS hay giáo khoa sử CS, dù ai viết, luôn luôn cùng một luận điệu, một kết luận như nhau, chỉ thay đổi từ ngữ và hành văn mà thôi.

Nói cho cùng, dưới chế độ CS lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là bản tường thuật hay bản báo cáo hoạt động và thành tích của đảng CS. Cũng có thể nói, lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa là loại bánh mà Chế Lan Viên đã viết: “Chưa cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ”. (Bánh vẽ – trích Di cảo của Chế Lan Viên). Học sinh chán ăn bánh vẽ, chán đọc báo cáo, chứ học sinh không chán môn lịch sử.

Chủ trương giáo dục phục vụ chính trị tự bản thân đã làm giảm nhẹ giá trị của bộ môn lịch sử, làm cho lịch sử không còn trung thực, thiếu khách quan. Chắc chắn thầy cô giáo, những nhà nghiên cứu sử trong nước dư biết điều nầy, nhưng vì yêu sử, yêu nghề, lại ở vào cảnh “cá chậu chim lồng”, không thể lên tiếng nói thẳng, đành phải gắng sức vớt vát được phần nào hay phần ấy. Thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu sử quan tâm, hội thảo như thế nào cũng vô ích. Có nói cũng dư thừa. Đàn gãy tai trâu mà thôi.

Những mâu thuẫn giữa chính sách giáo dục của CS và tính chất môn lịch sử không bao giờ có thể giải quyết được nếu chế độ CS còn tồn tại trên đất nước Việt Nam. Chỉ khi nào đảng CSVN và chế độ CSVN bị giải thể, thì lịch sử Việt Nam mới được giải thoát, khỏi bị kềm kẹp, khỏi bị sửa dổi, bóp méo, và khi đó lịch sử mới tái hiện đầy đủ như quá khứ oai hùng của dân tộc đã diễn ra.

Khi đó, môn lịch sử trong trường học mới tự do, trong sáng, trung thực và trở lại vị trí xứng đáng mà mọi người trông đợi. (Trích Lịch sử sẽ phán xét, xuất bản tháng 6-2016.)

Trần Gia Phụng



Saturday, February 20, 2016

VIỆT CỘNG CÒN, NƯỚC SẼ MẤT - Lê Duy San

    VIỆT CỘNG CÒN, NƯỚC SẼ MẤT.

Lê Duy San


Sau năm 1975, mặc dầu thù ghét bọn Việt Cộng đến tận xương tủy, nhưng cũng có một số người, nhất là dân miền Nam, thầm phục bọn Việt Cộng đã làm được một việc mà trước kia chính phủ miền Nam Việt Nam (VNCH) đã không làm được đó là đuổi được đám Tầu Chợ Lớn ra khỏi Việt Nam. Nhưng kể từ khi chúng (Việt Cộng) bị Trung Cộng “dậy cho một bài học” vào tháng 2 năm 1979 và cưỡng chiếm quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 khiến Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư của đảng Cộng Sản Việt Nam phải lậy lục Trung Cộng xin hòa hay nói cho đúng hơn là xin hàng Trung Cộng vào năm 1990.

Việc này làm người ta nghĩ rằng việc làm của chúng trước kia chẳng có gì là đáng phục, mà trái lại còn di hại cho đất nước nhiều hơn: đó là việc chúng phải dâng Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và cả chục ngàn cây số vuông ở miến Bắc Việt Nam, hàng trăm ngàn cây sô vuông lãnh hải trong đó cò 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng.

Không những thế, nếu trước kia, chúng đuổi đi được vài trăm ngàn Tầu quốc gia, thì nay, chúng lại mở cửa cho Tầu Trung cộng sản tự do vào Việt Nam cả triệu tên, khiến cho có thể đưa Việt Nam tới nguy cơ mất nước. Vì thế, nhiều người ưu tư tới đất nước đã tự hỏi: Nước Việt Nam còn hay đã mất ? Nếu còn thì liệu có giữ được không?

Có người nói rằng nước đã mất rồi, và đã mất từ lâu. Ông giáo sư Trần đình Ngọc còn nói rõ ràng rằng Hồ Chí Minh đã bán nước từ ngày 3/2/1930 (1). Thực ra thì nước Pháp đã chiếm Việt Nam làm thuộc địa từ lâu, từ năm 1884, nước Việt Nam đâu còn nữa mà để cho Hồ Chí Minh bán? Vả lại Hồ Chí Minh lúc bấy giời còn đang lang thang, cầu bơ, cầu bất, du thủ, du thực, đâu đã có danh phận gì ngoài chức Chủ Tịch đảng Cướp Cộng Sản Đông Dương với vài trăm đảng viên, mà đòi bán nước cái nỗi gì.

Hơn nữa, tuy ngày nay Việt Nam đã mất thác Bản Giốc, Ải Nam Quan và cả chục ngàn cây số vuông ở biên giới Việt Hoa và cả trăm ngàn cây số vuông hải phận ở biển Đông, nhưng đứng trên phương diện luật pháp và quốc tế thì Việt Nam vẫn còn. Bởi vì tên Việt Nam vẫn còn trên bản đồ thế giới. Nước Việt Nam vẫn được các quốc gia trên thế giới công nhận và Việt Nam vẫn là một thành viên của Liên Hiệp Quốc.

