Friday, April 18, 2014

VIỆT CỘNG CÒN, NƯỚC SẼ MẤT - Lê Duy San

VIỆT CỘNG CÒN, NƯỚC SẼ MẤT

Lê Duy San

Sau năm 1975, mặc dầu thù ghét bọn Việt Cộng đến tận xương tủy, nhưng cũng có một số người, nhất là dân miền Nam, thầm phục bọn Việt Cộng đã làm được một việc mà trước kia chính phủ miền Nam Việt Nam (VNCH) đã không làm được đó là đuổi được đám Tầu Chợ Lớn ra khỏi Việt Nam. Nhưng kể từ khi chúng (Việt Cộng) bị Trung Cộng “dậy cho một bài học” vào tháng 2 năm 1979 và cưỡng chiếm quần đảo Trường Sa vào ngày 14 tháng 3 năm 1988 khiến Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư của đảng Cộng Sản Việt Nam phải lạy lục Trung Cộng xin hòa hay nói cho đúng hơn là xin hàng Trung Cộng vào năm 1990.

Việc này làm người ta nghĩ rằng việc làm của chúng trước kia chẳng có gì là đáng phục, mà trái lại còn di hại cho đất nước nhiều hơn: đó là việc chúng phải dâng Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và cả chục ngàn cây số vuông ở miến Bắc Việt Nam, hàng trăm ngàn cây sô vuông lãnh hải trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng.

Không những thế, nếu trước kia, chúng đuổi đi được vài trăm ngàn Tầu quốc gia, thì nay, chúng lại mở cửa cho Tầu Trung cộng sản tự do vào Việt Nam cả triệu tên, khiến cho có thể đưa Việt Nam tới nguy cơ mất nước. Vì thế, nhiều người ưu tư tới đất nước đã tự hỏi: Nước Việt Nam còn hay đã mất ? Nếu còn thì liệu có giữ được không?

Có người nói rằng nước đã mất rồi, và đã mất từ lâu. Ông giáo sư Trần đình Ngọc còn nói rõ ràng rằng Hồ Chí Minh đã bán nước từ ngày 3/2/1930 (1). Thực ra thì nước Pháp đã chiếm Việt Nam làm thuộc địa từ lâu, từ năm 1884, nước Việt Nam đâu còn nữa mà để cho Hồ Chí Minh bán? Vả lại Hồ Chí Minh lúc bấy giời còn đang lang thang, cầu bơ, cầu bất, du thủ, du thực, đâu đã có danh phận gì ngoài chức Chủ Tịch đảng Cướp Cộng Sản Đông Dương với vài trăm đảng viên, mà đòi bán nước cái nỗi gì.

Hơn nữa, tuy ngày nay Việt Nam đã mất thác Bản Giốc, Ải Nam Quan và cả chục ngàn cây số vuông ở biên giới Việt Hoa và cả trăm ngàn cây số vuông hải phận ở biển Đông, nhưng đứng trên phương diện luật pháp và quốc tế thì Việt Nam vẫn còn. Bởi vì tên Việt Nam vẫn còn trên bản đồ thế giới. Nước Việt Nam vẫn được các quốc gia trên thế giới công nhận và Việt Nam vẫn là một thành viên của Liên Hiệp Quốc.

Nhưng liệu Việt Nam sẽ còn tồn tại đến bao giờ? Điều này thật khó nói trước, có điều chắc chắn rằng Việt Cộng còn, Việt Nam sẽ mất, hay nói cho rõ hơn là: Chế độ Cộng Sản Việt Nam còn tồn tại thì nước Việt Nam sẽ mất về tay Trung Cộng vì những lý do sau:

1. Chính quyền Việt Nam thì hèn với giặc, ác với dân và coi dân như kẻ thù.

Thực vậy, Việt Nam từ xưa tới nay, chưa có một chính quyền nào lại hèn nhát và khiếp nhược như ngụy quyền cộng sản Việt Nam hiện nay.

Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam coi Trung Cộng như Mẫu Quốc. Đi đâu, ngụy quyền Việt Nam cũng phải xin phép quan thầy Trung Cộng. Làm gì, ngụy quyền Việt Nam cũng phải báo cáo quan thầy Trung Công. Dân Trung Cộng tự do ra vào Việt Nam như đi chợ, không cần chiếu khán. Chúng tự do hành nghề, không cần giấy phép và chọn gái Việt Nam làm vợ như đi chợ mua mấy con chó, con mèo! Dân Trung Cộng tự do lập những khu người Hoa ở khắp mọi nơi. Tại những nơi này, họ tự trị và người Việt bất khả xâm phạm giống như mấy tòa Đại Sứ, Lãnh Sự của ngọai quốc, ngay cả công an Việt Cộng cũng không có quyền xâm phạm những khu vực này.

Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam để mặc cho Trung Cộng ngang nhiên lấn chiếm đất đai, lộng hành trong hải phận mà không dám đương đầu hay phản đối, dù chỉ bằng đường lối ngọai giao. Ngư dân Việt Nam đánh cá trong vùng hải phận Việt Nam cũng bị Trung Cộng ngang nhiên bắt giữ cả người lẫn ghe thuyền, cá thì tịch thu, người thì bắt nộp phạt mới chịu tha.

Ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam không dám để cho sinh viên, học sinh biểu tình đả đảo Trung Cộng xâm chiếm Hòang Sa, Trường Sa và bắt giam những người biểu tình. Bia tưởng niệm những bộ đội Việt Cộng hy sinh trong cuộc chiến với Trung Cộng vào năm 1979 cũng phải đục bỏ. Các sách giáo khoa từ tiểu học đến đại học, không một dòng chữ nào nói tới Hoàng Sa và Trường Sa. Bộ luật nào của Việt Nam cũng phải in cả 2 thứ tiếng Trung Cộng và Việt Nam.

Trái lại đối với dân thì chúng thật độc ác, dã man và tàn bạo vô chừng. Quan chức chính quyền thì thi đua tham nhũng, ăn hối lộ. Tên nào cũng thi đua vơ vét của dân để có tiền ăn chơi hoặc cho con em trốn tránh ra ngoại quốc dưới hình thức du học, nhất là Hoa Kỳ, để tẩu tán tiền bạc.

Công an thì coi dân như kẻ thù, hơi một chút là đánh đập, bắt giam, bỏ tù. Đi xe máy mà không đội mũ an toàn cũng có thể bị đánh chết như trường hợp anh Nguyễn Văn Khương ở Bắc Giang bị thiếu úy công an Nguyễn Thế Nghiệp đánh bể đầu chết vì không đội mũ bảo hiểm vào ngày 23 tháng 7, 2010. Ông Trịnh Xuân Tùng ở Hà Nội cũng vậy, bị trung tá công an Nguyễn Văn Ninh đánh gẫy cổ chết vào tháng 2/2011 vì lỗi tương tự và nhiều trường hợp tương tự khác. Là con của một tù nhân lương tâm hay người bất đồng chính kiến cũng có thể bị công an cho côn đồ chém trọng thương như trường hợp của anh Phan Nguyễn Trọng Tú con của nhà bất đồng chính kiến Phan Ngọc Tuấn ở Phan Rang vào ngày 18/9/2012. Chính vì vậy mà có người gọi chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một Chế Độ Côn Đồ.

Một nhà văn trong nước, ông Huỳnh Ngọc Tuấn, trong bài “Không Giống Ai”, đã viết: “Lực lượng “công an nhân dân” thì coi dân như cỏ rác, buồn buồn thì đánh chết một vài người dân cho vui, mục đích là để thị uy. Nếu dư luận trong nước và quốc tế có phản ứng mạnh quá thì cũng xử cho lấy lệ để bịt miệng công luận rồi đâu lại vào đó. Hãy nhìn những cái chết thê thảm của một số nạn nhân trong mấy năm gần đây thì rõ”.

2 Tinh Thần yêu nước của người dân VN không còn, tự ái dân tộc cũng mất.

Dân số Thủ Đô Hà Nội bây giờ ít ra cũng phải trên 5 triệu người và dân số thành phố Saigon ít ra cũng phải gần 8 triệu. Vậy mà số người tham dự của mỗi cuộc biểu tình để biểu lộ lòng yêu nước và chống Trung Cộng xâm lược, kể cả một số công an chìm, nổi và những người qua đường vì hiếu kỳ đứng coi, cũng chưa tới 500 người. Nếu không kể những người già cả và trẻ em, tính theo tỷ lệ thì con số người thực sự đi biểu tình cũng không tới 1/10,000. Vậy thì còn 9999 phần 10,000 kia đâu ?

Đành rằng ngụy quyền cộng sản Việt Nam là một chính quyền hèn với giặc, ác với dân, nên người dân rất sợ. Nhưng tại sao chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp trước kia, cũng ác ôn, cũng tàn bạo, nhưng vẫn có những ông vua như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái ra mặt chống đối, vẫn có những cuộc nổi dậy chống Pháp như Nguyễn Trung Trực, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Nguyễn Thái Học v.v.

Một người dân trong nước đã tự hỏi:“Chính quyền hiện hành có còn là chính quyền của dân tộc Việt Nam hay không ? Tự hỏi để rồi ngầm trả lời: Không, không, không. Chính quyền này không phải là của dân tộc Việt Nam, mà là chính quyền của đảng cộng sản Việt Nam! Tôi và bao bậc cha mẹ khác lẽ nào đưa con mình đi cầm súng để bảo vệ đảng nô lệ như thế này ? Tôi đã rớt nước mắt. Tệ hại quá, tôi phải “nướng” con tôi cho lũ cầm quyền phản dân tộc này? Tôi sẽ phải làm thế nào ?”.

Thực ra thì chính Cộng Sản Việt Nam không phải là chính quyền của người dân từ lâu, ngay từ khi mà ông Hồ Chí Minh cướp được chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim. Nhưng trong thời kỳ chiến tranh từ 1945 tới 1975, lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam vẫn còn và vẫn hăng say và nồng nhiệt. Chính vì thế mà chúng vẫn bịp bợm và lợi dụng được để chiến thắng miền Nam với sự ủng hộ triệt để của Liên Sô và Trung Cộng . Ngày nay, chúng không còn cần lòng yêu nước của người dân Việt Nam nữa. Chúng chỉ cần làm sao giữ được Đảng để hưởng thụ. Không những thế, chúng còn muốn tiêu diệt hẳn lòng yêu nước của người dân bằng chính sách hủ hóa (ăn chơi xả láng) để chúng dễ bề cai trị. Người dân đã được dậy ngay từ khi biết mới nói, từ lúc mới cắp sách đi học là: “Yêu nước là yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội”. Vì thế chúng ta không lấy làm lạ tại sao những cuộc biểu tình quan trọng như vậy lại chỉ có vài trăm người trong khi những chốn ăn chơi trụy lạc nhỏ bé cũng có cả ngàn người tham dự.

Không những lòng yêu nước bị đui chột mà còn bị chính quyền cấm đóan. Cũng trong bài “Không Giống Ai”, nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn viết: “Lòng yêu nước có thể nói là di sản quý báu của người Việt Nam mà tổ tiên của chúng ta trao truyền từ đời này sang đời khác, chưa có một triều đại một chính quyền nào “kiểm duyệt” lòng yêu nước chứ đừng nói đến chuyện thủ tiêu, ngăn cấm hay độc quyền. Vậy mà ngày hôm nay trước hành động hiếu chiến và ngang ngược của bọn bành trướng Bắc Kinh, người dân Hà Nội, Sài Gòn đã tự nguyện xuống đường để cho thế giới biết là nhân dân Việt Nam không hèn yếu không vô trách nhiệm với quốc gia, vậy mà đã bị chính nhà cầm quyền “của dân, do dân, vì dân” đàn áp, bắt bớ, vu khống và chụp mũ . Điều này chắc làm cả thế giới kinh ngạc và khó hiểu là Việt Nam đang được điều hành bởi một chính quyền đại diện cho ai ?”

Không những lòng yêu nước của người dân Việt Nam bây giờ không còn mà ngay cả lòng tự ái dân tộc cũng mất. Trước kia (1975) gia đình Việt Nam nào, có con gái lấy chồng ngoại quốc đều lấy làm xấu hổ (mắc cở) với họ hàng, làng xóm. Nay thì trái lại, gia đình Việt Nam nào có con gái lấy được chồng ngoại quốc, không những không xấu hổ mà còn lấy làm hãnh diện, không những hãnh diện với họ hàng mà cả với làng xóm. Họ hàng, làng xóm cũng không coi đó là đều xấu mà còn coi đó như một tấm gương sáng để cho con cháu noi gương mà bắt chước. Đành rằng ngày nay thế giới mở rộng, việc lấy người ngoại quốc là chuyện bình thường, nhưng coi đó là một tấm gương sáng để con cháu noi theo thì thật là hết chỗ nói.

Sau mấy chục năm sống dưới chế độ Cộng Sản, người dân Việt Nam bây giờ chỉ biết Tiền, Tiền và Tiền. Vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em có thể giết nhau vì Tiền. Bạn bè có thể giết nhau vì Tiền. Thầy trò có thể giết nhau vì tiền. Chủ tớ có thể giết nhau vì Tiền. Học sinh, sinh viên cũng có thể vì tiền mà đi bán dâm hay làm đĩ đực. Hoa hậu hay người mẫu cũng có thể bán dâm vì tiền như trường hợp hoa khôi Thiên Kim từng môi giới cho Hoa Hậu Mỹ Xuân đi bán dâm với một “đại gia” tại khách sạn ở thành phố Vũng Tàu với giá 2,500 USD. Thiên Kim lấy 1,000 USD, còn Mỹ Xuân hưởng 1,500 USD. Vợ cũng có thể vì tiền mà ngọai tình hay bán dâm.

