Friday, October 3, 2008

CĐCGVN TGP Sydney Thắp Nến Cầu Nguyện Cho Giáo Hội Việt Nam


  • Hình Ảnh Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney thắp Nến cầu nguyện cho Hòa Bình - Công Lý tại Việt Nam đặc biệt cầu nguyện cho Gx Thái Hà và Tòa Khâm Sứ Hà Nội. Tối thứ Sáu 03/10/2008 tại nhà thờ Sacred Heart Cabramatta - Sydney.
Hình chụp bởi Diệp Hải Dương











































Tài liệu giảo nghiệm chữ viết khi ông Nguyễn Chí Thiện vừa mới sang Hoa Kỳ năm 1995

Mời quý vị nghe cuộc mạn đàm giữa Nguyễn Chí Thiện và Hoàng Vân

Quý vị cũng có thể download audio file tại dưới đây: (right-mouse click; save target as ...)

http://www.vannha.com/NCT/HoangVan-NCT-Oct1-2008.wma


Những hình dưới đây là tài liệu giảo nghiệm chữ viết khi ông Nguyễn Chí Thiện vừa mới sang Hoa Kỳ năm 1995

Bao thư gửi kết quả giảo nghiệm nét chữ:


Thủ bút tác giả bức thư đưa vào tòa Đại Sứ Anh:


Copy bức thư Đồng Lầy gửi vào tòa Đại Sứ Anh:


Thủ bút thư của ông NCT gửi đồng bào hải ngoại lúc mới sang Hoa Kỳ năm 1995:


Kết quả cuộc giảo nghiệm chữ viết:







Giả Từ Thiện và Bịnh Mù Loà


Nguyễn Châu

Đã sáng mắt ra chưa (III)

Tin từ Washington D.C. cho hay một hội từ thiện ở Virginia đã giúp nhiều người già cô quạnh, mù lòa, tàn tật và trẻ em mồ côi trong các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Bình Định, An Giang và nhiều nơi xa xôi khác tại Việt Nam. Kết quả: tại An Giang, 157 người được mổ mắt, thay tinh thể (25/1/2004); tại Hải Lăng, Quảng Trị, 50 người được sáng mắt; huyện Triệu Phong 50 người được thấy ánh sáng; tại Huế cũng có khoảng 40 người được sáng mắt...

Theo báo cáo của hội, hiện toàn tỉnh Quảng Trị có 250 người mù cần giúp đỡ ... Hội thiện nguyện Pháp Hoa kêu gọi hảo tâm của người hải ngoại, chỉ cần 36 Mỹ kim là có thể giúp cho một người mù được sáng mắt. Thế là chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cứ để dân mù lòa cho đến khi có hảo tâm giúp đỡ của người hải ngoại.

Trước 30 tháng Tư 1975, tại miền Nam và tại Mỹ, Pháp v. v... đã có khá nhiều người bị mù lòa mà thuốc men và kỹ thuật chữa trị của Thế Giới Tự Do không chữa nổi.

* Chứng mù của một bộ phận trí thức miền Nam Việt Nam, của nhóm phản chiến Hoa Kỳ, của một vài tài tử, ca sĩ, của một số triết gia Pháp, Đức, của một số tu sĩ đầy vọng tâm ...

* Bệnh mù của họ kéo dài gần ba thập niên, tưởng đã trở nên kinh niên bất trị, nhưng không ngờ Cộng sản Việt Nam sau khi xâm chiếm Nam Việt Nam khoảng hai năm, đã phát minh được phương thuốc chữa bệnh mù cho hơn 20 triệu người miền Nam, cho hầu hết những người chủ trương phản chiến hăng say nhất như Joan Baez, Jane Fonda ...

* Bệnh mù của Kissinger và một số nhà ngoại giao Tây phương cũng được chữa lành. Họ được sáng mắt khi Cộng sản Việt Nam thi hành chính sách man rợ đối với “đồng bào ruột thịt miền Nam” như lùa hết Quân, Dân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hòa vào các trại tù được mở ra dọc theo núi rừng từ Nam ra Bắc, cưỡng bách dân miền Nam đi vùng Kinh Tế Mới, thực chất là một cuộc đày ải để cướp nhà, cướp đất, cướp của cải của họ tại các thành phố...

Hàng triệu người Việt liều chết bỏ nước ra đi, cả triệu người bỏ mạng trên biển Đông, trong rừng sâu, tại các vùng kinh tế mới “Khổ Thấy Mẹ” và trong các nhà tù mang mỹ danh “Cải Tạo”.