Nhưng liệu Việt Nam sẽ còn tồn tại đến bao giờ? Điều này thật khó nói trước, có điều chắc chắn rằng Việt Cộng còn, Việt Nam sẽ mất, hay nói cho rõ hơn là: Chế độ Cộng Sản Việt Nam còn tồn tại thì nước Việt Nam sẽ mất về tay Trung Cộng vì những lý do sau:

1. Chính quyền Việt Nam thì hèn với giặc, ác với dân và coi dân như kẻ thù.

Thực vậy, Việt Nam từ xưa tới nay, chưa có một chính quyền nào lại hèn nhát và khiếp nhược như ngụy quyền cộng sản Việt Nam hiện nay.

Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam coi Trung Cộng như Mẫu Quốc. Đi đâu, ngụy quyền Việt Nam cũng phải xin phép quan thày Trung Cộng. Làm gì, ngụy quyền Việt Nam cũng phải báo cáo quan thày Trung Công. Dân Trung Cộng tự do ra vào Việt Nam như đi chợ, không cần chiếu khán. Chúng tự do hành nghề, không cần giấy phép và chọn gái Việt Nam làm vợ như đi chợ mua mấy con chó, con mèo! Dân Trung Cộng tự do lập những khu người Hoa ở khắp mọi nơi. Tại những nơi này, họ tự trị và người Việt bất khả xâm phạm giống như mấy tòa Đại Sứ, Lãnh Sự của ngọai quốc, ngay cả công an Việt Cộng cũng không có quyền xâm phạm những khu vực này.

Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam để mặc cho Trung Cộng ngang nhiên lấn chiếm đất đai, lộng hành trong hải phận mà không dám đương đầu hay phản đối, dù chỉ bằng đường lối ngọai giao. Ngư dân Việt Nam đánh cá trong vùng hải phận Việt Nam cũng bị Trung Cộng ngang nhiên bắt giữ cả người lẫn ghe thuyền, cá thì tịch thu, người thì bắt nộp phạt mới chịu tha.

Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam không dám để cho sinh viên, học sinh biểu tình đả đảo Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và bắt giam những người biểu tình. Bia tưởng niệm những bộ đội Việt Cộng hy sinh trong cuộc chiến với Trung Cộng vào năm 1979 cũng phải đục bỏ. Các sách giáo khoa từ tiểu học đến đại học, không một dòng chữ nào nói tới Hoàngg Sa và Trường Sa. Bộ luật nào của Việt Nam cũng phải in cả 2 thứ tiếng Trung Cộng và Việt Nam.

Trái lại đối với dân thì chúng thật độc ác, dã man và tàn bạo vô chừng. Quan chức chính quyền thì thi đua tham nhũng, ăn hối lộ. Tên nào cũng thi đua vơ vét của dân để có tiền ăn chơi hoặc cho con em chốn tránh ra ngọai quốc dưới hình thức du học, nhất là Hoa Kỳ, để tẩu tán tiền bạc.

Công an thì coi dân như kẻ thù, hơi một chút là đánh đập, bắt giam, bỏ tù. Đi xe máy mà không đội mũ an toàn cũng có thể bị đánh chết như trường hợp anh Nguyễn Văn Khương ở Bắc Giang bị thiếu úy công an Nguyễn Thế Nghiệp đánh bể đầu chết vì không đội mũ bảo hiểm vào ngày 23 tháng 7, 2010. Ông Trịnh Xuân Tùng ở Hà Nội cũng vậy, bị trung tá công an Nguyễn Văn Ninh đánh gẫy cổ chết vào tháng 2/2011 vì lỗi tương tự và nhiều trường hợp tương tự khác. Là con của một tù nhân lương tâm hay người bất đồng chính kiến cũng có thể bị công an cho côn đồ chém trọng thương như trường hợp của anh Phan Nguyễn Trọng Tú con của nhà bất đồng chính kiến Phan Ngọc Tuấn ở Phan Rang vào ngày 18/9/2012. Chính vì vậy mà có người gọi chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một Chế Độ Côn Đồ.

Một nhà văn trong nước, ông Huỳnh Ngọc Tuấn, trong bài “Không Giống Ai”, đã viết: “Lực lượng “công an nhân dân” thì coi dân như cỏ rác, buồn buồn thì đánh chết một vài người dân cho vui, mục đích là để thị uy. Nếu dư luận trong nước và quốc tế có phản ứng mạnh quá thì cũng xử cho lấy lệ để bịt miệng công luận rồi đâu lại vào đó. Hãy nhìn những cái chết thê thảm của một số nạn nhân trong mấy năm gần đây thì rõ”.


2. Thần yêu nước của người dân VN không còn, tự ái dân tộc cũng mất.


Dân số Thủ Đô Hà Nội bây giờ ít ra cũng phải trên 5 triệu người và dân số thành phố Saigon ít ra cũng phải gần 8 triệu. Vậy mà số người tham dự của mỗi cuộc biểu tình để biểu lộ lòng yêu nước và chống Trung Cộng xâm lược, kể cả một số công an chìm, nổi và những người qua đường vì hiếu kỳ đứng coi, cũng chưa tới 500 người. Nếu không kể những người già cả và trẻ em, tính theo tỷ lệ thì con số người thực sự đi biểu tình cũng không tới 1/10,000. Vậy thì còn 9999 phần 10,000 kia đâu ?

Đành rằng ngụy quyền cộng sản Việt Nam là một chính quyền hèn với giặc, ác với dân, nên người dân rất sợ. Nhưng tại sao chinh quyền bảo hộ của thực dân Pháp trước kia, cũng ác ôn, cũng tàn bạo, nhưng vẫn có những ông vua như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái ra mặt chống đối, vẫn có nhũng cuộc nổi dậy chống Pháp như Nguyễn Trung Trực, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Nguyễn Thái Học v.v.