Thùy Linh, một người dân ở Hà Nội viết: “Mình bỗng thương Mỹ Xuân, Hồng Hà, Thiên Kim và các cô gái bị chà đạp thêm nhiều lần sau các chuyên án điều tra, bóc dỡ đường dây mại dâm này. Chính xã hội là nguyên nhân gây nên cơn “thèm tiền” đến điên loạn. Nếu xếp thang bậc cho cơn thèm khát tiền thì quan chức đứng số 1. Họ bất chấp tất cả để lao vào kiếm tiền, các nhiệm kỳ chưa đủ còn bố trí cả vợ, con cùng tham gia. Hầu như không có quan chức nghèo, chỉ chưa là tất cả các quan chức đều có thể gọi là tỷ phú đôla mà thôi.”…

“Càng xa hoa càng trở thành tấm gương để tạo nên một lối sống cho lớp trẻ “noi theo”.

Đắm chìm trong cuộc sống tất cả điên đảo vì tiền mà bảo tuổi trẻ nên có thái độ điềm tĩnh với tiền, vật chất thì khác gì rao giảng đạo đức suông ? Rất ít người thoát khỏi tấm lưới bủa vây của tiền bạc. Và để có được cuộc sống cho bằng người ta, tất nhiên cần tiền. Không thể kiếm tiền bằng các dự án, chính sách như quan chức, đại gia thì đương nhiên phải bán những gì mình có.”

Người nghèo thì sẵn sàng làm bất cứ nghề gì, miễn sao kiếm được tiền để sống, kể cả nghề buôn lậu, ma cô, đĩ điếm đã đành, mà ngay kẻ đã có tiền cũng có thể làm những nghề này để chóng giầu hoặc giầu hơn để hưởng thụ được nhiều hơn, đưa tới gần như cả nước sa đọa. Nhà tan không cần biết, nước mất không cần hay. Đó là thái độ của người dân Việt Nam bây giờ.

3. Dân tộc chia rẽ trầm trọng.

Dân Việt Nam không phải là một dân tộc thuần chủng. Miền Bắc thì có một số lai Tầu, tương lai sẽ có nhiều hơn. Miền Trung thì lai Chiêm. Miền Nam thì lai Miên. Tôn giáo thì có Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo v.v… Sau 1975, dân Việt Nam cũng chia làm 2 hạng: hạng người đã sống dưới chế độ Cộng Sản và hạng người đã sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Dù một vài chục năn nữa, số người sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa có chết hết thì cũng vẫn còn hai hạng: hạng là đảng viên cộng sản và hạng không phải là đảng viên cộng sản. Vì thế thật khó mà có sự đoàn kết. Đành rằng khi tổ quốc lâm nguy, chúng ta có thể gạt bỏ tất cả những dị biệt để đoàn kết chống giặc. Nhưng đó là trường hợp chính quyền là chính quyền của dân, biết lo cho dân và biết bảo vệ dân. Chính quyền cộng sản Việt Nam không phải là chính quyền của dân mà là chính quyền của đảng cộng sản nên chỉ biết lo cho đảng, bảo vệ đảng. Còn dân chúng thì Việt Cộng coi như kẻ thù.

Vì thế, một người dân trong nước đã nói: “Cầm súng bảo vệ đất nước thì tôi không sợ. Còn cầm súng, hy sinh con cái chúng tôi cho quyền lợi riêng của đảng cộng sản Việt Nam thì khác nào sự ngu xuẩn, hơn nữa, đó là sự nhục nhã ! Còn nếu không đưa con đi nghĩa vụ, tôi sẽ bảo nó trốn cách nào ? Giá như gia đình tôi có tiền của như đám cán bộ nắm quyền, tôi sẽ “chạy” được cho con ra nước ngoài du học. Hàng triệu gia đình như gia đình tôi phải chạy ăn từng bữa thì làm gì có khả năng cao sang đó? Chúng tôi sẽ đưa con cái chúng tôi trốn đi đâu ? Tôi đang phải trốn chạy, ngay trên chính quê hương Việt Nam của mình sao ?”

Tóm lại, với ba lý do trên, nếu Việt Cộng còn, hay nói cho rõ hơn, nếu chế độ cộng sản Việt Nam còn tồn tại, nước Việt Nam chắc chắn sẽ mất dù chiến tranh có xẩy ra với Trung Cộng hay không.

Đọc lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy Việt Nam đã ba lần mất nước. Nhưng cả ba lần chúng ta đều lấy lại được vì tinh thần yêu nước của dân ta thời ấy vẫn còn, tự ái dân tộc của dân ta thời ấy rất cao. Hơn nữa tất cả ba lần mất nước đó đều do ngọai xâm xâm chiếm và chính quyền do chính người ngọai quốc đứng đầu cai trị. Còn lần này, nếu chuyện mất nước xẩy ra thì thật là khó lòng lấy lại được vì nước mất là do chính bọn Việt Cộng dâng cho Tầu. Chính quyền cai trị cũng vẫn chính là bọn Việt Cộng bán nước làm tay sai cho Tầu nắm giữ thì thật là khó có thể lấy lại được nếu chúng không tự tan dã hay tự tiêu diệt lẫn nhau ?

Lê Duy San
Chú thích: (1). Có lẽ ông Bút Xuân đã căn cứ vào các cam kết “giao nước Việt Nam cho Trung Quốc”, đã được “ký” bằng “lời hứa danh dự ” của ông Hồ Chí Minh với 2 Đại Tướng Tàu là Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông vào năm 1926. Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai:“Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một: một dân tộc, một nền văn hóa, một phong tục, một tổ quốc”.

Saturday, April 12, 2014

Chọn lựa của đời người - Trần Trung Đạo

    Chọn lựa của đời người
Trần Trung Đạo

Nỗi lo sợ lớn nhất của một nhà tranh đấu cho tự do dân chủ của một đất nước không phải là sợ bị tù mà bị sống lưu vong, bởi vì với phần đông, đi là hết.

Boris Pasternak không phải là nhà đấu tranh chính trị nhưng khi bị hăm họa nếu đi nhận giải Nobel văn chương có thể không được phép trở về Nga, ông từ chối đi nhận giải. Aung San Suu Kyi được phép đi thăm chồng bịnh nặng nhưng có thể không được trở về, bà đành chịu không thấy mặt chồng còn hơn phải rời Miến Điện. Nhắc lại, năm 1997, chồng bà, Tiến sĩ Michael Aris, bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối nhưng bị chính phủ quân phiệt Miến từ chối cấp giấy phép nhập cảnh thăm bà và cuối cùng Michael Aris đã chết ở Anh Quốc đúng trong ngày sinh nhật của ông không có mặt vợ.

Vua Hàm Nghi của Việt Nam mình là bài học khác. Trong suốt ba năm từ 1885 đến 1888, chịu đựng bao gian truân đói khổ trong rừng núi Quảng Bình, nhà vua không hề than van và ngay cả khi bị bắt vị vua 17 tuổi còn mắng vào mặt Việt gian Trương Quang Ngọc "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây", nhưng khi bước xuống tàu Biên Hòa để bị lưu đày sang Algérie, ngài đã khóc. Giọt nước mắt của vị vua mất nước và cũng là một thanh niên Việt Nam chỉ mới 18 tuổi tuôn rơi chỉ vì phải rời xa tổ quốc thân yêu và một phần khác ngài cũng biết đi là hết, giấc mộng Cần Vương xem như chính thức cáo chung.

Trong giai đoạn từ 1975 đến nay, có hai nhà đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân bản Việt Nam nổi tiếng nhưng có hai chọn lựa khác nhau: Giáo sư Đoàn Viết Hoạt chọn lựa ra đi và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế chọn lựa ở lại.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt: Không thể ra khỏi nhà tù nếu thiếu điều kiện ra đi khỏi Việt Nam

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt bắt đầu các hoạt động chống độc tài CS ngay sau 1975 và bị tù tổng cộng gần 20 năm:

- Lần thứ nhất: Ngày 29 tháng 7 năm 1976 ông bị bắt với cáo trạng “Tuyên truyền tư tưởng phản động chống phá Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Giáo sư bị CSVN giam giữ 12 năm không bản án. Ông ra khỏi tù lần thứ nhất ngày 9 tháng 2 năm 1988.

- Lần thứ nhì: Một năm sau, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt góp phần thành lập nhóm Diễn Đàn Dân Chủ và sáng lập viên của tạp chí Diễn Đàn Tự Do. Ngày 17 tháng 11 năm 1990, ông bị CSVN bắt lần thứ hai. Tòa sơ thẩm CSVN ngày 31 tháng 3 năm 1993 kết án giáo sư 20 năm tù giam. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm sau đó, giảm án xuống còn 15 năm tù giam. Năm 1993, ông bị đưa sang trại tập trung lao động khổ sai. Ngay trong tù, ông đã tổ chức hoạt động đối lập và vì vậy, ông bị đưa đi giam giữ cô lập 4 năm liền tại trại giam Thanh Cầm, Thanh Hóa.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đối diện với chọn lựa không thể ra khỏi nhà tù nếu không chịu rời bỏ Việt Nam, nhưng ông cũng chỉ chịu rời Việt Nam khi vợ, con và nhiều bạn bè khuyên ông nên chấp nhận ra nước ngoài. Năm 1998, từ nhà tù, ông được đưa thẳng tới sân bay Nội Bài để bay sang Mỹ.

Sáng 8 tháng 4, 2014 vừa qua, phái viên Kính Hòa của RFA phỏng vấn Giáo sư Đoàn Viết Hoạt về việc Cù Huy Hà Vũ được trả tự do và tức tốc đưa sang Mỹ. Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt phát biểu:

“Tôi nghĩ rằng nếu có thể thì chúng ta nên ở lại để đấu tranh. Tôi cũng muốn sớm được trở lại để đấu tranh với các bạn trong nước. Và ở ngoài này thì chúng ta phải vận động để thả ở trong nước chứ không đưa ra ngoài. Mỗi một người đi ra ngoài là mất một chiến sĩ trong nước, mà chiến sĩ ở trong nước mới là chính. Ngoài này chúng tôi chỉ hỗ trợ thôi. Khi sang ngoài này thì chúng tôi làm hết sức mình để hỗ trợ trong nước. Tất nhiên trong nước là cái chính, chúng ta phải bằng mọi giá đấu tranh để Hà nội thả anh em ra trong nước. Và phải chấp nhận những tiếng nói đối lập để đi đến dân chủ một cách ôn hòa bất bạo động.”

Ông Phạm Văn Thành, một người đã từng ở tù chung với giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhận xét trên Facebook về những lời phát biểu của giáo sư:

“Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đã trả lời rất thực lòng. Với bản thân tôi, tôi luôn luôn giữ lòng kính trọng với các quyết định của ông, kể cả quyết định chấp nhận đi ra nước ngoài, một quyết định tôi biết là cực kỳ khó khăn đối với ông, người mà tôi trân trọng gọi bằng thầy xưng con ngay từ khi anh em chúng tôi đón nhóm của ông chuyển từ trại Z30D Hàm Tân vào trại Trừng Giới A20 Xuân Phước cuối năm 1993. Thời gian ở trại A20 Xuân Phước, ông là người nỗ lực không ngừng nghỉ trong mục tiêu nâng cao khả năng lý luận cho những anh em tù chính trị đã bị giam cầm quá lâu (từ 1977 /1980/1984). Vốn liếng văn hóa, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế của ông đã làm chúng tôi bật ngửa và đặc biệt nhất là sự can trường và ý nhị của ông. Trước sự đeo bám của an ninh trại, ông bất chấp những đớn đau sẽ đến với mình và liên tục tham dự các buổi họp nhóm với tất cả các anh em tù kỳ cựu tổ chức. Nhiều người trong nhóm (nhóm Diễn Đàn Tự Do) của ông đã phải tránh hẳn ông vì sợ sự liên lụy. Bối cảnh ấy, anh em võ biền chúng tôi mới thật sự kính phục người mà trước đó nhiều anh em có ý không phục vì ông có liên quan đến những nhóm phản đối chính quyền miền Nam VNCH trước 1975. Bối cảnh trại A20 Xuân Phước, một trại khét tiếng tàn khốc với gần hai ngàn nấm mộ số (tính đến 1994) đã giúp cho chúng tôi nhận ra giá trị thực thụ của một kẻ sĩ. Một bậc trí thức thực sự.”

Về việc Giáo sư Đoàn Viết Hoạt ra đi. Cựu tù nhân chính trị Phạm Văn Thành cũng cho biết chính ông là người được giáo sư hỏi ý ngay khi ở trong tù. Hỏi ý nhiều khi không phải để nhận câu trả lời nhưng chỉ là cách để nhẹ những ưu tư đang đè nặng trong lòng.

Câu trả lời của giáo sư Đoàn Viết Hoạt và tiết lộ của một người ở tù chung nhiều năm với ông, cho chúng ta biết chọn lựa ra đi của ông là một chọn lựa khó khăn. Chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Ông ra đi mang theo một niềm tâm sự luôn chôn giấu trong lòng và tâm sự đó đã nhiều đêm làm ông trăn trở. Ông cho nhiều người thân biết khi máy bay bay lên trời cao, nhìn xuống thấy đất nước xa dần ông đã bật khóc, không cầm được nước mắt. Bởi ngày trở lại không biết đến bao giờ. Ông không bao giờ muốn rời xa quê hương nếu được tự do lựa chọn. Như ông đã chọn lựa trở về Việt Nam sau khi học xong bằng Tiến Sĩ ở Mỹ. Và sau khi CS chiếm miền nam ông cũng đã quyết định ở lại quê hương để tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng nhân chủ mà ông đã noi theo thân phụ ông từ khi còn trẻ.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt không phải là mẫu người hoạt động theo kiểu xông xáo đó đây nhưng là một nhà giáo dục, một cựu tù nhân lương tâm phát xuất từ miền Nam, một nhà tư tưởng, học ở Mỹ nên việc hội nhập vào sinh hoạt chính trị dòng chính Mỹ cũng như tham gia vào cộng đồng Việt Nam hải ngoại không mấy trở ngại khó khăn. Không giống như nhiều người tranh đấu khác chỉ tập trung vào các hoạt động có tính cách chiến thuật, ngắn hạn, giáo sư viết sách, phân tích tình hình quốc tế, sử dụng tích cực các mối quan hệ của cá nhân ông với quốc tế, đề nghị các chiến lược dài hạn cho các phong trào đấu tranh, vì thế, vai trò của ông tại hải ngoại có thể hữu hiệu không kém, nếu không muốn nói thuận lợi hơn, vai trò của ông khi còn ở trong nước.