*****
Chính sách tàn bạo và thâm độc của Cộng sản nói chung và Cộng sản Việt Nam nói riêng là một thần dược chữa chứng mù lòa cho những kẻ bị huyền thoại Giải Phóng mê hoặc, cho những người mù lòa do tham vọng cá nhân, chức quyền bốc hỏa làm mờ lương tri. Đa số những người mù lòa trước năm 1975 đã được sáng mắt để nhìn rõ thực chất của Cộng sản, thấy rõ “tính ưu việt” của tập đoàn “sinh ra trong đói nghèo, lớn lên bằng chiến tranh, giết hại, nuôi sống bằng sự dối trá và đang hấp hối bởi sự bất tài, bất lực và tham nhũng”...

*****
Tự nhận là đỉnh cao trí tuệ, sau 29 năm thống nhất lãnh thổ, xây dựng đất nước trong hòa bình, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không thực hiện được CÔNG VIỆC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO cho nhân dân, mặc dù tài nguyên đất nước vô cùng phong phú: rừng vàng, biển “đô la” từ dầu mỏ và hải sản, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới cấp cho chương trình Xóa Đói Giảm Nghèo 54 triệu Mỹ Kim, và tiền Việt Nam Hải Ngoại “chi viện không hoàn trả” cho thân nhân mỗi năm hơn 3 tỷ Đô-la Mỹ.

Tiền ấy đi về đâu, mà đại đa số nhân dân vẫn đói nghèo đến độ mẹ phải bán con nhỏ, con lớn 9-10 tuổi qua Cam-Bốt làm điếm, nhà Nước thì bán hàng chục ngàn phụ nữ qua làm vợ người Đài Loan, xuất khẩu nhân công, xuất khẩu con nuôi quốc tế? Trước tình cảnh này, nhiều cán bộ cao cấp của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số trí thức Cộng sản cũng đã sáng mắt nhìn thấy rõ bản chất ác quỷ của Đảng ta, đã liều thân lên tiếng và đã bị Đảng tru diệt không nương tay...

*****
Thế mà tại hải ngoại, hiện nay vẫn còn một số người Việt mang danh tỵ nạn chưa được sáng mắt, vẫn mắc chứng mù lòa mà nguyên nhân chính là do lòng tham tiền bạc, hoặc mơ ước chút danh vị nào đó từ phía Cộng sản.

* Trong số người mắc chứng mù lòa này, ngoài một số cựu tù nhân chính trị đi trong thành phần “HO” không có ý thức quốc gia, không lý tưởng, vừa mới qua Mỹ được vài tháng, đã vội quay trở lại Việt Nam làm việc cho kẻ đã muốn giết mình (Chu Tất Tiến – Sau 25 Năm Nhìn Lại Việt Nam..., trang 77), còn có một số luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, chủ báo, nhà văn, nhà thơ, thương nhân ... Số người này tìm cách len lỏi vào cộng đồng tỵ nạn để tuyên truyền cho chế độ Cộng sản bằng cách này hay cách khác, thầm lén hoặc lộ liễu.

Họ lập ra những tổ chức “nhân đạo” với mục đích bòn rút tiền của Việt Nam Hải Ngoại đem về trong nước nói là “Nuôi trẻ mồ côi”, “giúp người tàn tật”, tổ chức Đại Nhạc Hội gây quỹ cứu trợ “thương phế binh” không phân biệt Bắc Nam, “xây trường học, sắm bàn ghế cho học sinh”, “mua thuốc và đưa các đoàn y tế về chữa bệnh, chủng ngừa, chữa bệnh mù tại Việt Nam ...

Người mù tại Việt Nam được sáng, nhưng số người hải ngoại tham danh hám lợi này lại không sáng mắt, cho nên họ đã hành động như chính phủ Cộng sản Việt Nam là một con số không to tướng, vì tất cả mọi vấn đề từ ấm no, học hành, y tế, trẻ mồ côi người tàn tật tại quốc nội đều do ngân sách của Việt Nam Hải Ngoại chi ra hết.

Các viên chức Đảng và Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khỏi phải bận tâm gì đến đời sống nhân dân, để chăm lo bòn rút công quỹ cho đầy túi riêng, đưa Việt Nam đạt vị trí thứ ba trong nấc thang tham nhũng tại các quốc gia Đông Nam Á.