Một người dân trong nước đã tự hỏi: “Chính quyền hiện hành có còn là chính quyền của dân tộc Việt Nam hay không ? Tự hỏi để rồi ngầm trả lời: Không, không, không.Chính quyền này không phải là của dân tộc Việt Nam, mà là chính quyền của đảng cộng sản Việt Nam! Tôi và bao bậc cha mẹ khác lẽ nào đưa con mình đi cầm súng để bảo vệ đảng nô lệ như thế này ? Tôi đã rớt nước mắt. Tệ hại quá, tôi phải “nướng” con tôi cho lũ cầm quyền phản dân tộc này? Tôi sẽ phải làm thế nào ?

Thực ra thì chính Cộng Sản Việt Nam không phải là chính quyền của người dân từ lâu, ngay từ khi mà ông Hồ Chí Minh cướp được chính quyền từ tay chính phủ Trần Trong Kim. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh từ 1945 tới 1975, lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam vẫn còn và vẫn hăng say và nồng nhiệt. Chính vì thế mà chúng vẫn bịp bợm và lợi dụng được để chiến thắng miền Nam với sự ủng hộ triệt để của Liên Sô và Trung Cộng . Ngày nay, chúng không còn cần lòng yêu nước của người dân Việt Nam nữa. Chúng chỉ cần làm sao giữ được Đảng để hưởng thụ. Không những thế, chúng còn muốn tiêu diệt hẳn lòng yêu nước của người dân bằng chính sách hủ hóa (ăn chơi xả láng) để chúng dễ bề cai trị. Người dân đã được dậy ngay từ khi biết mới nói, từ lúc mới cắp sách đi học là: “Yêu nước là yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội”. Vì thế chúng ta không lấy làm lạ tại sao những cuộc biểu tình quan trọng như vậy lại chỉ có vài trăm người trong khi những chốn ăn chơi trụy lạc nhỏ bé cũng có cả ngàn người tham dự.

Không những lòng yêu nước bị đui chột mà còn bị chính quyền cấm đoán. Cũng trong bài “Không Giống Ai”, nhà văn Hùyng Ngọc Tuấn viết: “Lòng yêu nước có thể nói là di sản quý báu của người Việt Nam mà tổ tiên của chúng ta trao truyền từ đời này sang đời khác, chưa có một triều đại một chính quyền nào “kiểm duyệt” lòng yêu nước chứ đừng nói đến chuyện thủ tiêu, ngăn cấm hay độc quyền. Vậy mà ngày hôm nay trước hành động hiếu chiến và ngang ngược của bọn bành trướng Bắc Kinh, người dân Hà Nội, Sài Gòn đã tự nguyện xuống đường để cho thế giới biết là nhân dân Việt Nam không hèn yếu không vô trách nhiệm với quốc gia, vậy mà đã bị chính nhà cầm quyền “của dân, do dân, vì dân” đàn áp, bắt bớ, vu khống và chụp mũ . Điều này chắc làm cả thế giới kinh ngạc và khó hiểu là Việt Nam đang được điều hành bởi một chính quyền đại diện cho ai ?”


Không những lòng yêu nước của người dân Việt Nam bây giờ không còn mà ngay cả lòng tự ái dân tộc cũng mất. Trước kia (1975) gia đình Việt Nam nào, có con gái lấy chồng ngọai quốc đều lấy làm xấu hổ (mắc cở) với họ hàng, làng xóm. Nay thì trái lại, gia đình Việt Nam nào có con gái lấy được chồng ngọai quốc, không những không xấu hổ mà còn lấy làm hãnh diện, không những hãnh diện với họ hàng mà cả với làng xóm. Họ hàng, làng xóm cũng không coi đó là đều xấu mà còn coi đó như một tấm gương sáng để cho con cháu noi gương mà bắt chước. Đành rằng ngày nay thế giới mở rộng, việc lấy người ngoại quốc là chuyện bình thường, nhưng coi đó là một tấm gương sáng để con cháu noi theo thì thật là hết chỗ nói.

Sau mấy chục năm sống dưới chế độ Cộng Sản, người dân Việt Nam bây giờ chỉ biết Tiền, Tiền và Tiền. Vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em có thể giết nhau vì Tiền. Bạn bè có thể giết nhau vì Tiền. Thày trò có thể giết nhau vì tiền. Chủ tớ có thể giết nhau vì Tiền. Học sinh, sinh viên cũng có thể vì tiền mà đi bán dâm hay làm đĩ đực. Hoa hậu hay người mẫu cũng có thể bán dâm vì tiền như trường hợp hoa khôi Thiên Kim từng môi giới cho Hoa Hậu Mỹ Xuân đi bán dâm với một “đại gia” tại khách sạn ở thành phố Vũng Tàu với giá 2,500 USD. Thiên Kim lấy 1,000 USD, còn Mỹ Xuân hưởng 1,500 USD. Vợ cũng có thể vì tiền mà ngoại tình hay bán dâm.

Thùy Linh, một người dân ở Hà Nội viết: “Mình bỗng thương Mỹ Xuân, Hồng Hà, Thiên Kim và các cô gái bị chà đạp thêm nhiều lần sau các chuyên án điều tra, bóc dỡ đường dây mại dâm này. Chính xã hội là nguyên nhân gây nên cơn “thèm tiền” đến điên loạn. Nếu xếp thang bậc cho cơn thèm khát tiền thì quan chức đứng số 1. Họ bất chấp tất cả để lao vào kiếm tiền, các nhiệm kỳ chưa đủ còn bố trí cả vợ, con cùng tham gia. Hầu như không có quan chức nghèo, chỉ chưa là tất cả các quan chức đều có thể gọi là tỷ phú đôla mà thôi.”…

“Càng xa hoa càng trở thành tấm gương để tạo nên một lối sống cho lớp trẻ “noi theo”.