Bác sĩ Nguyễn Đan Quế: Lưu đầy không phải là tự do

Một người bạn tù của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế thì khác, ông đã chọn lựa sống chết với quê hương ngay trong giờ phút Sài Gòn thoi thóp thở cho đến hôm nay.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong lúc nhiều người Việt Nam chạy ra sông, ra biển, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã chạy ngược dòng người, ông chạy về bệnh viện, nơi hàng trăm thiếu nhi Việt Nam bị thương tích và bệnh hoạn không có người chăm sóc, không có ngay cả một viên thuốc chống đau. Với chức năng của một bác sĩ và tình thương dành cho thể hệ thiếu nhi đang bị chế độ bỏ rơi, ông đã ở lại tiếp tục ngành chuyên môn của mình trong bệnh viện nhi đồng Sài Gòn. Tuy nhiên, một năm sau, trước những bất công, hà khắc mà chế độ CS áp đặt lên nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn từ trong bệnh viện nơi ông làm việc cho đến ngoài xã hội, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế phát động cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân bản cho dân tộc Việt Nam.

Từ đó, ông đã dấn thân vào hành trình tranh đấu cho một Việt Nam tự do dân chủ và nhân bản. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị bắt nhiều lần và có những bản án kéo dài hàng chục năm qua nhiều trại tù lớn ở miền Nam:

- Lần thứ nhất: Mười năm, từ 1978 đến 1988, trong đó có thời gian dài bị biệt giam vì đã sáng lập Mặt trận Dân tộc Tiến bộ "với âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản". Không đưa ra tòa xét xử.

- Lần thứ nhì: Ngày 29 tháng 11 năm 1991, trong phiên tòa chỉ vỏn vẹn ba mươi phút, CSVN đã xử Bác sĩ Nguyễn Đan Quế 20 năm khổ sai và 5 năm quản chế vì "hoạt động lật đổ chính quyền". Đến năm 1993, Bác sĩ Quế bị đưa đi lao động khổ sai ở trại K4 Xuyên Mộc (Bà Rịa) và ở trại K3 Xuân Lộc, cách Sài Gòn 80 cây số về hướng Đông Bắc. Mặc dù sức khỏe của ông ngày càng yếu, quản giáo CSVN vẫn tìm cách hành hạ ông bằng lao động khổ sai và biệt giam.

- Lần thứ ba: Bị bắt năm 2003 vì lên tiếng tranh đấu cho tự do thông tin và phát biểu. Lần nữa, trước áp lực quốc tế và đồng bào trong cũng như ngoài nước. CSVN đã buột phải thả Bác sĩ Nguyễn Đan Quế vào năm 2005.

- Lần thứ tư: Bị bắt vào cuối tháng 2 năm 2011, sau khi công bố “Lời kêu gọi toàn dân xuống đường cứu nước”. CSVN trả ông về nhà sau khi bị tạm giữ 48 giờ.

Năm 1998, trước áp lực quốc tế, chính quyền cộng sản đồng ý thả bác sĩ Nguyễn Đan Quế với điều kiện ông phải rời Việt Nam.

Với hai mươi năm tù tội, CSVN nghĩ rằng bác sĩ đã cạn kiệt tinh thần cũng như thể lực và phải chọn con đường bình an nhất cho những ngày tháng cuối đời là ra đi. Nhưng họ đã lầm. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế từ chối. “Lưu đầy không phải là tự do” ông tuyên bố một cách khẳng khái. Tự do của một người chỉ trọn vẹn ý nghĩa nếu được tự do trên quê hương mình và cùng với dân tộc mình. Không có tự do dành cho những kẻ bị lưu đày. Cuối cùng, Cộng Sản đành thả ông và giam lỏng ông tại Sài Gòn.

Ngày 11 tháng 5 năm 2014 sắp tới đây đánh dấu 24 năm ngày Bác sĩ Nguyễn Đan Quế công bố Bản Tuyên Bố của Cao Trào Nhân Bản kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, các chính phủ và nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ khắp thế giới tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh bất bạo động đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải (a) Tôn trọng các nhân quyền căn bản của người dân Việt Nam. (b) Phải chấp nhận sinh hoạt chính trị đa nguyên. (c) Phải trả lại cho người dân Việt Nam quyền được lựa chọn một thế chế chính trị phù hợp với nguyện vọng của mình qua các cuộc bầu cử tự đó và công bằng dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc.

Hôm nay, bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã 73 tuổi với gần một nửa đời người trong tù tội lao lung. Ngọn đèn nhân sinh có thể một ngày sẽ tắt nhưng ngọn đèn nhân bản ông thắp lên trong ngày 11 tháng 5 năm 1990 chẳng những không tắt mà mỗi ngày một sáng hơn. Hai mươi năm trước, phong trào xã hội dân sự tại Việt Nam chỉ có Cao Trào Nhân Bản và Diễn Đàn Tự Do, hôm nay hàng trăm nhóm, phong trào, mạng lưới internet, tập hợp xã hội dân sự đang được ra đời và phát triển. Con đường ông đi ngày đó chỉ có một vài dấu chân lẻ loi đơn độc, hôm nay, hàng trăm, hàng ngàn người cùng đi. Tuổi trẻ Việt Nam xem bác sĩ như là một người cha, người chú, một chỗ dựa tinh thần, một nơi để tìm nguồn an ủi trong những lúc khó khăn. Và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, cũng giống như trong buổi chiều 30 tháng Tư, 1975 lại tiếp tục săn sóc, khuyên răn các em bằng đức tính khiêm cung và tấm lòng nhân ái.

Cù Huy Hà Vũ và Mount Everest đang chờ

Cù Huy Hà Vũ là một người đa tài. Anh sinh ngày 2 tháng 12 năm 1957 tại xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh). Anh tốt nghiệp tiến sĩ luật học, thạc sĩ văn chương, họa sĩ nhưng được biết đến nhiều nhất như một nhân vật bất đồng chính kiến với nhà nước CSVN. Anh bị bắt ngày vào 5 tháng 11 năm 2010 tại Sài Gòn và bị khởi tố ngày 15 tháng 11 năm 2010 về tội danh quen thuộc của CS “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Anh bị kết án 7 năm tù. Phiên tòa ngày 2 tháng 8 năm 2013 giữ nguyên bản án. Tuy nhiên, trong lúc đang ở tù, anh Cù Huy Hà Vũ được CS phóng thích và cùng vợ đi thẳng sang Mỹ ngày 7 tháng Tư năm 2014.

Cù Huy Hà Vũ ra khỏi nhà tù CS là một tin vui chung cho phong trào dân chủ Việt Nam. Cuộc vận động và tranh đấu thay mặt anh đã diễn ra không ngừng trên mọi lãnh vực, mọi bình diện, mọi phương tiện, mọi giới và mọi tầm vóc đã có hiệu quả. Trong nước Cù Huy Hà Vũ đã trở thành niềm thôi thúc của tuổi trẻ dấn thân. Ngoài nước, Cù Huy Hà Vũ đứng hàng đầu trong danh sách tù nhân mà các tổ chức nhân quyền dùng để gây áp lực cho CSVN. Phần lớn các nhà phân tích và đồng bào quan tâm đều nghĩ CSVN phải trả tự do cho anh sớm. Và họ đoán đúng. Tuy nhiên thay vì trở về với bạn bè cùng tranh đấu, với công cuộc vận động dân chủ đang quá cần anh, với phong trào bảo vệ Hoàng Sa Trường Sa mà anh từng gắn bó, anh được đưa từ nhà tù sang Mỹ ngay là một tin làm nhiều người ngạc nhiên. Không ít người thất vọng, lo lắng và ngay cả buồn phiền.

Lần nữa, chọn lựa đi hay ở là chọn lựa cá nhân. Nếu anh chọn ra đi để chửa bịnh và được sống bình an sau những năm tháng dài đấu tranh mệt mỏi ở Việt Nam thì đó là chọn lựa riêng tư. Mỗi người trong thế giới này có quyền chọn lựa một cách sống riêng cho mình và gia đình mình. Quyết định đó phải được tôn trọng. Đất nước Việt Nam là của 90 triệu người chứ không phải chỉ của một mình Cù Huy Hà Vũ. Và đừng quên, phong trào dân chủ từ thập niên 1990 đến nay có những lãnh tụ đấu tranh tưởng chừng như “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” đã tự biến mất đi không để lại một dấu vết gì. Thỏa hiệp, đầu hàng, mệt mỏi hay dù gì cũng không ai trách và sau một thời gian sẽ không còn ai nhắc. Cuộc vận động dân chủ như một chuyến tàu, tại mỗi sân ga, có người bước xuống nhưng cũng có người khác bước lên. Lịch sử đã, đang và sẽ diễn ra như thế.

Nhưng nếu anh Cù Huy Hà Vũ chọn ra nước ngoài để vừa được bình an vừa tiếp tục con đường tranh đấu như phương cách anh đã làm trong nước thì đó sẽ là một chọn lựa vô cùng khó khăn để thực hiện:

- Phương pháp đấu tranh: Từ trước đến nay, anh Cù Huy Hà Vũ chọn phương pháp đấu tranh trong vòng cơ chế, nghĩa là chấp nhận và dựa trên hiến pháp CS, luật pháp CS. Anh từng ứng cử vào chức vụ Bộ trưởng Thông Tin, tranh cử Đại biểu Quốc Hôi. Anh từng kiện Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên, kiện cả Thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng, đòi hỏi phải thay đổi hiến pháp. Nói chung, anh tìm mọi kẽ hở của chế độ để tấn công, nhưng những kẽ hở đó đã được đóng lại cùng lúc với cánh cửa máy bay. Điều kiện đầu tiên để đấu tranh trong vòng cơ chế là phải có mặt. Không gian đấu tranh chính trị như thế không tồn tại ở hải ngoại. Ở Mỹ không có “gậy ông” để anh “đập lưng ông”. Lịch sử đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc có rất nhiều người đã đấu tranh trong vòng cơ chế thực dân như Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, nhà báo Nguyễn Phan Long, kỹ sư Bùi Quang Chiêu, nhà văn Diệp Văn Kỳ v.v... và đã giúp tạo nền móng vững chắc cho chế độ dân chủ tại miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975 nhưng họ đều trực diện một mất một còn với chế độ thực dân tại Việt Nam.

- Hậu thuẫn đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ vận dụng tích cực các mối quan hệ cá nhân, gia đình, môi trường xã hội mà anh xuất phát để làm điểm tựa đấu tranh. Những điều kiện đó thuận lợi bao nhiêu ở trong nước sẽ bất lợi bấy nhiêu ở hải ngoại. Giả thiết rằng điểm hẹn cuối cùng trong hành trình tranh đấu của anh Cù Huy Hà Vũ cũng là một nước Việt Nam tự do dân chủ như phần lớn người Việt trong và ngoài nước đang tranh đấu, điểm khởi hành của anh phát xuất từ trong lòng chế độ CS và vì thế không đi cùng một ngã với đại đa số người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại không phải bao giờ cũng bằng mặt, bằng lòng với nhau nhưng có một lập trường dứt khoát giống nhau đối với chế độ CS như một điều kiện tiền đề, không có chuyện “tuy nhiên”, “lẽ ra” hay “nói gì thì nói” nào cả.

- Lý luận đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ không phải là nhà tư tưởng hay nhà lý luận. Hầu hết các hoạt động của anh chỉ mang tính chiến thuật, ngắn hạn, gây khó khăn cho chế độ nhưng không tấn công vào nền tảng của ý thức hệ Mác Lê và các nguyên nhân dẫn đến một đất nước điêu tàn, nghèo đói, phân hóa như hôm nay. Có thể phương cách đấu tranh đó anh nghĩ là thích hợp nhưng trong điều kiện hải ngoại những chiến thuật như thế không hiệu quả và cũng không thuyết phục được bao nhiêu người. Tham nhũng tại Việt Nam có tính đảng và sinh sôi nảy nở tốt tươi dưới bóng cây cổ thụ quyền lực của đảng, do đó, đánh tham nhũng mà tránh đánh vào đảng CS cũng chẳng khác gì đánh vào chiếc bóng đen mà để yên cho kẻ trộm dọn nhà mình.

Anh Cù Huy Hà Vũ có thể nói đã một mình đã tạo nên một phong trào đấu tranh đầy sinh động. Các nhà chiến lược và lý luận có thể không đánh giá anh cao nhưng cách đấu tranh của anh lại dễ gây phong trào quần chúng và gây khó cho lãnh đạo CS. Nhiều bạn trẻ đã khóc, đã xuống đường, đã bị tù vì anh khi anh bị chế độ CS hạ nhục. Nhiều cụ già đã thương quý anh như con, như cháu khi anh bị lao tù. Ngoài việc can đảm, gan dạ, với tuổi trung niên, anh là chất keo nối kết các tầng lớp xã hội. Quốc tế nhìn anh như một lãnh tụ đấu tranh nổi bật của giai đoạn này và luôn dùng để gây áp lực nhân quyền với chế độ. Nhưng chất keo đó chỉ còn là những giọt nước mưa rớt rơi trên mặt phi đạo khi chuyến bay mang anh đi vừa cất cánh. Nụ cười và dấu V chiến thắng của anh đưa lên khi ra khỏi phi trường Dulles ở Washington DC có thể chỉ để xã giao với người đang cầm máy ảnh nhưng làm đắng cay cho bao nhiêu đồng bào, anh em đang kỳ vọng ở nơi anh.