*****
Người mù đeo kính "Hoà Hợp Hoà Giải

Số người hải ngoại tối mắt vì đeo kính hiệu “Hòa Hợp Hòa Giải”. HHHG là chiêu bài của cái gọi là Chính phủ Cách Mạng lâm thời sau 30-4-1975 có mục đích dụ dỗ quân dân cán chính miền Nam đi trình diện để nộp mình vào ở tù một cách thoải mái, Cộng sản khỏi đi lùng bắt, tránh sự rối loạn nguy hiểm.

Bằng chứng là sau khi đưa hết vào trại tù, thì chính phủ Cộng sản không còn nhắc lại nữa, chỉ còn một số người mù tại hải ngoại, đứng đầu là Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, hô hào HHHG mà thôi. Tháng 7 năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa và cảnh giác trước âm mưu “Diễn Tiến Hòa Bình”, vẫn bảo vệ chế độ độc đảng bằng mọi giá, kể cả bỏ tù và triệt hạ các Đảng viên Cộng sản phản tỉnh, phê bình sai trái của Đảng trong việc trị quốc.

Người mù: cựu thành viên MTGPMN

Hầu hết các thành viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng bị uy hiếp phải tìm cách trốn thoát ra ngoại quốc. Các tay cầm cờ ba màu ra đón quân Giải Phóng vào Sài Gòn như Đoàn Văn Toại, chẳng bao lâu sau đó bị Cộng sản bắt giam và đánh đập tàn nhẫn. Sau khi được thả ra, Toại vượt thoát được sang Pháp, “bệnh mù” khỏi được một thời gian. Sáng mắt, Toại tố cáo tội ác của Cộng sản Việt Nam trong cuốn “Le Goulag Vietnamien” (Nxb Laffont, Paris 1979).

Trong nhà tù Đoàn Văn Toại đã gặp một cựu chiến binh Cộng sản, 82 tuổi, cũng bị giam, mặc dầu cuối thập niên 1920, ông ta là một trong những lãnh tụ và sáng lập viên của Đảng Cộng sản Đông Dương ... Ở Pháp một thời gian, không hiểu sao, Đoàn Văn Toại bị mù trở lại, “bệnh mù tái phát” làm cho Toại có luận điệu nịnh bợ Cộng sản và đã bị trừng trị đích đáng.

*****

Từ thập niên 70 đến 80, Đảng và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gọi những người vượt biển ra nước ngoài là bọn người phản quốc, chống phá cách mạng, “là những thành phần rác rưởi, lưu manh, những kẻ phản động, phản quốc, bỏ nước ra đi theo ngụy”. Chính Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thượng Nhân đã phát biểu là “nên treo cổ hết những kẻ phản động ấy”!

*****

Người mù : Việt Kiều yêu nước

Thế nhưng đến thập niên 1990, thì Đảng và chính phủ Cộng sản Việt Nam đã gọi họ là “Việt Kiều Yêu Nước” và một cách âu yếm hơn là “Khúc ruột ngàn dặm”. Lập tức, trong những năm đầu của thập niên 90, ở Pháp, và Nam California-Hoa Kỳ, bỗng nẩy sinh một khuynh hướng mong muốn Hòa Hợp Hòa Giải với chính quyền Cộng sản Việt Nam.

“Bằng những bài báo dùng ngụ ngôn bóng bẩy kêu gọi kết hợp trong nước và ngoài nước, bằng những tập san xuất bản đều đặn với những bài xã luận nói về hợp sông, hợp suối, hợp lưu, bằng cách cho đăng những bài viết của những người Cộng sản đích thực như Trần Bạch Đằng, một nhà lý luận Cộng sản chuyên nghiệp, hay của những người có nợ máu với dân chúng như Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhóm chủ trương Hòa Hợp Hòa Giải này mong muốn có quan hệ tốt với Cộng sản, quên thù hận xưa, để cùng tiếp tay xây dựng đất nước. Một vài nhân vật nổi tiếng trong giới Y khoa và báo chí cũng tuyên bố kêu gọi về nước làm chính trị và xã hội.” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-90).

*****

Những tổ chức tranh đấu trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại gọi nhóm này là “cơ hội chủ nghĩa” hoặc “tay sai Cộng sản Việt Nam”, thậm chí còn buộc tội họ là “Việt gian”. Vì trên lý thuyết, nếu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thực tâm muốn cho đất nước thoát nghèo nàn và lạc hậu, thực tâm quên hận cũ, thù xưa, chào đón người Việt hải ngoại về cùng chung tay phục hưng đất nước, thì đó là một phước lớn của dân tộc Việt.