Đắm chìm trong cuộc sống tất cả điên đảo vì tiền mà bảo tuổi trẻ nên có thái độ điềm tĩnh với tiền, vật chất thì khác gì rao giảng đạo đức suông ? Rất ít người thoát khỏi tấm lưới bủa vây của tiền bạc.

Và để có được cuộc sống cho bằng người ta, tất nhiên cần tiền. Không thể kiếm tiền bằng các dự án, chính sách như quan chức, đại gia thì đương nhiên phải bán những gì mình có.”

Người nghèo thì sẵn sàng làm bất cứ nghề gì, miễn sao kiếm được tiền để sống, kể cả nghề buôn lậu, ma cô, đĩ điếm đã đành, mà ngay kẻ đã có tiền cũng có thể làm những nghề này để chóng giầu hoặc giầu hơn để hưởng thụ được nhiều hơn, đưa tới gần như cả nước sa đọa. Nhà tan không cần biết, nước mất không cần hay. Đó là thái độ của người dân Việt Nam bây giờ.

3. Dân tộc chia rẽ trầm trọng.

Dân Việt Nam không phải là một dân tộc thuần chủng. Miền Bắc thì có một số lai Tầu, tương lai sẽ có nhiều hơn. Miền Trung thì lai Chiêm. Miền Nam thì lai Miên. Tôn giáo thì có Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo v.v…Sau 1975, dân Việt Nam cũng chia làm 2 hạng: hạng người đã sống dưới chế độ Cộng Sản và hạng người đã sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Dù một vài chục năm nữa, số người sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa có chết hết thì cũng vẫn còn hai hạng: hạng là đảng viên cộng sản và hạng không phải là đảng viên cộng sản. Vì thế thật khó mà có sự đoàn kết. Đành rằng khi tổ quốc lâm nguy, chúng ta có thể gạt bỏ tất cả những dị biệt để đòan kết chống giặc. Nhưng đó là trường hợp chính quyền là chính quyền của dân, biết lo cho dân và biết bảo vệ dân. Chính quyền cộng sản Việt Nam không phải là chính quyền của dân mà là chính quyền của đảng cộng sản nên chỉ biết lo cho đảng, bảo vệ đảng. Còn dân chúng thì Việt Cộng coi như kẻ thù.

Vì thế, một người dân trong nước đã nói: “Cầm súng bảo vệ đất nước thì tôi không sợ. Còn cầm súng, hy sinh con cái chúng tôi cho quyền lợi riêng của đảng cộng sản Việt Nam thì khác nào sự ngu xuẩn, hơn nữa, đó là sự nhục nhã ! Còn nếu không đưa con đi nghĩa vụ, tôi sẽ bảo nó trốn cách nào ? Giá như gia đình tôi có tiền của như đám cán bộ nắm quyền, tôi sẽ “chạy” được cho con ra nước ngoài du học. Hàng triệu gia đình như gia đình tôi phải chạy ăn từng bữa thì làm gì có khả năng cao sang đó? Chúng tôi sẽ đưa con cái chúng tôi trốn đi đâu ? Tôi đang phải trốn chạy, ngay trên chính quê hương Việt Nam của mình sao ?”

Tóm lại, với ba lý do trên, nếu Việt Cộng còn, hay nói cho rõ hơn, nếu chế độ cộng sản Việt Nam còn tồn tại, nước Việt Nam chắc chắn sẽ mất dù chiến tranh có xẩy ra với Trung Cộng hay không.

Đọc lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy Việt Nam đã ba lần mất nước. Nhưng cả ba lần chúng ta đều lấy lại được vì tinh thần yêu nước của dân ta thời ấy vẫn còn, tự ái dân tộc của dân ta thời ấy rất cao. Hơn nữa tất cả ba lần mất nước đó đều do ngọai xâm xâm chiếm và chính quyền do chính người ngoại quốc đứng đầu cai trị. Còn lần này, nếu chuyện mất nước xẩy ra thì thật là khó lòng lấy lại được vì nước mất là do chính bọn Việt Cộng dâng cho Tầu. Chính quyền cai trị cũng vẫn chính là bọn Việt Cộng bán nước làm tay sai cho Tầu nắm giữ thì thật là khó có thể lấy lại được nếu chúng không tự tan dã hay tự tiêu diệt lẫn nhau ?

Chú thích

(1). Có lẽ ông Bút Xuân đã căn cứ vào các cam kết “giao nước Việt Nam cho Trung Quốc”, đã được “ký” bằng “lời hứa danh dự ” của ông Hồ Chí Minh với 2 Đại Tướng Tàu là Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông vào năm 1926. Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai:“Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một: một dân tộc, một nền văn hóa, một phong tục, một tổ quốc”.