Lịch sử cũng từng chứng minh không phải đi là hết

Rất nhiều chính khách đối lập lưu vong hay tự lưu vong ở nước ngoài sau đó đã trở về và thành công trong việc lãnh đạo quốc gia như Benazir Bhutto, Kim Đại Trọng ở Á Châu, Jacob Zuma, Moncef Marzouki của Phi Châu và nhiều người khác.

Nhiều độc giả đã biết trường hợp Kim Đại Trọng của Nam Hàn và Benazir Bhutto của Parkistan, xin giới thiệu trường hợp của Tổng thống Tunisia Moncef Marzouki mới đây. Sau khi tốt nghiệp bác sĩ tại đại học Strasbourg, Pháp, Bác sĩ Moncef Marzouki trở lại Tunisia và thành lập Trung Tâm Y Tế Cộng Đồng để ngăn chận lạm dụng thiếu nhi. Bác sĩ Moncef Marzouki không có tham vọng chính trị nhưng trước việc nhà độc tài Ben Ali trấn áp một cách dã man các thành phần đối lập, ông đã đứng ra thành lập Ủy Ban Quốc Gia Bảo Vệ Tù Nhân Lương Tâm (the National Committee for the Defense of Prisoners of Conscience). Ông bị tù nhiều lần trước khi lưu vong sang Pháp. Tại Pháp, ông tiếp tục lãnh đạo Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa (Congrès pour la République) gọi tắt là CPR. Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa quy tụ một tập thể trí thức thuộc nhiều tôn giáo, thành phần xã hội, hữu và tả, Arab và không Arab nhưng theo đuổi một mục tiêu tối hậu là thành lập một chế độ Cộng Hòa đầu tiên tại Tunisia bao gồm tự do ngôn luận, tự do hội hộp, tự do bầu cử và ứng cử. CPR đòi hỏi một hiến pháp mới đặt cơ sở trên các nguyên tắc của chế độ Cộng Hòa. Sau khi nhà độc tài Ben Ali bị lật đổ, Moncef Marzouki trở về Tunisia để tham gia cuộc bầu cử quốc hội và được chọn làm Tổng thống của Tunisia ngày 12 tháng 12 năm 2011. Trả lời báo chí, Moncef Marzouki phát biểu về nhiệm vụ chính của ông ta “Khi một đất nước phải trải qua 50 năm độc tài, nhiệm vụ chính của tôi là ngăn chận độc tài tái diễn”.

Còn hơi sớm để đánh giá, nhận xét về việc anh Cù Huy Hà Vũ ra đi bởi vì có thể có nhiều yếu tố về phía Mỹ, phía CSVN và cả cá nhân anh vẫn chưa được biết, chưa được tiết lộ, chưa được tỏ bày. Những điểm người viết trình bày không có ý phê bình, chỉ trích nhưng chỉ muốn nêu ra một cách thẳng thắn về những hoàn cảnh và tình huống mà anh Cù Huy Hà Vũ có thể sẽ phải đương đầu trong những ngày tháng tới. Nếu anh chỉ muốn có cuộc sống bình an, đọc sách, họa, nghiên cứu luật sẽ không có gì để nói nhưng nếu anh tiếp tục dấn thân trên đường đấu tranh như đã từng làm thì trước mặt là đỉnh Everest đang đợi chờ anh.

Một góp ý chung cho tất cả những người ra đi, dù ra đi bằng ghe như kẻ viết bài này hay bằng máy bay như các lãnh tụ đấu tranh: Xa đất nước là một bất hạnh và ra đi, dù viện dẫn bất cứ một lý do gì, cũng có lỗi với quê hương.

Trần Trung Đạo

Đôi lời về việc Cù Huy Hà Vũ được thả tự do sang Mỹ - Ls Nguyễn Văn Đài

Đôi lời về việc Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ được thả tự do sang Mỹ

Ls Nguyễn Văn Đài

Đây là một thất bại và mất mát của phong trào Dân chủ và những người dân đang khao khát tự do. Chúng ta đã không đủ sức mạnh để buộc chính quyền thả tự do cho Tiến sĩ Vũ tại Việt Nam. Để ông tiếp tục đóng góp cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.

Và là một thành công của chính quyền CS, bởi họ đã đạt được 2 mục tiêu: Đáp ứng đòi hỏi của quốc tế và trục xuất được một người kiên cường đấu tranh đòi đa đảng. Chính quyền CS luôn luôn muốn những người bất đồng chính kiến với họ đi khỏi Việt Nam. Để họ được tự do cai trị hay áp bức nhân dân theo ý thích của họ.

Bản thân tôi khi đang ở tù, an ninh nhiều lần hỏi, gợi ý thả tự do cho tôi đi nước ngoài, nhưng tôi không chấp nhận. Ngay cả hiện tại, mỗi lần làm việc với họ, họ đều bảo tôi sao không đi định cư để đỡ làm phiền họ.

Nhưng tôi luôn nói với họ rằng: Những người dân Việt Nam đang khao khát tự do, dân chủ mới cần đến tôi, còn nước Mỹ đã có tự do, dân chủ hàng trăm năm rồi. Tôi sang đó sẽ thành người vô dụng.

LS Nguyễn Văn Đài

MỘT BẦY TÀ LỌT CHE TRỜI ĐƯỢC SAO? - Nguyễn Thiếu Nhẫn

MỘT BẦY TÀ LỌT CHE TRỜI ĐƯỢC SAO?

Nguyễn Thiếu Nhẫn
    Thương ai khuyên nhủ một lời: Một bầy tà lọt che trời được sao?(thơ Nguyễn Đạt)

Cách đây 19 năm, năm 1995, khi bài phỏng vấn của Vị Giang (mà dư luận cho biết là bút hiệu của ông Nguyễn Ngọc Linh) của báo Ngày Nay ở Houston đăng tải với tựa đề “Phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến về giao lưu văn hóa và thiên Cộng”, tôi đã có viết bài trả lời. (Xin xem phụ bản)

Từ bấy tới nay, nhà văn Nhật Tiến (NT) vẫn tiếp tục con đường “giao lưu văn hóa và thiên Cộng”.

Về cuối đời, ông ta in vài cuốn sách hy vọng gỡ gạc cái “uy tín” đã bị mục nát vì những việc làm phản bội lại chế độ Việt Nam Cộng Hoà là cái chế độ đã nuôi dưỡng ông ta và gia đình ông ta, đã trao Giải Thưởng Văn Chương cho ông ta.

Khi có người lên tiếng về những việc làm “hôn đít bạo quyền” của ông ta thì ông ta lại xua gia đình, con cái, tay chân bộ hạ ra làm những chuyện chẳng ra làm sao cả.

Và chuyện khôi hài là ông ta đưa các bài phỏng vấn của Mặc Lâm (đài RFA) của Đinh Quang Anh Thái (báo Người Việt) ra để khoe!. Trong khi thực tế, chính ông ta phải biết những bài phỏng vấn cò mồi của bọn tay chân bộ hạ của ông ta đâu có làm phai nhạt mùi “hôn đít bạo quyền” của ông ta!

Bài viết này không có mục đích trả lời ông NT vì xét thấy không cần thiết mà chỉ xin đưa ra nhận xét của một số người cầm bút nhận xét về ông NT để rộng đường dư luận.

Xin bàn đến tư cách nhà văn của NT:

“Chúng tôi không coi Nhật Tiến là nhà văn quốc gia; vì hai chữ “quốc gia” đã bị chính ông phủ nhận.

Nhưng trên tất cả, NT cũng không thể là “nhà văn dân tộc” như ông tự nhận. Thái độ chà đạp lên tư cách tị nạn, cùng sự an nguy của hang trăm ngàn đồng cảnh hiện sống ngoi ngóp trong các trại tị nạn là hành động phi dân tộc, phản bội lại tổ quốc, phản bội đồng bào.

Cuối cùng, chúng tôi cũng không tiện coi NT là “nhà văn” nữa vì chính ông ta đã tự đặt tư cách “nhà văn” dưới tư cách công dân xã hội chủ nghĩa. Ông đã đánh mất chức năng nhà văn, đã đảm nhận công tác tuyên truyền cho một chế độ đi ngược lại mọi truyền thống dân tộc. Với tôi, bốn chữ “chim hót trong lồng” đã vận vào vào người Nhật Tiến”. (Trích “Chuyện nhà văn - Nguyễn Hữu Nghĩa).

Xin bàn đến việc làm của NT:

Trong một bài viết theo lối fiction có cái tựa “Chém đá và Nhật Tiến” nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật có bút hiệu Sắc Không viết như sau:

“Trong số những người cật vấn Sắc Không, hân hạnh thay có cả nhà văn NT, tác giả tập “Chim Hót Trong Lồng” (có giê) hôm qua đã gay gắt hỏi Sắc Không:

- Này! Anh thấy tôi và Nguyễn Chí Thiện (NCT) khác nhau chỗ nào?
- …
- Cứ nói! Giữa hai lằn đạn bắn ra /Một mình đi tới mà ta chẳng sờn. Huống hồ…
- Khác ở chỗ này: Bùi Nhật Tiến là nhân vật cai ngục trong thơ NCT và NCT là bà sơ trong truyện của Bùi Nhật Tiến!

Chưa hết, nhà văn NT còn cố hỏi thêm:

- Người ta bảo ở hải ngoại này có “Tam Bùi qui độc”. Hai người kia là Bùi Duy Tâm và Bùi Tín. Lạ thật, tên ba anh em chúng tôi, cùng khác mẹ cha, đều vần T. Nhưng anh thấy ai đáng mắt “đệ nhất độc”?
- Không dám. Nhưng nhà thơ Mậu Binh Hà Huyền Chi có một bài thơ nói về việc ấy. Ông có thể nghe…?
- Được!
- Tôi xin đọc:
    “Chó săn thua đứt chim mồi Những tên cầm-bút-làm-bồi, gáy vang.Sông Đà nổi bọt sớm tan Giả làm Mặt Thật càng tàn rụi nhanh Quê Người hết em lại anhRa công giấu vuốt, che nanh Quê Nhà Sự thật sao không nói raBởi đâu con trẻ, người già đói ăn?”
Nhà thơ Nguyễn Đạt hỏi Nhật Tiến: Che trời được sao?
    “‘Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’ Bể dâu đá nát vàng phaiNhà văn, nhà giáo mấy ngài đứng raLom khom ôm đít gian tà‘Trăm hoa vẫn nở’ làm quà tiến thân Trải qua một cuộc phong vânHàng thần lơ láo số phần thế thôiBây giờ bình tĩnh ra rồi Cổ còn cà vạt phấn dồi son tôPhe lờ cái chuyện bưng bô ‘Hành trình chữ nghĩa’ mở show mời chàoĐầu Xuân đổ trận mưa ràoSon phai phấn nhạt làm sao đắt hàng? Trời cao đất rộng thênh thangMặt trời tỏa ánh chói chang xuống trần Chữ tâm quý giá vô ngầnHữu tài vô hạnh xoay vần uổng côngBôn ba Nam Bắc Tây Đông Chạy qua chạy lại chạy rông sốt đờiThương ai khuyên nhủ một lờiMột bầy tà lọt che trời được sao?”
*
* *

Phụ Bản: TRẢ LỜI NHÀ VĂN NHẬT TIẾN

Nguyễn Thiếu Nhẫn

Khi cuộc hội thảo “Bể Dâu” do tên tay sai VC Vũ Đức Vượng tổ chức tại San Francisco, tôi có viết bài “Máu Nào Đã Đổ Xuống, Mực Nào Đã Viết Ra Trong Cuộc Bể Dâu Này?” với đoạn kết như sau:

“Yukio Mishima, tác giả Kim Các Tự, nhà văn Nhật Bản được đề nghị dự giải thưởng văn chương Nobel, người chủ trương nước Nhật phải phục hồi chế độ quân phiệt. Nhà cầm quyền Nhật không thực hiện, nhà văn đã mổ bụng tự sát để bày tỏ thái độ vào năm 1970.
Solzhenitsyn - Kẻ Sống Sót Vĩ Đại - đã giữ tròn lời hứa “chỉ trở về nước khi đất nước không còn thống trị bởi chủ nghĩa cộng sản”. Vậy mà khi trở về chưa làm được gì cho đất nước đã bắt đầu rơi vào quên lãng của dư luận quần chúng. Điều đáng nói là ông nhà văn này được giải thưởng Nobel Văn chương và bị nhà cầm quyền Xô Viết trục xuất ra khỏi nước.

Những người cầm bút các nước khác là như vậy.
Còn những nhà văn “uy thế văn nghệ đầy mình” của chúng ta, thì sao?
“Máu” nào đã đổ xuống, “mực” nào đã viết ra trong cuộc “bể dâu” này?”

Trong bài viết, tôi có đề cập đến nhà văn Nhật Tiến và các nhà văn có truyện in trong tuyển tập “Phía Bên Kia Thiên Đường” (The Other Side Of Heaven). Người tôi đặt vấn đề là nhà văn Võ Phiến, vì lòng mến phục nhà văn này và tôi không tin là nhà văn Võ Phiến, người đã đổ ra không biết bao nhiêu là MỰC để ghi lại những trang sử đẫm MÁU của suốt chiều dài cuộc nội chiến, ngoại khiển vừa qua lại dùng “uy thế văn nghệ” của mình để tiếp tay bọn “bồi thần” mở màn chiến dịch giao lưu văn hoá tấn công vào cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại.

Bài viết đã được báo chí khắp nơi đăng tải.
Mới đây, tôi có đọc bài “Phỏng Vấn Nhà Văn Nhật Tiến Về Giao Lưu Văn Hoá Và Thiên Cộng” do tác giả Vị Giang (mà dư luận cho biết là một bút hiệu của ông Nguyễn Ngọc Linh) của báo Ngày Nay ở Houston thực hiện, được đăng lại trong mục Tạp Ghi của nhật báo Thời Báo ở San Jose.