Nếu được như thế, thì sẽ không còn phân biệt LÝ LỊCH quốc gia hay cộng sản, không còn tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm bị giam giữ, tra tấn, ngược đãi trong các nhà tù; nhà cửa của người vượt biển được chính quyền Cộng sản trả lại nguyên vẹn, vô điều kiện, người bất đồng chính kiến không bị theo dõi, bắt giam hoặc hãm hại một cách bí mật.

*****

Nhưng trên thực tế, người Cộng sản chỉ mong hải ngoại mang tiền về, mà không mang theo chính trị. Cộng sản Việt Nam chỉ dùng những người đem lại lợi ích tiền của về trong nước và tuyên truyền chính trị cho họ ở hải ngoại mà thôi. Những kẻ mơ mộng, thơ ngây hoặc những tay ham mê chút lợi danh, vội vã trở về hợp tác với Cộng sản, chỉ sau một thời gian ngắn, đều phải “trở lại hải ngoại sống âm thầm, xa lánh bạn hữu và cộng đồng”. Kinh nghiệm cho thấy khi một người thân Cộng ở hải ngoại, đã lộ mặt, bị cộng đồng lên án, tẩy chay, khi họ không còn chút uy tín nào nữa, thì người Cộng sản lập tức bỏ rơi. (Nhiều trường hợp cụ thể, về nạn nhân của hòa hợp, giao lưu, thiện nguyện, cứu trợ vân vân ... được nêu rõ trong tác phẩm của Chu Tất Tiến, từ trang 92 đến 95).

*****
Chủ trương “hòa hợp hòa giải” với Cộng sản Việt Nam của kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng qua nhóm Thông Luận, nhóm Hợp Lưu Giao Điểm ... đã bị hầu hết Cộng Đồng Người Việt khắp nơi xem là ngây thơ và mù quáng, vì trên thực tế Cộng sản Việt Nam không bao giờ chấp nhận đa nguyên, họ bảo vệ Đảng bằng bất cứ giá nào.

Ngay cả với người đã nằm xuống, Cộng sản Việt Nam vẫn nuôi mối hận thù và đã ngược đãi họ. Nghĩa Trang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở Biên Hòa đã bị phá, bức tượng “Tiếc Thương”, một tác phẩm điêu khắc của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, dựng trước cổng nghĩa trang, đã bị Cộng sản Việt Nam tiêu hủy đi.

*****

Một số người Việt hải ngoại gọi là Việt Kiều Yêu Nước tình nguyện về quê hương giúp đỡ người dân tật nguyền, đau ốm, nghèo khổ ... sau nhiều lần đi về tự do thoải mái, họ đã bị nghi ngờ là nằm trong kế hoạch mà Cộng sản Việt Nam gọi là “diễn tiến hòa bình” của đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội.

Cuối cùng, họ gặp khá nhiều phiền hà, như bị rút giấy phép, bị gọi đến trình diện, đến “làm việc” với công an, với Thành ủy, nhận chỉ thị về các hạn chế sinh hoạt của họ vân vân. Kết quả: họ phải tìm cách “bỏ của chạy lấy người”. Những công tác thiện nguyện do người Việt hải ngoại hoặc người ngoại quốc thực hiện ở Việt Nam, nếu chỉ trong giai đoạn ngắn, thì ít gặp trở ngại, nhưng nếu có kế hoạch lâu dài mà Cộng sản chưa gài được người vào tổ chức, thì nhất định sẽ gặp khó khăn và nguy hiểm. Giáo sư Chu Tất Tiến trong “Sau 25 năm nhìn lại Việt Nam ...” trưng dẫn trường hợp “ông Giám đốc Hãng Citroen Pháp Quốc, khi sang Việt Nam tìm thị trường, lang thang đi mua những cái “name tag” (tấm thẻ bài) của lính Mỹ cũ bán đầy ngoài đường, đã bị bắt giữ, vì nghi ngờ là gián điệp đi tìm tù binh! Ông đã chán nản bỏ sang Thái Lan và chỉ bay qua Sài Gòn để làm việc trong ít ngày rồi biệt luôn” (Chu Tất Tiến, sđd, tr. 89-92).