Lời rủa của LS Lê Duy San

Lời rủa của LS Lê Duy San,

Thưa quý vị,

Nếu quý vị thấy một tên nào xuất hiện trên diễn đàn mà quý vị nghi nó là Việt Cộng, thân Cộng hay Việt Gian cộng Sản, quý vi chỉ cần dán (paste) lời nguyện câu của tôi như sau:

Lời Nguyền:
  • Việt Cộng chết hết và chết một cách thảm khốc.
  • Thân Cộng (ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản), VGCS chết hết và chết một cách thảm thương.
  • Những kẻ đánh phá hoặc mạ lỵ những ngưòi chống Cộng để làm lợi cho Việt Cộng hay để gây chia rẽ hàng ngũ người Việt Quốc Gia, cũng chết hết và chết một cách thảm hại.
  • Nếu quý vị thấy y phản ứng như đỉa phải vôi, giòi phải DDT thậm chí nhiều khi nó còn có những lời nói của bọn vô học thì y đúng là một trong ba hạng người trên. Quý vị đừng thèm tranh luận với chúng, mà chỉ nên tìm những bài chống Cộng hoặc những bài vạch trần tội ác của Việt Cộng mà trả lời là đủ.
Lê Duy San
    Chửi bọn bán nước
Phỏng theo bài “Chửi mất gà”

Bớ làng trên xóm dưới, bớ láng giềng láng tỏi …. bên sau bên trước, bên ngược bên xuôi! Nước của bà hình chữ S, từ Ải Nam Quan tới mũi Cà Mâu. Trải qua 4 ngàn năm văn hiến. Tuy bà bị nô lệ một ngàn năm thằng Tầu, một trăm năm nô lệ thàng Tây, nhưng nước của bà, không những vẫn còn nguyên vẹn mà còn mở rộng xuống miền Nam cả trăm ngàn cây số vuông. Con cháu bà tuy nghèo khổ, nhưng vẫn nề nếp, gia phong. Trai không phải làm lao nô cho ngọai quốc, gái không phải làm đĩ cho ngọai bang.

Nhưng kể từ ngày thằng mất dạy tên Nguyễn Tất Thành con thằng Nguyễn Sinh Sắc trốn lên tầu Pháp làm bồi cho Tây, làm tớ cho Nga, cho Tầu, đem cái chủ nghĩa Mác Lê vô thần về nước, làm cho nước của bà bại họai gia phong. Chúng mày, từ thằng Lê Duẩn, thằng Trường Chinh Đặng Xuân Khu, thằng Phạm Văn Đồng, thằng Võ Nguyên Giáp đến thằng Lê Đức Anh, thằng Nông Đức Mạnh, thằng Lê Khả Phiêu, thằng Nguyễn Tấn Dũng, thằng Nguyễn Phú Trọng, thằng Nguyễn Văn An, thằng Phan Văn Khải, thằng Nguyễn Phú Trọng, thằng Nguyễn Minh Triết, thằng Nguyễn Sinh Hùng, thằng Tô Huy Rứa v.v…đem cả đất nước bán cho Tầu. Miền bắc thì mất cả mấy chục ngàn cây số vuông. Miền trung thì mất cả trăm ngàn cây số vuông hải phận, khiến con cháu của bà ở vùng biên giới không đất trồng trọt, sinh sống, ở vùng ven biển sống bằng nghề đánh cá không còn đất sống. Trai thì phải đi làm lao nô cho ngọai bang, gái thì phải đi làm đĩ điếm cho ngọai quốc. Thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, đứa nào toan tính bán thêm, thì buông thả nó ra, có đứa nào trót nhỡ bán thì hãy banh lỗ tai vạch lỗ nhĩ lên mà nghe bà chửi đây này y y y.... …

Chém cha những đứa bán nước của bà, chiều hôm qua bà ra làm rẫy, thấy đất còn nguyên. Sáng hôm nay con bà đi làm, nó nói dất đã bị mất một phần. Hỏi ra thì chúng bay đã cưỡng chế đất của bà bán cho Tầu. Đất vẫn còn, mà bây giờ bà không có quyền sử dụng. Mày muốn sống mà ở với vợ với con mày, thì hãy mau mau tìm cách chuộc về trả cho bà. Nhược bằng mày lấp liếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại thằng Hồ Chi Minh, cha già của nhà mày ra. Bà khai quật bật săng thằng ngũ đại, lục đại nhà chúng mày lên bỏ vào nhà xí lấy chỗ cho trâu nó đầm, cho chó nó đái … Ới cái đám con cái thằng chết đâm, chết chém Hồ Chí Minh kia ơi, con cháu mày mà không tìm cách chuộc về trả bà, thì con cháu mày một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủ thì quỷ sứ rút lưỡi mày ra, thần linh đỏ mỏ rút ruột mày xuống a a a a …

Chúng mày dám dùng tiền bán nước dể nuôi sống vợ con chúng mày, để ăn chơi phè phỡn thì bà rủa cho chúng mày ngóc đầu lên không được, chui đầu xuống không xong đấy các con ạ ạ ạ ạ …..

Đất nước của bà nó là núi vàng, núi bạc, chứ chúng mày cưỡng chế bán nó đi, nó về đến nhà chủ mày nó thành đống phân, đống cứt. Nó biến thành con thần nanh mỏ đỏ, nó mổ chồng con, mổ cha mổ mẹ, mổ ông cố nội, ông cố ngọai chúng mày ra thành trăm mảnh. Bà là bà vứt xuống ao cho cá nó rỉa, rồi bà lại đem lên bờ cho chó nó tha, cho trâu bò nó liếm đấy con ạ. ạ ạ ạ ạ…

Bà rủa cho chúng mày là chúng mày ngủ giường, giường sập, chúng mày ngủ võng, võng đứt. Chúng mày thức, chúng mày cũng mơ thấy ma móc mắt chúng mày ra. Chúng mày tắm ở ao chúng mày chết chìm trong ao, chúng mày đi ra đường, chúng mày vỡ óc mà chết vì bị xe cán bẹp đầu, nát óc. Chúng mày đi trên lề đường cây khô rớt xuống gãy cổ. Chúng mày uống được ngụm nước vào mồm thì máu đỏ từ mồm chúng mày phọt ra đằng mũi, máu trắng chúng mày tuồn ra đằng tai. Chúng mày ăn miếng rau, chúng mày ói ra cứt. Chúng mày ăn uống gì, chúng mày cũng tóc tai lông lá mày rụng sạch. Bà cuộn lại thành chổi bà quét hố phân, hố xí í í í í ….