Trong bài trả lời cuộc phỏng vấn, ông nhà văn Nhật Tiến có phát biểu là tôi (Nguyễn Thiếu Nhẫn) là “một ngòi bút bất xứng”.

Vì bài Tạp Ghi được đăng lại có thể do sự nhầm lẫn của tờ Thời Báo nên các câu hỏi và câu trả lời có phần lộn xộn, khó hiểu. Tôi xin đăng lại các đoạn mà ông nhà văn Nhật Tiến trả lời có liên quan đến tôi, như sau:

“…Đã đến lúc ta phải loại bỏ cái tâm lý cần có một cái dù phi đạo đức đến đâu để hạ nhục người khác. Nhưng ông Nguyễn Thiếu Nhẫn không hiểu được rằng, khi viết ra những giòng đầy ác ý, xuyên tạc như thế, không những ông ta đã vấy bùn lên ngòi bút của chính ông mà còn lên cả cái lý tưởng chống Cộng mà ông ta theo đuổi. Bởi vì, người chống Cộng nghiêm chỉnh không bao giờ cần xài tới những phương thức thấp kém như thế. Một chi tiết cụ thể khác cho thấy ông Nhẫn viết ra mà không bao giờ quan tâm đến sự trung thực của ngòi bút vốn vẫn là sự liêm sỉ cần thiết của giới làm văn… Tôi vượt biển năm 1979, trôi dạt vào Thái Lan, tạm trú tại trại tỵ nạn Songkla. Nhà tôi và các cháu vượt biển gần một năm sau đó, theo ngả Mã Lai và tạm trú tại trại tỵ nạn Pulau Tengah, ai đã từng ở trại này vào khoảng từ giữa đến gần cuối năm đều thấy rõ. Vậy mà gọi là tôi “dẫn” vợ con xuống thuyền vượt biển được ư? Đã nói thì cũng nên nói cho hết, cái sự ông Nguyễn Thiếu Nhẫn đề dẫn chi tiết tôi gặp cướp Thái Lan vốn chẳng ăn nhập gì đến thái độ chính trị hay tư cách riêng tư gì của tôi, nó chỉ bộc lộ ra trước người đọc cái tâm địa hẹp hòi của một kẻ chẳng bao giờ có chút lòng thương xót nào đối với những nỗi khổ đau tột cùng của biết bao phụ nữ đã phải chịu trên đường vượt biển. Bởi vì nếu chỉ có một chút, một chút thôi, tấm lòng thương xót đó thì sẽ chẳng bao giờ ông Nguyễn Thiếu Nhẫn và những người có cùng tâm địa giống ông lại viết ra những điều như thế.”

- Hỏi: Cũng nằm trong lãnh vực liên quan tới cuốn sách The Other Side Of Heaven đã và đang gây nhiều dư luận trong cộng đồng, tôi xin nêu thêm một câu hỏi có liên hệ trực tiếp đến anh. Trong một bài viết phê phán về sự xuất bản của cuốn sách nói trên đăng trên tờ Saigon Times ở Los Angeles, tác giả là nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn có nêu đích danh tên của anh và nói rằng sau 30 tháng Tư nam 1975, anh đã đeo băng đỏ, hướng dẫn “công an nhân dân” đi bắt văn nghệ sĩ… phản động để lập công, rốt cuộc chẳng được trả công bèn dẫn vợ con xuống thuyền vượt biển, gặp cướp Thái Lan. Anh nghĩ sao về lời cáo buộc này?

- Nhật Tiến: Chuyện đó thực hay hư, tôi tưởng đã có đủ thời gian (gần 20 năm rồi) để kiểm chứng. Hiện nay, đã có biết bao nhiêu văn nghệ sĩ đã từng bị Cộng sản cầm tù, bây giờ đã ra sinh sống ở hải ngoại, bất cứ ai cũng có thể hỏi cho rõ ràng. Nhưng ông Nguyễn Thiếu Nhẫn quả đã thiếu kiên nhẫn để làm cái việc kiểm chứng về những điều mà ông ấy viết ra. Tuy nhiên cũng có thể là ông ta thấy không cần thiết phải làm chuyện đó, bởi ông ta cho rằng hễ cứ nhân danh chống Cộng là có quyền sử dụng mọi phương cách, xem chuyện bất hạnh vì nạn hải tặc của thuyền nhân như một thứ võ khí dùng để tấn công hay hạ nhục chính những thuyền nhân đó. Đây là lần đầu tiên tôi đã bỏ nhiều lời lẽ để nói về một ngòi bút bất xứng.”

Trước khi đi vào việc thử bàn coi “ai xứng, ai bất xứng”, xin đề nghị ông nhà văn Nhật Tiến và độc giả đọc lại hai đoạn có liên quan đến ông Nhật Tiến trong bài viết “Máu nào đã đổ xuống, mực nào đã viết ra trong cuộc bể dâu này?”, như sau:

“… Việt Nam cũng có nhà văn đoạt Giải Thưởng Văn Chương Quốc Gia (dĩ nhiên không thể so sánh với giải văn chương Nobel) nhưng cũng là giải thưởng văn chương. Theo tin tức báo chí được viết ra ở nước ngoài thì, sau 30 tháng Tư năm 1975, nhà văn này đã đeo băng đỏ, hướng dẫn “công an nhân dân” đi bắt văn nghệ sĩ… phản động để lập công với nhà cầm quyền Việt Cộng. Rốt cuộc chẳng được trả công. Buồn tình bèn dẫn vợ con vượt biển Đông. Tàu bị cướp Thái Lan. Chuyện tàu bị cướp Thái Lan thì thân phận của những đàn bà, con gái trên tàu ra sao mọi người đã rõ. Sau một thời gian ở quê người nhà văn này lại tuyên bố sẽ trở về Việt Nam để tìm chất liệu sáng tác vì, ra nước ngoài nhà văn đã cạn nguồn sáng tác, cả năm chỉ in được vài tập truyện. Chuyện “Trăm hoa vẫn nở trên quê hương” như thế nào, mọi người đều đã biết. Năm rồi, nhà văn lại đứng tên chung với người em là một nhà văn ở trong nước để xuất bản một tập truyện. Chuyện này trong họ, ngoài làng cũng đã biết.

Người tôi vừa đề cập trên là nhà văn Nhật Tiến.

… Viết là một cách bày tỏ thái độ chính trị.

Ai cũng có quyền thương yêu, thù hận trong đời. Ai cũng có quyền tự do chọn lựa đi bên này sông hoặc bên kia sông. Cũng có người chọn giữa dòng mà đi.

Tôi xin “chào thua” cách xuất xử của nhà văn Nhật Tiến - người mà nhà văn Mai Thảo gọi là “người đứng ngoài nắng” nhưng bây giờ ông lại chọn đứng vào bóng tối.”

Qua trích đoạn trên, một người đọc bình thường nào cũng nhận ra là tôi đã dùng thể NGHI VẤN với nhóm chữ “theo tin tức báo chí được viết ra ở nước ngoài”, tôi không hiểu vì lý do gì, người phỏng vấn ông nhà văn Nhật Tiến của báo Ngày Nay lại nêu câu hỏi: “… nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn có nêu đích danh tên của anh và nói rằng sau 30 tháng Tư năm 1975, ANH ĐÃ…”, tức cố ý chuyển mạch văn của tôi viết thành thể KHẲNG ĐỊNH.

Bài viết của tôi đã đăng trên các nhật báo Việt Nam, Chính Đạo, Mê-Kông tỵ nạn ở Bắc California, Saigon Times ở Los Angeles, tạp chí Xây Dựng ở Houston và tạp chí Văn nghệ Tiền Phong ở Virginia.

Ông nhà văn Nhật Tiến, có thể vì cao ngạo hay vì một lý do nào đó, không đọc bài viết của tôi, chỉ nghe ông/bà Vị Giang của báo Ngày Nay đặt câu hỏi như trên là đã cho rằng tôi “thiếu kiên nhẫn để kiểm chứng những điều mà ông đã viết ra”.

Về điều mà ông cho rằng tôi có quan niệm “hễ cứ nhân danh chống Cộng là có quyền sử dụng mọi phương cách, xem chuyện bất hạnh vì nạn hải tặccủa thuyền nhân như một thứ võ khí dùng để tấn công hay hạ nhục những thuyền nhân đó” là lời cáo buộc hàm hồ, ngậm máu phun người! Lý do là tôi và gia đình là nạn nhân của chuyến vượt biển hai lần bị hải tặc vào năm 1986. Chính vì lòng thương xót đối với những nỗi khổ đau tột cùng của những phụ nữ Việt Nam trên đường vượt biển mà tôi phải buộc lòng lên tiếng về chuyện giao lưu, hợp lưu và những việc làm có lợi cho Việt Cộng của ông Nhật Tiến.

Về nhóm chữ “đeo bảng đỏ”, hướng dẫn “công an nhân dân” đi bắt văn nghệ sĩ phản động…” há ông Nhật Tiến không biết đây chỉ là cách nói để ám chỉ những kẻ xum xoe nịnh bợ, làm công việc chỉ điểm để được yên thân, hay sao?

Đã không KHẲNG ĐỊNH tại sao tôi lại phải đi kiểm chứng? Cứ cho là ông Nhật Tiến không có làm cái chuyện hèn hạ đó nhưng chắc ông Nhật Tiến có tham gia Hội Nhà Văn Yêu Nước của thành phố Hồ Chí Minh “rực rỡ tên vàng”?

Là một người-lính-cầm-bút để tiếp tục cuộc chiến bị bức tử từ tháng Tư tai họa năm xưa;
Là một cựu tù nhân của 6 trại “cải tạo” từ Nam ra Bắc và hai trung tâm tạm giam;
Là một thuyền nhân mà bản thân và gia đình đã bị hải tặc hai lần tấn công trên chiếc thuyền vượt biển qua ngã Mã Lai vào năm 1986; tôi không có thừa BÙN để VẤY VÀO NGƯỜI KHÁC hoặc vấy vào chính ngòi bút của mình.

Nếu có, chỉ là MÁU CỦA CON TIM VÀ KHỐI ÓC! Tôi không dám tự hào như Phùng Quán “dùng dao viết văn trên đá” nhưng những điều tôi viết ra, những sách vở tôi đã in, tôi không có gì để thẹn với LUƠNG TÂM và NGÒI BÚT của mình.

Tôi “bất xứng” hơn ông Nhật Tiến là chưa có ai phỏng vấn tôi về “giao lưu văn hóa và thiên Cộng”;
Tôi “bất xứng” hơn ông Nhật Tiến là chưa về Việt Nam để “tìm chất liệu để sáng tác”;
Tôi “bất xứng” hơn ông Nhật Tiến là tôi chưa có sách được in và phát hành ở trong nước;
Tôi “bất xứng” hơn ông Nhật Tiến là tôi chưa có được báo Thanh Niên ở trong nước phỏng vấn để tuyên bố những lời nặng mùi hôn đít bạo quyền là “quê hương đã có nhiều thay đổi, nhất là về kinh tế và chính sách ngoại giao”;

Và, tôi càng “bất xứng” hơn ông Nhật Tiến khi không dám nghĩ rằng: “Việc in chung tác phẩm với nhà văn ở trong nước tại quê nhà cũng là một bước cụ thể trong tiến trình hòa hợp trên tinh thần dân tộc để xây dựng một đất nước phồn thịnh mà tôi vẫn hằng suy nghĩ từ gần 10 năm qua” - như ông nhà văn Nhật Tiến đã suy nghĩ và tuyên bố với báo Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của Thành đoàn Thanh Niên Cộng sản VN, ở trong nước.

Có điều những suy nghĩ và việc làm đó có đúng hay không lại là chuyện khác. Và đã có bao nhiêu người cầm bút được “biệt đãi” in sách phổ biến trong nước như ông và ông cựu Thiếu Tướng QLVNCH Đỗ Mậu - người vừa được báo Đại Đoàn Kết số ra ngày 28-8-1995 kỷ niệm “50 năm Cách Mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2-9” trích dẫn những lời ông ta thoá mạ những người chống Cộng, tôn vinh ông Hồ Chí Minh và những người cộng sản.

Tôi lại càng “bất xứng” vì đã không viết được sách tiên đoán: “Vì chính sách đổi mới của nhà nước và nền kinh tế thị trường là phép lạ đưa Việt Nam tiến lên hàng quốc gia cường thịnh trong vòng 10-15 năm” - giống như ông nhà văn Nhật Tiến đã tuyên bố với báo Thanh Niên là “quê hương đã có nhiều thay đổi, nhất là về kinh tế và chính sách ngoại giao”.

Về chuyện giải thích của ông Nhật Tiến là ông vượt biên trước, bà nhà và gia đình vượt biên sau và không có gặp hải tặc, xin chúc mừng gia đình ông Nhật Tiến đã chẳng phải chịu đựng những đau thương như tôi, như gia đình tôi và hàng trăm con người đã phải kinh qua hai lần trên đường vượt biển để mỗi lần nhớ lại lòng ngập tràn ngậm ngùi chua xót:

“Ta thương ta kiếp thuyền nhân
Một lần vượt biển muôn phần đớn đau!”

Điều này cũng làm giảm đi lòng cảm phục của tôi là ông Nhật Tiến đã bất chấp dư luận “vượt lên trên mê chấp và hận thù để văn chương được cao trọng hơn!”

*
Người cầm bút nào cũng biết rằng cái còn lại của anh ta là những tác phẩm để lại cho đời sau khi anh ta đã nằm xuống.

Với bài viết này tôi không có ý “tranh luận” với ông Nhật Tiến để được là “ngòi bút xứng đáng” hay là “ngòi bút BẤT XỨNG” - như ông nhà văn Nhật Tiến đã kết luận về tôi trong bài trả lời phỏng vấn của ông Vị Giang của báo Ngày Nay.

Bài viết này chỉ có mục đích trình bày những sự thực đã bị người phỏng vấn và kẻ trả lời đã bóp méo, xuyên tạc sự thực trong bài “Phỏng Vấn Nhà Văn Nhật Tiến Về Giao Lưu Văn Hoá Và Thiên Cộng”.