*****

Những tên mù trong hẻm Hợp Lưu Giao Điểm ở California, khi về Việt Nam, những tưởng được biểu dương, ưu ái, nào ngờ bị xem như chó ghẻ. Lý do đơn giản: Cộng sản nghi ngờ bọn này là cò mồi của kế hoạch “Diễn Tiến Hòa Bình” mà chúng đang hết sức cảnh giác đề phòng. Vì mù lòa cho nên nhóm này không thấy được rằng Cộng sản Việt Nam không tin ai cả, ngay cả đồng chí với nhau ở Trung Ương cũng chơi nhau sát ván và tìm cách hãm hại lẫn nhau, thì biết tin ai?

*****

Người mù: anh hùng Điện Biên và cố vấn Bác Hồ

Đại Tướng Cộng sản Võ Nguyên Giáp nổi danh với trận Điện Biên Phủ, có số phiếu cao nhất trong kỳ Đại hội Đảng toàn quân tháng 9-1986, từng bị các đồng chí ganh tị, phanh phui lý lịch, để tìm cách hạ bệ. Võ Nguyên Giáp bị nghi là tay sai thực dân Pháp và bị mất tín nhiệm chỉ vì “cơ quan tổ chức của Đảng Cộng sản lục trong Thư Khố của Pháp, thấy một lá đơn của cậu học sinh Võ Nguyên Giáp gửi quan Toàn Quyền Đông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không thể chấp nhận được đối với người cách mạng...” (Vũ Thư Hiên, “Đêm Giữa Ban Ngày” tr.350).

*****

Võ Nguyên Giáp, bí danh là “Văn” bị kết tội âm mưu lập “bè phái chống đảng”, rồi bị thất sủng ... đã âm thầm chịu đựng hàng chục năm, nay 93 tuổi, kề miệng lỗ, mới dám liều mạng viết Cáo trạng kêu oan, đòi “công đạo” “ (Thư của Võ Nguyên Giáp ngày 3/1/2004).

*****

Những người mù “bẩm sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam” như ông bà Vũ Đình Huỳnh, thân sinh của Vũ Thư Hiên, đến năm 1967, mới được Đảng giải phẫu và sáng mắt ra để nhìn thấy nguyên hình của Cộng sản Việt Nam: “... chúng nó đến, con tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa cho bằng được” .

Đây là lời kể của bà Vũ Đình Huỳnh về cảnh công an đến nhà bắt ông Vũ Đình Huỳnh, người đã nuôi dưỡng, cận kề chăm sóc cho Hồ Chí Minh. Vũ Thư Hiên viết: “Trong lòng bà, ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt...” (ĐGBN, tr. 28). Bệnh mù của gia đình Vũ Thư Hiên được chữa khỏi sau 9 năm bị Cộng sản tù đày, cả nhà bị khổ đau, tan tác. Vũ Thư Hiên đã thấy và đã nói lên cho những người khác:

“Nhờ đảng gỡ hộ cho tôi cái màng ảo tưởng, lần đầu tiên trong đời tôi thấy mắt mình nhìn rõ sự vật đến thế. tất cả như tuột hết vẻ hào nhoáng bên ngoài, lớp vàng mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng, trần trụi, lõa lồ dưới ánh mặt trời.

“Cũng nhờ đảng, tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại mê muội đến thế nhỉ? Ông làm sao yêu được đồng chí khi người làm việc sát cánh cùng ông trong những năm gian khổ, bị Lê Đức Thọ bắt giam mà ông vẫn điềm nhiên không hề can thiệp, dù chỉ tìm hiểu ngọn nguồn?" ... (ĐGBN, tr. 456)

*****

Người mù : Khoa bảng sản phụ, mổ tim, mỗ mắt

Một thí dụ cụ thể về “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù để hòa hợp hòa giải”: đó là trường hợp một bác sĩ có tiếng ở Nam California đã có công đón tiếp một phái đoàn cộng sản qua Hoa Kỳ tính toán làm ăn. Ông ta cũng cả gan thách thức cộng đồng Người Việt bằng những lời cổ động cho việc hòa hợp hòa giải, rồi thách cộng đồng: “nếu có 500 người biểu tình chống lại việc ông về Việt Nam hợp tác, thì ông sẽ bỏ ý định về.” Lập tức Cộng Đồng Người Việt phản ứng bằng cách tập hợp hơn một ngàn người trước cửa phòng mạch của ông cựu sĩ quan quân y “ngụy” này và lên án ông quyết liệt.