Chúng mày không mau mau tìm cách lấy lại đất, biển, bà đóng ghế 3 tháng 10 ngày, buổi sáng bà chửi, buổi tối bà chửi, buổi trưa bà hú, ban đêm bà nguyền, bà rủa cho con cháu chúng mày chết đường, chết chợ, chết tan thây, nát óc, cho Thần Trùng đến rút từng khúc ruột của cha ông, vợ con nhà mày ra a a a a….

Bà hú 3 hồn, 7 vía những thằng Hồ Chí Minh, thằng Phạm Văn Đồng, thằng Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh v.v…và bè lũ Việt gian bán nước, dâng biển cho Tầu. Bà gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cầm cờ đỏ đứng sau nhà, ông cầm cờ vàng bên hữu, ông cầm cờ trắng bên tả yểm cho vợ con nhà chúng mày đẻ con đẻ ngược, con ra thì không lỗ đít, cháu ra thì không lỗ tai vì đã dám ăn lấy đất của bà bán cho Tầu Cộng à à à à à …..

À, mày tưởng mày là tiến sĩ toán lý mà bà không dám chơi toán học với mày à. Bây giờ bà chửi từ số học lên tích phân, xuống đại số rồi sang hình học cho mày nghe e e e e ……

Nếu gọi bố chúng mày là A, mẹ chúng mày là B, mày là C, bà lấy A cộng B cộng C, cho vào ngoặc bà khai căn, bà vi tích phân cả họ hàng chúng mày lên thành ma, thành quỷ ...ên..ên..ên..

Chúng mày tưởng nuốt được số tiền bán đất, bán biển mà quan thày chúng mà trả cho, là chúng mày có thể yên ổn mà chơi trò “cộng trừ âm dương” trên giường với nhau à…..Bà là trị cho tuyệt đối hết cả họ chín đời nhà chúng mày, cho chúng mày biết thế nào là “vô nghiệm”, cho chúng mày hiểu thế nào là vô sinh, không đẻ, không duy trì được nòi giống nữa thì thôi…Bà sẽ nguyền rủa cho chúng mày đời đời chìm đắm trong “âm vô cùng”, sẽ gặp tai ương đến “dương vô tận”, cho chúng mày chết rục trong địa ngục, cho chúng mày tù tội đến “tối đa” của sự “vô hạn” tối tăm ăm ăm ăm ăm …

Tiên sư cha nhà chúng mày, chúng mày tưởng ngày nào mày cũng rình mò “tiệm cận” hàng rào nhà bà là bà không biết đấy à? Bà là bà “giả thiết” chúng mày ăn cướp hơn hai chục ngàn cây số vuông ở miền Bắc đem dâng cho quan thầy Tầu phù lấy tiền về để chúng mày vỗ béo để nhồi “đường cong” cho con vợ mày, à… à… chúng mày vẽ nữa đi, chúng mày tô nữa đi. Chúng mày tô, mày vẽ, mày nhồi cho đến khi “đường cong” của con vợ chúng mày nó nứt toác, nó gẫy khúc ra, chọc xiên chọc xẹo đi, rồi đi lên đi xuống nữa vào, rồi có ngày con vợ chúng mày sẽ hạ “vuông góc” một mạch thẳng xuống “góc tù..ù ù ù…

Tiên sư cha chúng mày, hỡi thằng Hồ Chí Minh, thằng Nguyễn Tấn Dũng, thằng Nông Đức Mạnh, thằng Trương Tấn Sang, thằng Nguyễn Văn An, thằng Nguyễn Phú Trọng, thằng Nguyễn Minh Triết, thằng Trần Đức Lương, thằng Nguyễn sinh Hùng, thằng Tô Huy Rứa …ơi, hãy nghe những lời bà chửi cho thấm. Bà nguyền cho cả nhà, cả họ chúng bay chết sầu, chết thảm, chết non, chết yểu, chết nhục, chết nhã, chết không tòan thây, chết không còn đầu, chết mất cả “tự do”.
    “Hôm nay là ngày Tết,
    Bà chúc chúng mày suốt năm gặp nạn ,
    Ngày mai bà sẽ chúc chúng mày chết đâm, chết chém.
    Bà chúc con cháu cho chúng mày hóa điên, hóa rồ
    Bà rủa suốt năm, suốt tháng liên miên không ngừng.
    Bây giờ bà mệt quá chừng,
    Bà về cơm nước, cúng bái tổ tiên…
    Muốn sống thì nhả hết ra,
    Kéo nhau lên Núi Nùng,
    Lạy bà hai lạy, bà tha chết cho chúng mày….ày ày ày….”
Bà Mẹ Việt Nam