“XỨNG” hay “BẤT XỨNG” xin để dư luận phê phán.

Nguyễn Thiếu Nhẫn


Friday, April 11, 2014

NGHỊ QUYẾT 36 VÀ NHỮNG KẺ BẠC ĐẦU, ĐEN ÓC! - Lão Móc

NGHỊ QUYẾT 36 VÀ NHỮNG KẺ BẠC ĐẦU, ĐEN ÓC!

Lão Móc

Dẫn nhập: Nghị quyết 36 của CSVN được công bố vào năm 2004 với người thực hiện đầu tiên tại hải ngoại là Nguyễn Đình Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao VC với "Quỹ Yểm Trợ Người Việt Nước Ngoài" hàng tỷ Mỹ kim. Nhiệm kỳ kế tiếp là Lê Công Phụng và hiện nay do Nguyễn Thanh Sơn chỉ đạo.

So với hai người tiền nhiệm, Nguyễn Thanh Sơn là kẻ đã gây tác hại nhiều nhất cho cộng đồng người Việt Quốc Gia Tỵ Nạn cộng sản tại hải ngoại vì tên này đã chiêu dụ được “những cựu sĩ quan QLVNCH bạc đầu, đen óc” như Nguyễn Phương Hùng, Nguyễn Đạc Thành, những trí thức hoạt đầu như Hoàng Duy Hùng, Ngô Thanh Hải và những tên tay sai giấu mặt.

Bài viết này xin trình bày những việc làm của mấy ông trí thức "bạc đầu, đen óc” như Lê Xuân Khoa, Bùi Nhật Tiến, Phó Bá Long.
*

Cách đây 10 năm, ngày Chủ Nhật 17-10-2004, tại phòng sinh hoạt của nhật báo Người Việt, ông Lê Xuân Khoa đã ra mắt tác phẩm "Việt Nam 1945-1995 - Tập I" mà ông là tác giả.

"Tác giả "Việt Nam 1945-1995, Tập I", sau đó đã tóm tắt lại cách nhìn của ông đối với vấn đề Việt Nam. Theo ông, ước muốn của mọi người trên thế giới này đều như nhau, đó là mong ước được thấy sự lớn mạnh, giàu có của đất nước mình. Muốn nhìn về tương lai sáng sủa đó, chúng ta phải làm một công việc hết sức bình thường là nhìn lại quá khứ, phải trả lại cho lịch sử sự thật của nó, cho dù trước đây hai bên có bóp méo sự thật, thay đổi lịch sử cho phù hợp với đường lối tuyên truyền thì khi kết thúc cuộc chiến tất cả phải trả lại sự thật cho lịch sử.

Giáo sư Khoa đưa ra hình ảnh hòa giải sau cuộc chiến tranh Nam-Bắc của Hoa Kỳ mà hành động di dời tất cả những ngôi mộ của các chiến sĩ Nam-Bắc trong trận nội chiến về chôn chung trong nghĩa trang Arlington với lời thơ:

"Dưới nấm mộ này là hồn Nam, dưới nấm mộ kia là hồn Bắc.
Tất cả được chôn chung bằng thân thể nhuộm đầy máu đỏ…”

và ông cũng so sánh hình ảnh này với hai câu thơ của Tô Thùy Yên được tác giả chọn in ở trang đầu:

"Quen, lạ, bạn thù chung giấc ngủ
Chung lời thương tiếc khắc trên bia."

Giáo sư Khoa cũng đề cập tới hai trường hợp hàn gắn sau chiến tranh của Mỹ-Nhật và Mỹ-Đức ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt và cả hai quốc gia Đức-Nhật đều mau chóng phục hồi vết thương, ít ra là trên phương diện kinh tế.

Quay sang Việt Nam, giáo sư Khoa đặt ngay một câu hỏi cho cử tọa và chính ông: "Vậy đến bao giờ thì Việt Nam mới thật sự hàn gắn? Hàn gắn với Hoa Kỳ? Hàn gắn với khối người tỵ nạn đã bỏ nước ra đi?" ( Tuần báoViệt Mercury số 300, ngày 22-10-2004).

Qua phần tóm tắt về tác phẩm "Việt Nam 1945-1995" của ông Lê Xuân Khoa, ai cũng thấy rõ là ông Lê Xuân Khoa muốn kêu gọi người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại hãy xóa bỏ hận thù để hòa hợp hòa giải với nhà cầm quyền Việt Cộng để xây dựng đất nước giàu mạnh.

Thực ra không phải tới bây giờ ông Lê Xuân Khoa mới lên tiếng công khai kêu gọi xóa bỏ hận thù, hoà hợp hòa giải. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2004, bán nguyệt san Ngày Nay số 522 ấn hành ở Houston, Texas có in một bài viết của ông Lê Xuân Khoa với cái tựa dài lòng thòng như sau: "Vấn đề trước mặt: Sau gần 30 năm cuộc chiến huynh đệ tương tàn chấm dứt Để Tiến Tới Quan Hệ Bình Thường Giữa Người Việt Hải Ngoại Và Việt Nam."

Theo nhà văn Hoàng Hải Thủy thì "hình như không có sự lương thiện trong cái tên bài"… "Để tiến tới quan hệ bình thường giữa người Việt hải ngoại với Việt Nam". Không thể có "sự quan hệ giữa một số người với một quốc gia…" Người quan hệ với người, quốc gia quan hệ với quốc gia, như Tư bản Hoa Kỳ quan hệ với Cộng sản Việt Nam, người Việt hải ngoại chỉ có thể quan hệ bình thường hay không bình thường với bọn đảng viên Cộng sản Việt Nam. Và nhà văn Hoàng Hải Thủy đề nghị tên của bài xướng thuyết của ông Lê Xuân Khoa phải là: "Để Tiến Tới Quan Hệ Bình Thường Giữa Người Việt Hải Ngọại Và Người Việt Cộng Sản Việt Nam."

Trong bài viết, ông Lê Xuân Khoa viết rõ ý kiến của ông là "người Việt hải ngoại phải quên căm thù bọn Việt Cộng để cùng bọn Việt Cộng xây dựng quê hương". Trong bài viết đăng trong 3 số báo, báo Ngày Nay đã trích đăng riêng đoạn ông Lê Xuân Khoa viết bằng hàng chữ in đậm như sau:

"…Gần ba mươi năm sau cuộc nội chiến, thái độ tự hào của kẻ chiến thắng cũng như niềm thù hận của kẻ chiến bại đều không còn lý do nuôi dưỡng."

Nhà văn Hoàng Hải Thủy đã có một bài viết lên tiếng về bài viết của giáo sư Lê Xuân Khoa được đăng tải trên bán nguyệt báo Ngày Nay.


Khi đưa ra hình ảnh hòa giải sau cuộc chiến tranh Nam, Bắc của Hoa Kỳ với việc di dời tất cả những ngôi mộ của các chiến sĩ về chôn chung trong nghĩa trang Arlington, không biết ông giáo sư Lê Xuân Khoa có đọc quyển "Việt Nam sau 10 năm” của ký giả Tim Page, để biết là ở sau trang 100 là hình mộ bia của chiến sĩ nằm ở Nghĩa trang Quân đội Thủ Đức bị đâm thủng cả hai con mắt với lời chú thích "mộ chí của quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tại nghĩa trang quân đội bị lăng mạ”. Kế tiếp là bức ảnh to của một người mù cả hai mắt đang ngửa tay xin tiền với lời chú giải "người lính của chế độ cũ, mù lòa, không được cấp dưỡng, đang ăn xin bên ngoài nhà thờ Ban Mê Thuột sau buổi lễ Chủ Nhật". Nơi trang 113 là hình ảnh một người đàn ông lưng trần mặc quần đùi đen rách đít, lòi mông, chân bị băng bó, đang nằm ngủ trước bậc thềm gạch của một căn phố, không mền chiếu, với lời chú thích phía dưới "vừa được thả từ trại cải tạo, vô gia cư trên đường Đồng Khởi (trước là đường Tự Do) tại thành phố Hồ Chí Minh."

Và, cho đến hôm nay, "Nghĩa trang Quân đội QLVNCH" chỉ còn trong trí nhớ của những người dân miền Nam và những người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng Sản. Người lính Việt Nam Cộng Hòa chết chôn dưới mồ, nhà cầm quyền Việt Cộng còn lôi lên để giết thêm lần nữa để thỏa mối hận lòng chưa phỉ, nói chi đến việc xóa bỏ hận thù với những người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản là những người mà đã có thời những người cầm quyền của Hà Nội gọi là bọn đĩ điếm, trộm cướp, bọn phản bội tổ quốc.Việc chỉnh trang "Nghĩa trang Quân đội QLVNCH" đã được một số người Việt hải ngoại đề cập đến khi tiếp xúc với Thứ trưởng VC Nguyễn Đình Bin khi ông này qua Mỹ công bố "Quỹ Yểm Trợ Người Việt Nước Ngoài" và ban lệnh cho bọn tay sai ra sức đánh phá cộng đồng. Đề nghị với đầy thiện chí hòa hợp, hòa giải để xóa bỏ hận thù này đã bị lờ đi một cách phũ phàng. Những người lãnh đạo đảng CSVN chỉ kêu gọi xóa bỏ hận thù, hoà hợp hòa giải trên đầu môi, chót lưỡi để cứu nguy chế độ, chứ chưa bao giờ họ tỏ ra thực tâm hòa giải hòa hợp với người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản. Hà cớ gì một người di tản ngay từ tháng 4 năm 1975, một người được định cư tại Hoa Kỳ với tư cách tỵ nạn chính trị như ông giáo sư Lê Xuân Khoa lại lớn tiếng kêu gọi người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản hãy xóa bỏ hận thù để cùng với bọn VC xây dựng đất nước, còn hơn cả chúng nó kêu gọi?

Một người như "luật sư" Trần Văn Tạo trong phái đoàn của Thứ trưởng Ngoại giao VC Nguyễn Đình Bin phát biểu "người Việt hải ngoại thù dai ai nghe cũng thấy chướng tai, hà cớ gì một người" chức trọng, quyền cao" trong hai chế độ Đệ nhất, Đệ nhị Cộng Hòa Miền Nam, ra hải ngoại nhiều năm tiếp tục hưởng "fund" của người tỵ nạn qua "Trung Tâm Tác Vụ Đông Dương" (SEARAC) như ông giáo sư Lê Xuân Khoa lại đi kêu gọi người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải với VC để cùng nhau xây dựng đất nước còn hơn cả bọn VC chúng nó kêu gọi?!"

Về chuyện ông giáo sư Lê Xuân Khoa dẫn chứng việc các nước Đức, Nhật sau chiến tranh với Mỹ "đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và đã mau chóng hồi phục ít ra là trên phương diện kinh tế" có lẽ ông giáo sư Lê Xuân Khoa nên "dâng" sáng kiến này lên nhà cầm quyền VC ở trong nước, may ra họ sẽ nghe theo lời của ông giáo sư để đất nước được khấm khá hơn!

Cách đây 23 năm, năm 1991, cũng có một ông giáo sư và là một nhà văn là ông Bùi Nhật Tiến. Ông nhà văn đã từng đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc thời Việt Nam Cộng Hòa, đã cùng một số nhà văn ở hải ngoại in lại các bài viết của một số nhà văn "phản kháng" ở trong nước. sau khi phát hành ở hải ngoại, ông nhà văn Nhật Tiến đã mang sách "Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương" về Việt Nam, trong sách có đoạn viết:

"Chúng tôi vẫn thao thức với vận mệnh đất nước. Dù ở trên phần đất nào, trong hay ngoài quê hương, dù định kiến chính trị khác nhau như thế nào, qua lời các anh chị, chúng tôi vẫn thấy chúng ta vẫn còn nhiều điểm tương đồng.”

Tờ Quân Đội Nhân Dân xuất bản ngày 18 tháng 5 năm 1991, đã trả lời rằng những người thực hiện cuốn Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương viết như vậy "thật là lố bịch, những kẻ đã từng làm bồi bút phục vụ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam trước đây, khi nhân dân phá bỏ chế độ thực dân năm 75, thì chạy trốn ra ngoài sống lưu vong, tiếp tục phản bội lại lợi ích dân tộc. Họ đã tự nguyện nhận tiền, nhận vàng, đô la của các thế lực quốc tế, tự nguyện làm công cụ thực hiện mọi mưu đồ chính trị đen tối cho chúng, nay lại tự nhận mình là bạn đồng hành đi tìm tự do, dân chủ với những người cầm bút trong nước, những người đã vào sinh ra tử với sự sống còn của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ."

Thật là đau đớn! Thật là bất ngờ! Những người đầy "nhiệt tình hòa hợp, hòa giải" như nhà văn Nhật Tiến và những-người-cùng-đi-một-đường với ông ta, thì người Cộng sản chỉ coi họ là bọn hôi mùi thực dân đế quốc, nay dù có trở cờ cũng không xứng đáng đi đồng hành để tìm tự do dân chủ!

Chuyện lạ là dù bị chê bai "hôi mùi thực dân, đế quốc" khi xin được đồng hành với những người cầm bút ở trong nước đi tìm tự do, dân chủ, nhưng đến năm 2004, ông nhà văn Nhật Tiến lại phát biểu y chang như giọng điệu của (cựu) Thủ Tướng VC Phan Văn Khải. Trong quyển "Nếu Đi Hết Biển” do cán bộ VC Trần Văn Thủy thực hiện, ông giáo sư, nhà văn Nhật Tiến chê bai người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản là "những cái đầu đong đá”. Ông giáo sư, nhà văn có "cái đầu chảy re” Nhật Tiến (nói theo cách nói của nhà văn Hoàng Hải Thủy) kêu gọi VN bây giờ chưa cần tới tự do, dân chủ mà nên "ổn định và phát triển" thì tự nhiên dân chủ, tự do sẽ đến (sic!) - y chang như (cựu) Thủ Tướng VC Phan văn Khải đã kêu gọi.

Xin kể lại chuyện này để tặng ông giáo sư Lê Xuân Khoa, người đã tự cho mình là "ngoài tài năng, tác giả còn có cái tâm rất tha thiết với Việt Nam, tất cả công trình của ông là đi tìm những bài học cho cá thế hệ bây giờ và mai sau, để tránh những đau thương của quá khứ và xây dựng thành công một nước Việt Nam phú cường và văn minh” (Một số dư luận báo chí về cuốn sách "Việt Nam 1945-1995" bài viết của Lê Xuân Khoa, nhật báo Việt Nam Tự Do, Thứ Sáu, Chủ Nhật 16&17-10-2004).

Năm 1993, tại Đại hội Việt kiều tại thành phố Sàigòn, cũng có một ông giáo sư là ông giáo sư Phó Bá Long. Ông giáo sư này đã làm thơ con cóc:

"Mười tám năm rồi các bạn ơi
Lòng tôi chua xót dạ bồi hồi…"

Làm thơ con cóc xong rồi thì ông giáo sư "bạc đầu, đen óc" này đã làm một việc hết sức đốn mạt là kính xin Võ Văn Kiệt lúc đó là Thủ Tướng VC ban một cái lệnh đại xá cho tất cả những người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại. May quá! Ông Thủ Tướng VC chưa có ban lệnh đại xá thì, ông giáo sư Phó Bá Long đã ba chân, bốn cẳng chạy tuốt qua Kampuchea và sau đó trở về Mỹ và nghe đâu đã im hơi, lặng tiếng từ bay đến nay. Nghe đâu mới đây ông giáo sư "bạc đầu, đen óc" này đã qua đời lại có một ông cựu luật sư viết bài ca tụng theo cái kiểu áo thụng vái nhau!

Người viết không có ý so sánh việc kêu gọi người Việt hải ngoại xóa bỏ hận thù, hoà hợp hòa giải với VC để xây dựng đất nước của ông giáo sư Lê Xuân Khoa với những việc làm đốn mạt của hai ông giáo sư "bạc đầu, đen óc" Bùi Nhật Tiến, Phó Bá Long. Một ông thì bị VC viết ra giấy trắng, mực đen chê là "bọn hôi mùi thực dân, đế quốc" vậy mà vẫn ôm lấy đít của bạo quyền mà hít lấy, hít để, tuyên bố nhu cầu của đại đa số nhân dân trong nước bây giờ là ổn định và phát triển chứ không phải dân chủ hay nhân quyền gì hết. Một ông thì làm chuyện thày lay là đi kính xin VC nó ban cho một lệnh đại xá. Người Việt Quốc Gia tỵ nạn cộng sản có tội tình gì mà ông giáo sư lại đi làm chuyện ruồi bu.!?

Người viết cũng xin không đề cập đến chuyện trong buổi ra mắt sách của ông giáo sư Lê Xuân Khoa được tổ chức vào ngày 23-10-2004 tại hí viện Le Petit Trianon tại San Jose, Ban tổ chức đã không chấp nhận chuyện chào cờ, dù trước đó, theo lời ký giả Cao Sơn (đã chết năm rồi) thì: "Cách nay vài hôm người của ban tổ chức nhờ tôi tìm địa điểm, tôi bằng lòng giúp. Ban tổ chức đã giao ước là có phần chào cờ Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và phút mặc niệm trong phần nghi thức khai mạc. Ban tổ chức đã nhờ tôi cung cấp hai lá cờ nói trên và hai dĩa thu hai bản quốc ca Hoa Kỳ và VNCH. Tôi đã chuẩn bị đầy đủ đây, vậy tại sao lại hủy bỏ việc chào cờ vào phút chót?"

Theo tường thuật của báo Sàigòn USA thì, sau đó, ngoại trừ đại diện của báo Việt Mercury, còn tất cả ký giả báo Việt ngữ khác cùng một số đồng hương đã bỏ ra về. Cũng theo báo này tường thì, "ông Lê Viết Cảnh, tự nhận mình là trưởng ban tổ chức đã nói qua máy phóng thanh để giải thích việc không chào cờ như sau: "Thưa quý vị, quý chú bác, anh chị, ban tổ chức chúng tôi rất cám ơn quý vị đã bỏ thì giờ để đến tham dự lễ ra mắt tác phẩm Việt Nam 1945-1995 hôm nay. Tôi nghĩ tất cả mọi người hiện diện tại đây hôm nay đều là những người trí thức, quý vị là khách, chúng tôi là chủ, việc tổ chức lễ ra mắt sách của bác Khoa có thể xem như là việc nội bộ của gia đình chúng tôi. Do đó quý vị không có quyền gì đòi hỏi chúng tôi phải làm việc này, việc nọ, chào cờ hay không chào cờ". Khi có người nêu ý kiến: "Xin giải thích tại sao hủy bỏ lễ chào cờ như chương trình đã công bố?" thì ông trưởng ban Lê Viết Cảnh, người của tổ chức Pacific Links Foundation, đã trả lời rất xấc xược như sau: "Ở đây không phải là cái chợ mà muốn hỏi gì thì hỏi, muốn đòi gì thì đòi."

Ông giáo sư Lê Xuân Khoa không thể trả lời là: "… vấn đề hủy bỏ nghi thức chào cờ hôm nay hoàn toàn tùy thuộc ban tổ chức, thật tình tôi không được rõ", bởi vì chính ông giáo sư Lê Xuân Khoa ký tên thay mặt ban tổ chức trên thiệp mời đăng trên các báo.

Việc hủy bỏ chào cờ vàng ba sọc đỏ, hát quốc ca khiến người ta nhớ đến chuyện bà Ngô Thị Hiền của tổ chức Ủy Ban Tự do Tôn giáo yêu cầu đồng bào dẹp cờ vàng ba sọc đỏ mà chỉ cầm cờ Mỹ khi biểu tình phản đối việc Thượng nghị sĩ John Kerry dìm chết dự luật nhân quyền.

Chuyện này cũng khiến người ta nhớ đến việc nhóm Thông Luận cắt nghĩa việc tạm dẹp lá cờ vàng ba sọc đỏ để hòa hợp hòa giải với ai đó khi nhóm này tổ chức ra mắt sách tại San José.

Có người biết chuyện cho chúng tôi biết là nhóm Pacific Links Foundation có liên hệ với nhóm VNHelp của bà kỹ sư Đỗ Anh Thư (người cùng với Vũ Đức Vượng được VC vinh danh là "Việt kiều yêu nước" năm 2006); do đó, không có gì ngạc nhiên khi buổi ra mắt sách của ông giáo sư Lê Xuân Khoa nghi thức chào cờ, hát quốc ca VNCH và phút mặc niệm bị hủy bỏ, mặc dù trước đó người của ban tổ chức có hứa với ký giả Cao Sơn khi nhờ ông này đi tìm dùm địa điểm.

Bác sĩ Trần văn Tích, trong bài viết có tựa đề "Di họa Cộng Sản" đã đưa ra những tài liệu, dẫn chứng về việc hai nước Tây Đức và Đông Đức đã tái thống nhất từ ngày 3-10-1990 đến nay mà vẫn chưa có sự hòa hợp hòa giải được giữa người dân hai miền Đông Đức và Tây Đức. Sau khi đã đưa ra những dẫn chứng, trong cuối bài viết, bác sĩ Trần Văn Tích đã viết như sau:

"Cựu Thủ Tướng Tây Đức Helmut Schmidt đã tìm cách hãm bớt niềm lạc quan vào những năm thuộc thập niên 90 khi nhiều người Đức hoan hỉ, phấn khởi nghĩ đến một tương lai màu hồng đang chờ đợi quốc gia hợp nhất của dân tộc Nhật nhĩ man. Ông thận trọng tuyên bố rằng tiến trình hòa hợp thống nhất phải trải qua nhiều thế hệ và ít nhất cũng đòi hỏi một thời gian dài bằng thời gian chia cắt hai nước Đức.

Đã đổ ra hơn một ngàn tỷ Âu kim, đã chờ đợi gần bằng thời gian luân lạc của cô Kiều, và mặc dầu đang nắm toàn quyền hành chánh chính trị, chế độ dân chủ vẫn chưa hòa hợp hòa giải được người dân hai miền nước Đức chỉ vì đại họa cộng sản còn lưu lại quá nhiều dư chứng tai hại.

Như vậy làm thế nào hòa hợp hòa giải được giữa tự do và độc tài, giữa quốc gia và cộng sản, giữa thiện và ác một khi quyền lực cai trị còn trong tay cộng đảng như ở Việt Nam?

Những kẻ đang mơ tưởng hay hô hào hòa hợp hòa giải dân tộc chung qui chỉ là những kẻ vừa đần độn vừa hèn nhát."

Xin mượn kết luận bài viết "Di họa cộng sản" của bác sĩ Trần Văn Tích để kết luận bài viết này.

Lão Móc

Thursday, April 10, 2014

ĐỪNG BAO GIỜ TIN CỘNG SẢN, DÙ LÀ PHẢN TỈNH.

Dương Thanh Đông

Tục ngữ thời nay có câu: "đừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm" là cảnh giác cần thiết khi gặp những người cộng sản, không phân biệt những người cộng sản phản tỉnh. Đừng nghe những gì cộng sản chống đảng, hãy nhìn kỹ những gì họ làm, nói đúng hơn là dù chống đảng, nhưng cũng phải đề phòng những thành phần giả vờ chống đảng để tìm cách xâm nhập vào vùng đất của những người chống cộng thật sự, đó là những người cộng sản thường dùng khổ nhục kế và sau thời gian, họ đã lộ tông tích.

Có một số người hải ngoại ngây thơ, hay là lý luận ngụy biện, vì đã trao lập trường cho đảng Việt Tân, tay sai cộng sản ở nước ngoài. Họ cho là: những người chống đảng trong nước, phải nói là không chống đảng, tôn kính Hồ Chí Minh và lấy cờ đỏ để làm biểu tượng, để an toàn như tiến sĩ kinh tế Nguyễn Quang A, Lê Đăng Doanh, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, trung tướng Đồng Sĩ Nguyên… hay gần đây có tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ.

Tuy nhiên, nếu là thành phần chống đảng thực sự, nguy hiểm cho đảng, thì dù có dùng cờ đỏ sao vàng, biểu tượng Hồ Chí Minh và hàng nghìn lời nói: "tôi không và không bao giờ chống đảng, đảng muôn năm".. cũng bị đảng triệt hạ. Bài học của một số cán bộ cao cấp, công thần của đảng như thượng tướng Hoàng Văn Thái, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn… chỉ khác nhau phe cánh, mà bị thanh toán như kẻ thù, ngày xưa trong cuộc chiến xâm lăng miền nam, đại tướng Nguyễn Chí Thanh vẫn luôn tôn kính Hồ Chí Minh, cờ máu và luôn hết lòng phục vụ đảng, nhưng vì thân Tàu nên đã bị các đồng chí thân Nga đưa vào nam và cử ban an ninh trung ương theo sát, giết chết trong 1 mật khu ở Tây Ninh, đổ thừa do bị trúng bom. Do đó, ngụy biện về những người cộng sản trong nước phải dùng cờ đỏ, tuyên bố không chống đảng như Cù Huy Hà Vũ…để an toàn, là sai, khó thuyết phục.

Còn những người cộng sản, bỏ nước ra đi, không sợ bị đảng thanh toán, thì thái độ của họ ra sao?. Những người cộng sản bỏ thiên đàng ảo mộng, ra nước ngoài sống, họ viết báo, sách chống các đồng chí cầm quyền hơn là chống đảng, chiến thuật bêu xấu, đấu tố cá nhân là những đảng viên cầm quyền, là lối phê, tự phê, sinh hoạt của đảng; nhưng lại được một số người ngây thơ, thấy những người phản tỉnh lên án các đồng chí tham nhũng, thì lầm tưởng là họ thật sự bỏ đỏ, họ đã lầm to, vì chống cá nhân là thành phần lãnh đạo hiện nay như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng…chỉ là điểm, nhưng diện thì những người phản tỉnh cố tình phớt lờ.

Đại tá quân đội nhân dân Bùi Tín, nguyên phó chủ nhiệm cơ quan truyền thông hàng đầu là tờ Nhân Dân, sau thời gian phản tỉnh, bỏ nước sang sống ở Pháp, viết nhiều bài chống các đồng chí và nói chung chung về đảng, thì Bùi Tín khéo léo tự hào quá trình theo đảng, trong đó có lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bùi Tín khó dấu dã tâm là cộng sản ngụy phản tỉnh, khi hắn cố bào chửa cuộc thảm sát hơn 7 nghìn người trong tổng công kích tết Mậu Thân ở Huế là do cấp dưới làm, chứ đảng Cộng Sản không có chính sách. Vải thưa không thể che mắt thánh, vì tất cả các đơn vị bộ đội đều bị hệ thống đảng chỉ đạo từ cấp nhỏ đến cao, thì làm gì có bộ đội nào dám làm sai theo lệnh của đảng, họ phải thi hành lệnh đảng để tàn sát dân, là chính sách khủng bố trước sau như một.

Nhà văn nữ Dương Thu Hương, được nhiều người tin là chống đảng từ Việt Nam, nhưng lại an toàn, nếu chống đảng thực sự, thì đã bị hại bằng những dàn dựng tai nạn giao thông, du đãng đánh hay ám sát…sau khi Dương Thu Hương được sang Pháp sống, thì bà ta đã để lộ ra bản chất cộng sản, với tác phẩm Đỉnh Cao Chói Lọi, ca tụng Hồ Chí Minh.