Việt Nam thuộc địa mới của Tàu Cộng - Nguyễn Thành Trí

    VIỆT NAM THUỘC ĐỊA MỚI CỦA TÀU CỘNG
Nguyễn Thành Trí

Đảng Việt Cộng đã trình diễn xong một màn độc diễn, độc thoại “Hài Kịch Chính Trị Việt Cộng”, bởi vì cho dù ai là tổng bí thư, đảng trưởng, chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng, thực chất của họ cũng đều là các quan Thái Thú của mẫu quốc Hoa Lục Tàu Cộng để tiếp tục kèm kẹp người dân Việt Nam, thống trị nước Việt Nam vẫn còn là một thuộc địa kiểu mới bị lệ thuộc Bắc Kinh, bởi vì Việt Cộng vẫn còn cho rằng dân trí, sức hiểu biết của người dân Việt Nam chậm tiến, ngu muội, đần độn chưa biết rõ đất nước của họ thực sự đã đang là một thuộc địa kiểu mới của Hoa Lục Tàu Cộng. Đảng Việt Cộng cứ tiếp tục làm theo kinh nghiệm phát triển độc tài đảng trị của Hoa Lục Tàu Cộng.

Chúng ta là người Việt Nam, Công Dân Việt Nam đang ở trong nước, tại sao chúng ta lại không nhìn thẳng vào hiện tại của nước Việt Nam để nói lên một sự thật dưới chế độ độc tài đảng trị của đảng Việt Cộng đã đang là một đảng chư hầu của đảng Tàu Cộng và làm cho nước Việt Nam trở thành một thuộc địa kiểu mới của đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng? Chẳng lẽ người Việt Nam còn chờ những người nước ngoài ở nơi nào sẽ nói hộ, làm giùm chuyện của chính người Việt Nam?

Vì nhiều người Việt Nam cho tới bây giờ còn tỏ vẻ chưa hiểu hết hiện trạng nước Việt Nam là một “Thuộc Địa Kiểu Mới” của “Đế Quốc Hoa Lục Tàu Cộng”, vậy chúng ta cũng nên nhắc lại cái tính chất chính sách của một nước lớn như Hoa Lục Tàu Cộng áp dụng lên một nước nhỏ như Việt Nam để khống chế về chính trị - nhất là Tàu Cộng và Việt Cộng có cùng một ý thức hệ cộng sản - đồng thời Tàu Cộng đã đang ngấm ngầm bí mật có quyền khai thác toàn phần về kinh tế thương mại, cũng như Tàu Cộng đã đang có thể gây ảnh hưởng mạnh và lâu dài về văn hóa-giáo dục-đào tạo của Việt Cộng, và sử dụng lãnh thổ Việt Nam như một bàn đạp để mở rộng vùng kiểm soát địa chính trị trong khu vực Đông Nam Á.

Rất rõ ràng trên thực tế nước Việt Nam dưới sự cai trị độc tài đảng trị của một đảng Việt Cộng đã đang mất hết chủ quyền quốc gia, vì đảng Tàu Cộng đã rõ ràng hoàn toàn khống chế đảng Việt Cộng để chi phối nặng nề lên sự lãnh đạo đảng và quản lý nhà nước, nhân sự chính phủ, và kể cả chỉ huy quân đội Việt Nam. Người ta có thể nói chắc chắn rằng đảng Việt Cộng là một đảng chư hầu tay sai của đảng Tàu Cộng; sự thật rõ ràng không cần phải bàn cãi gì nữa.

Hơn ai hết, chính là đảng Tàu Cộng đã không muốn nhìn thấy một nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ và đoàn kết lại thành một lực lượng mạnh chống lại sự xâm lăng của một đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng. Chính là đảng Tàu Cộng đã sử dụng đảng Việt Cộng để gây chia rẽ trong toàn thể Nhân Dân Việt Nam. Mặc dù đảng Việt Cộng luôn miệng kêu gọi người dân Việt Nam “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, nhưng họ cứ tiếp tục có những hành động ngược lại để làm cho các thành phần người dân Việt Nam bị phân hoá trong một xã hội Việt Nam bị băng hoại trầm trọng để dễ cai trị.

Có những sự kiện rõ rệt hiển nhiên chứng minh được đảng Việt Cộng hoàn toàn bị lệ thuộc vào đảng Tàu Cộng, đó là họ đã bắt giam những người Việt Nam tỏ thái độ chính trị chống đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng xâm lược. Chỉ là một bè lũ tay sai nguỵ quyền Việt Cộng không dám có hành động mạnh chống đối lại mẫu quốc Hoa Lục Tàu Cộng, nên bọn chúng chỉ có những phản ứng nhẹ bằng lời phản đối chiếu lệ có mục đích che mắt, tiếp tục lường gạt người dân Việt Nam.

Đã qua 41 năm Bắc Việt Cộng đã thống nhất nước Việt Nam bằng một cuộc lường gạt, lường gạt đối phương VNCH và kể cả lường gạt những người anh em Nam Việt Cộng cộng tác với họ. Sau khi chấm dứt chiến tranh VN, giữa hai miền Nam-Bắc VN cũng cần phải có một thời gian ổn định, chuyển tiếp thích hợp để thống nhất trong hoà bình. Ngược lại, Bắc Việt Cộng đã tạo ra một chiến thắng quân sự gian xảo bằng cách cưỡng chiếm chính quyền VNCH, ép buộc đối phương đầu hàng thay vì thực hiện một giải pháp chính trị, và rồi sau đó xoá bỏ Nam Việt Cộng. Điều này cũng chứng tỏ sự thiếu tự tin vào bản lĩnh chính trị và chính nghĩa của đảng Việt Cộng khi Nhân Dân Miền Nam VN thực hiện quyền Dân Tộc Tự Quyết, quyền tự do chọn lựa chính thể giữa cộng sản độc tài và cộng hòa tự do. Đảng Việt Cộng đã gian manh xảo quyệt cưỡng chiếm chính quyền VNCH, nhưng họ không thể chiếm được lòng tin yêu của toàn thể người dân Việt Nam để thống nhất trái tim và khối óc của người Việt Nam. Điều này cho tới nay đã đang được chứng minh rõ ràng nguỵ quyền Việt Cộng là tay sai của đế quốc Hoa Lục Tàu Cộng, và thực sự không có Lập Trường Độc Lập Dân Tộc, Tự Do Việt Nam.