Cán bộ văn vận Việt Thường Trần Hùng Văn, với việc xuất ngoại mù mờ, sang sống ở Anh quốc, là kẻ viết nhiều bài đấu tố các đồng chí, gây được ảnh hưởng và một số người tin, nhưng sau khi Việt Thường để lộ tông tích phản tỉnh giả là: "kêu gọi ứng cử vào quốc hội bù nhìn trong nước để tiến đến dân chủ", là lập trường giống như băng đảng Việt Tân và hỏa mù chính sách cộng sản. Việt Thường ca tụng chủ tịch Mặt Trận Hoàng Cơ Minh trong tác phẩm của hắn, ngoài ra Việt Thường Trần Hùng Văn còn khẳng định: "tôi không chống cộng, chỉ chống Việt gian".

Luật sư tốt nghiệp tại Việt Nam là Bùi Kim Thành, sau thời gian chống đảng, cũng xác nhận với Tường Thắng trong cuộc phỏng vấn: "dù sao bác Hồ cũng kính yêu". Người thanh niên mới 18 tuổi vào năm 1975 là Nguyễn Hưng Quốc, thuộc gia đình cách mạng, nên mới được học đại học và ở lại giảng dạy, sang Pháp và nay di cư sang Úc, trở thành nhà phê bình văn học tự phong, đã tuyên bố: "tôi không bao giờ chống cộng"

Nhân vật được đảng cộng sản đưa ra nước ngoài, vì nếu đảng CS không cấp visa, thì không thể xuất ngoại, đó là trường hợp tên trộm thơ Nguyễn Chí Thiện, hắn ăn cắp tập thơ của một người tù bất khuất, vô danh và đảng CS dùng tương kế tựu kế, đưa tên Nguyễn Chí Thiện, giả danh là người tù, được băng đảng tay sai là Việt Tân hứng lấy, nhịp nhàng biến thành thần tượng, với danh hiệu "ngục sĩ", hắn được đảng Việt Tân nuôi dưỡng, đưa đi thuyết trình nhiều nơi, xuất bản sách…nhưng Nguyễn Chí Thiện đã lộ tông tích khi hắn khuyên người Việt đừng biểu tình chống lại những tên cán bộ cộng sản cao cấp sang Mỹ làm công tác ngoai giao, trái lại đến gặp và gọi là "hiền huynh" thì chúng sẽ về nước, giác ngộ và thay đổi, trả tự do cho dân. Nếu là ngục sĩ thật, thì những bài thơ nẩy lửa, tố cáo tội ác cộng sản, Hồ Chí Minh… thì Nguyễn Chí Thiện không bao giờ gọi bọn Cộng sản là hiền huynh, nhất là được tự do, sống ở Mỹ, thì sợ ai mà không tố cáo mạnh hơn nữa.

Nay Cù Huy Hà Vũ cũng tương tự, bị đảng kết án 7 năm tù và 3 năm quản chế, đã tuyên bố: "tôi không chống đảng". Trong thời gian ở tù, nhưng tù theo tiêu chuẩn các nước Tây phương, vợ hắn là Nguyễn Thị Dương Hà sang Mỹ, hộ chiếu do đảng cấp, rõ ràng là dàn dựng, vì nếu đảng không cấp Visa, thì dù có Mỹ can thiệp, cũng vô ích. Trước đây là dân biểu Mỹ là Loretta Sanchez đã bị Việt Nam không cấp Visa, cũng đành phải chào thua và lên tiếng phản đối, nhưng vô ích.

Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ là do chế độ Hà Nội cho phép và dàn dựng, thêm một con chốt sang sông, như Bùi Tín, Dương Thu Hương, Bùi Kim Thành… Cù Huy Hà Vũ không chống đảng, vẫn bác hồ vĩ đại, thì người Việt nước ngoài nên cẩn thận, thêm một cháu ngoan bác hồ, dùng khổ nhục kế để xuất ngoại và được những kẻ đồng chí, đón gió, quan trọng là băng đảng Việt Tân, sẽ biến Cù Huy Hà Vũ thành thần tượng để lãnh đạo hải ngoại, tức nhiên là không chống đảng CS, chỉ chống các đồng chí cầm quyền, lái cuộc đấu tranh dân chủ tại Việt Nam thành cuộc đấu đá giữa hai phe cộng sản: "vô quyền và cầm quyền", phe cộng sản nào cũng "kính yêu Hồ Chí Minh và đảng muôn năm, ưu việt", thì ngày đất nước thoát khỏi gông cùm cộng sản chắc là còn gặp nhiều ngăn trở, nếu người Việt trong và ngoài nước chưa sáng mắt, cứ thấy cộng sản nói chống các đồng chí của họ là phe quốc gia, chắc chắc là thành phần phản tỉnh giả là Tám Khỏe thời đại.

Nếu Cù Huy Hà Vũ đấu tranh thành công và trở thành tổng bí thư đảng CS, thì hắn cũng chỉ là tên cộng sản, vẫn lá cờ đỏ sao vàng, tôn thờ Hồ Chí Minh, và chính sách bốc lột nhân dân vẫn không thay đổi, những dân oan khiếu kiện mà Cù Huy Hà Vũ giúp, hay bệnh vực, sẽ được ban cấp quyền hành và trả thù bằng cách trấn lột tài sản của phe cánh cầm quyền trước đây, nên ở Việt Nam sẽ có thành phần dân oan khiếu kiện mới. Vòng lẫn quẫn vẫn như cũ và đảng cộng sản vẫn cầm quyền, chỉ khác là thay đổi phe cánh mà thôi.

Hình ảnh con chó mà luật sư Nguyễn Văn Chức nói: "cộng sản là chó đẻ" không sai chút nào. Những con chó phản tỉnh, chống các đồng chí cầm quyền để tranh ăn, chúng sủa khá nhiều, dù có bị chủ nó là đảng CS trù dập, hay giả vờ bỏ tù để làm công tác khổ nhục kế…cũng luôn vẫy đuôi với chủ nó là đảng và bác. Đó là hình ảnh chung cho người cộng sản, kinh nghiệm xương máu và bài học những tên cộng sản giả vờ chống đảng, sống ở trong nước và hải ngoại, càng giúp cho người quốc gia khẳng định lần nữa: "đừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm"./.

Dương Thanh Đông

Wednesday, April 9, 2014

LẠI THÊM “MỘT NHÀ TRANH ĐẤU CHO TỰ DO, DÂN CHỦ” ĐƯỢC “XUẤT KHẨU” - Lão Móc

LẠI THÊM “MỘT NHÀ TRANH ĐẤU CHO TỰ DO, DÂN CHỦ” ĐƯỢC “XUẤT KHẨU”

Lão Móc

Cứ lâu lâu người ta lại thấy đảng CSVN cho “xuất khẩu” những người được gọi là “tranh đấu cho tự do, dân chủ” ở VN sang Mỹ.

Cách đây 16 năm, ngày 01 tháng 9 năm 1998, “nhà tranh đấu dân chủ” Đoàn Viết Hoạt (ĐVH) được xuất khẩu qua Mỹ qua “cửa khẩu” San Francisco. Vừa bước xuống phi cơ ông tù nhân ĐVH mập ú rất phương phi, phốp pháp so với ông nhà báo ốm nhom, ốm nhách “người Mỹ gốc Việt” của báo Người Việt Hà Tường Cát. Câu nói đầu tiên của nhà tranh đấu dân chủ ĐVH rất là tình nghĩa cháo gà như sau: “Vợ tôi đâu?”

Theo tác giả Lê Diễn Đức thì ông ĐVH “sau 5 năm tù đã làm đơn xin giảm án và xin đi Mỹ để đoàn tụ với gia đình và xin hứa sẽ không hoạt động chống phá nhà nước VN xã nghĩa”. Theo ông Lê Diễn Đức thì “ông ĐVH đã làm ngược lại (sic!)”. Nhưng theo Lão Móc thì “nhà tranh đấu dân chủ” ĐVH đã làm đúng với lời mà ông ta đã cam kết với nhà nước VN xã nghĩa. Lâu lâu nhà tranh đấu dân chủ này “họp mặt trên núi” với mấy “nhà tranh đấu dân chủ có lai-sân” như Bùi Tín, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Ngãi, Trương Bổn Tài v.v… Lâu lâu ông ta lại kêu gọi nên treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và cả Cờ Đỏ Sao Vàng trong trường đại học Mỹ. Lâu lâu ông ta lại viết bài cổ võ hòa giải hoà hợp v.v…

Những việc làm này mà ông LDĐ lại bảo là “làm ngược lại” những gì “nhà tranh đấu dân chủ” ĐVH đã hứa với Nhà Nước CSVN thì đúng là ông LDĐ đã “gieo tiếng oán” cho ông ĐVH với Đảng và Nhà Nước ta!

Người kế tiếp được “xuất khẩu qua Mỹ” ngay sau khi được lãnh từ nhà tù VC là bà nhà văn Trần Khải Thanh Thủy (TKTT), đảng viên đảng Việt Tân (VT). Theo bà nhà văn này tuyên bố là bà đã được đảng VT kết nạp ngay từ trong nước qua sự giới thiệu của đảng viên Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, và người làm lễ kết nạp bà là “cán cộm của đảng VT ở trong nước” tên Nguyễn Hải.

Vào tháng 5 năm 2013, thấy bà nhà văn TKTT có tuyệt thực ăn theo nhà tranh đấu dân chủ Cù Huy Hà Vũ khi ông này tuyệt thực trong tù và bà này tự xưng mình là thành viên của Khối 8406!

Cùng “tuyệt thực ăn theo” người ta thấy có ông Thẩm phám di trú Phan Quang Tuệ (người mới đây ra ứng cử Dân biểu Liên Bang), ông Đỗ Thành Công, nhà văn Tưởng Năng Tiến.

Chuyện lạ là sau đó người ta lại thấy bà nhà văn TKTT tuyên bố rút lui ra khỏi đảng VT. Bà này còn chơi bạo là đổi tên đảng VT thành đảng Việt Tanh. Kết tội các “cán cộm” của đảng Việt Tanh là chuyên canh me và hôi của! Để kềm chế tác hại người ta thấy ông Tổng Bí Lý Thái Hùng của đảng này có cà kê dê ngỗng phân bua trên đài Chân Trời Mới với những giọng điệu chạy tội cũ rich chẳng ra làm sao cả. So ra không khác gì những luận điệu của các cán bộ cá kèo Hoàng Thế Dân, Nguyễn Quang Duy, Nguyễn Chính Kết v.v…

Xin được phép bỏ qua “nhà tranh đấu cho tự do tôn giáo hay là chết” Nguyễn Chính Kết vì ông “giáo sư tự phong” này “tự xuất khẩu” bằng cách vượt biên đường bộ qua Kampuchea rồi mua vé phi cơ “tự xuất khẩu” mình qua Mỹ! Và tuyên bố là mình đại diện cho Khối 8406 ở hải ngoại và… sẽ trở về VN để tiếp tục tranh đấu (sic!). Ông này nghe nói là người tu xuất; nhưng lại nói một đằng, làm một nẻo - cứ như là đảng Việt Tanh! Ông tuyên bố là sẽ về nước tiếp tục tranh đấu; nhưng ông lại ở lì ở Mỹ và sau 3 năm đã bảo lãnh vợ con ông ta qua Mỹ để… tiếp tục tranh đấu tiếp!

Và xin được lạm bàn tiếp về chuyện đảng và Nhà Nước CSVN đã “xuất khẩu” nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ Cù Huy Hà Vũ (CHHV) qua Mỹ.

Có “bình luận gia” tiên đoán với nhân thân là con của cựu công thần của chế độ đỏ là Cù Huy Cận có lẽ là CHHV đã được Mẽo lưa chọn trong những canh bạc sắp tới?

Có ông lại tiên đoán là vài năm nữa cậu “công tử đỏ” CHHV lại trở về VN trong một vị trí mới!

Ở trong nước thì có ông tuyên bố là phong trào dân chủ đã mất đi một nhà tranh đấu nòng cốt. Người thì “chê” CHHV là đã thỏa hiệp với VC để được “xuất khẩu” qua Mỹ.

Có người lại dẫn chứng bài viết “Đồng minh với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại” của CHHV để cho rằng CHHV là “người của Mỹ”!

Thôi thì đủ thứ hầm bà lằng!

Trước đây Lão Móc có viết bài phân tích qua lời tuyên bố của CHHV sau phiên xử 7 năm tù có câu:

“Tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của những người tranh đấu cho tự do, dân chủ ở VN”.

Rõ ràng những hàng chữ cuối bức thư cảm ơn của TS/CHHV xác nhận rõ ràng ông ta là một người lên tiếng để đấu tranh tự do, dân chủ với những người lãnh đạo đảng CSVN; để những người này sửa đổi để đảng CSVN vững mạnh thêm và tiếp tục cai trị đất nước.

Theo Lão Móc thì “Thông báo của dân biểu Ed Royee nhận xét: ‘VN rốt cuộc đã lắng nghe tiếng nói phản đối của cộng đồng quốc tế về việc giam giữ trái phép CNHV và phóng thích ông ra h khỏi nhà thù’” là cái mà đảng CSVN mong muốn khi trả tự do cho CHHV và xuất khẩu vợ chồng ông ta qua Mỹ!

Vì CHHV chưa tuyên bố gì - như những “nhà tranh đấu dân chủ” đã được “xuất khẩu” trước đây nên xin mượn bài thơ “Mừng Cù Huy Hà Vũ” của tác giả Ngàn Khơi để chấm dứt bài viết này:
    “Mừng cho Cù Vũ ra tù Vài năm lận đận cũng bù công lao Ra tù gót nhẹ bay cao Đáp ngay xuống Mỹ lẽ nào không vui Tiếc là Đại Tướng chết rồi Đâu còn người mẫu để Cù vẽ tranh Tài năng họa tiết rành rành Khiến lòng Đại Tướng mới thành nên thơ Tiếc thay Huy Cận ngày xưa Làm thơ chỉ tả mưa rơi lạnh lùng Đâu bằng Tố Hữu hào hùng Bác Hồ ca ngợi vang lừng khác ai Nên nay Vũ mới trổ tài Con nhà thơ lại vẽ tranh mới ngầu”.

Lão Móc