Hiện tại đảng Việt Cộng được sự bao che, trợ giúp, huấn luyện, và nuôi dưỡng của đảng Tàu Cộng mà cả hai bè lũ cầm quyền ở mẫu quốc Hoa Lục và thuộc địa Việt Nam đều chủ trương độc tài đảng trị, độc tôn và độc quyền lãnh đạo xã hội, không chấp nhận có sinh hoạt chính trị đa đảng thực sự đối lập, chia sẻ quyền lực, thì tình trạng hòa giải quốc gia, hòa hợp dân tộc rất khó thực hiện ở cả hai nơi Hoa Lục và Việt Nam. Trên thực tế ở Hoa Lục đã đang thực sự không có cuộc sống hài hoà, bình đẳng, phát triển đồng đều giữa các nhóm chủng tộc lớn như Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Cũng như ở Việt Nam sự hoà hợp dân tộc chưa bao giờ thực sự được thực hiện triệt để, nghiêm chỉnh. Ở Hoa Lục và Việt Nam chỉ có toàn là những hình ảnh người dân tộc thiểu số trong bộ quần áo màu sắc rực rỡ tốt đẹp phải được chụp hình vào dịp ngày lễ hội trong nước để tuyên truyền cho chế độ Tàu Cộng và Việt Cộng; hoàn toàn khác với thực tế của người dân tộc thiểu số ở Hoa Lục và Việt Nam đã đang chịu đựng nghèo khổ đói khát.

Chúng ta hãy khách quan xem xét tình hình hiện tại của Hoa Lục và Đài Loan, trong khi Đài Loan là một đảo quốc đang có một nền kinh-tài vững mạnh, một quân đội hùng hậu, một nền chính trị dân chủ và Lập Trường Dân Tộc Độc Lập, Tự Do Đài Loan kiên định mới có đủ sức mạnh đấu tranh và thương lượng hòa giải với đảng Tàu Cộng khi có cải tổ chính trị ở Hoa Lục. Một cách rõ ràng cụ thể vào ngày 16/1/2016 toàn thể Nhân Dân Đài Loan đã tỏ thái độ dứt khoát chống lại sự lệ thuộc Bắc Kinh; họ đã tích cực ủng hộ lập trường độc lập dân tộc, Một Đài Loan Một Hoa Lục, và đã bầu cử cho nữ Tổng Thống Tsai Ing-wen (Thái Anh-Vân) và Quốc Hội Đài Loan có đa số đại biểu thuộc Đảng Dân Tiến có lập trường tự do, độc lập dân tộc Đài Loan. Như vậy là quá rõ ràng Đảo Quốc Đài Loan độc lập, tự do, dân chủ đã đang và sẽ không lệ thuộc Hoa Lục Tàu Cộng độc đảng, độc tài đảng trị.

Tại sao Đài Loan đã có thể thành công không lệ thuộc Bắc Kinh, vì Đài Loan có sinh hoạt chính trị đa đảng, tự do, dân chủ, và lập trường độc lập Dân Tộc Đài Loan. Tại sao Việt Nam đã đang và sẽ còn lệ thuộc Bắc Kinh, vì Việt Cộng có cùng một ý thức hệ cộng sản với Tàu Cộng, ở cả hai nơi Việt Nam và Hoa Lục đều không có sinh hoạt chính trị đa đảng, tự do, và dân chủ. Hơn nữa, những tay Việt Cộng cầm quyền ở nước Việt Nam vẫn còn nổ lực duy trì chế độ độc tài đảng trị để tiếp tục áp bức, kèm kẹp người dân Việt Nam. Một cách rõ ràng cụ thể như cuộc bầu cử những người lãnh đạo đảng Việt Cộng và quản lý nhà nước, chính phủ Việt Nam trong tuần lễ vừa qua không có sự trực tiếp tham gia bầu cử của người dân Việt Nam; không có tự do ứng cử bầu cử như ở đảo quốc Đài Loan.

Như vậy, đảng Việt Cộng đã trình diễn xong một màn độc diễn, độc thoại “Hài Kịch Chính Trị Việt Cộng”, bởi vì cho dù ai là tổng bí thư, đảng trưởng, chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng, thực chất của họ cũng đều là các quan Thái Thú của mẫu quốc Hoa Lục Tàu Cộng để tiếp tục kèm kẹp người dân Việt Nam, thống trị nước Việt Nam vẫn còn là một thuộc địa kiểu mới bị lệ thuộc Bắc Kinh, bởi vì họ vẫn còn cho rằng dân trí, sức hiểu biết của người dân Việt Nam chậm tiến, ngu muội, đần độn chưa biết rõ đất nước của họ thực sự đã đang là một thuộc địa kiểu mới của Hoa Lục Tàu Cộng. Đảng Việt Cộng cứ tiếp tục làm theo kinh nghiệm phát triển độc tài đảng trị của Hoa Lục Tàu Cộng.

Nguyễn Thành Trí