Tuy nhiên, ông bác sĩ “mù lòa” này đã nuốt lời, tiếp tục việc về nước, đinh ninh rằng mình đã lập được công chống cộng... đồng hải ngoại, sẽ được Đảng đón tiếp long trọng, sẽ mời ông vào phòng họp với cơ quan Nhà Nước cấp cao. Có ngờ đâu, khi ông bác sĩ “mù” này về đến phi trường, chỉ gặp được vài nhân viên cấp thấp đến chào hỏi mà thôi, không có một sự gọi là đón tiếp nào. Tại Việt Nam, ông bác sĩ “mù” này phải mò mẫm tự mình đi xin xỏ, xin giấy phép... khi muốn gặp một cơ quan nào cần giao dịch. Tại sao “Nhà Nước ta” lại nhạt nhẽo với các “Việt kiều yêu nước này”?

Điều này người sáng mắt thấy được ngay. Đó là vì tên tuổi của ông bác sĩ này đã bị Cộng Đồng Người Việt xóa đi, còn giá trị nào nữa để Đảng ta lợi dụng cho việc tuyên vận chiêu dụ hòa hợp hòa giải. Ông bác sĩ này đã bị hải ngoại tẩy chay, thì trong nước dùng làm cái gì? Ngoài ra, có thể Cộng sản Việt Nam còn suy luận rằng: nó là sĩ quan “Ngụy”, làm bác sĩ, được Cộng Đồng Người Việt nuôi và giúp cho thành giầu có, thế mà khi mê đắm công danh, nó còn phản lại Cộng Đồng, thì Đảng làm sao tin được một tên đã công khai phản chủ nó là Cộng Đồng Hải Ngoại.

*****

Cho đến nay, Cộng Đồng Hải Ngoại đã có ít nhất là ba bác sĩ mắc bệnh lòa. Ông thì lòa vì lợi lộc, tiền bạc, ông thì lòa vì lời tâng bốc và hư danh... Ông Họ Bùi ở Cựu Kim Sơn, từng theo Hương Dương Thu về Hà Nội yết kiến, lần thứ hai bị Cộng sản bắt giam nửa năm vì tội giao lưu; ông họ Phạm Phụ Khoa, quận Cam thì chẳng còn ai đếm xỉa; còn ông Nguyễn Lão Khoa xứ Cao Bồi bị thong manh, làm bồi bút, đi yết kiến Nguyễn Đình Bin, về Việt Nam hứa hẹn nhiều giúp đỡ. Có lẽ vì lo sợ “không biết bỏ nắm xương tàn nơi đâu” trên đất Hoa Kỳ, nên sau khi đi yết kiến thượng cấp tại Việt Nam, bác sĩ Nguyễn Lão Khoa về Hoa Kỳ, lại tìm cách lân la với Cộng Đồng Hải Ngoại, không hiểu ông đã khỏi bệnh chưa?

*****

Những người mù lòa nghèo khổ tại Việt Nam khi được sáng mắt ra thì có thể tự đi kiếm cái ăn, cái mặc, khỏi phải làm thân khất thực nhục nhằn. Nhưng những người trong Cộng Đồng Hải Ngoại mù vì lòng tham mà quên chính nghĩa dân tộc và hoài bão của Cộng Đồng, khi được sáng mắt ra thì đã muộn màng. Xin anh linh các Quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa nhân ngày Quốc Hận, hộ phù cho những kẻ mù lòa lương tri sớm được sáng mắt trở về với chính nghĩa.

Nguyễn Châu


Mời họp khẩn v/v tổ chức biểu tình khi Nguyễn tấn Dũng sang công du Úc

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU

PO Box 2115 Footscray VIC 3011
ĐT: 0411 7565 552
Email: bch@cdnvtd.com
CT: Ông Nguyễn Thế Phong



Ðược tin khẩn và chính thức từ Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Liên Bang Úc Châu về chuyến công du vào trung tuần tháng 10 của Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tại Úc Châu, Ban Chấp Hành Cộng Ðồng Người Việt Tự Do Victoria xin trân trọng kính mời:

  • quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
  • quý vị lãnh đạo các hội đoàn đoàn thể và tổ chức
  • quý vị đại diện truyền thông
  • cùng toàn thể đồng bào

    vui lòng bớt chút thì giờ quý báu đến tham dự một phiên họp đặc biệt và khẩn do CÐNVTD-VIC tổ chức để chuẩn bị việc biểu tình phản đối và lên án CSVN vi phạm nhân quyền (đặc biệt là tình trạng đàn áp tại Thái Hà hiện nay), dâng đất dân biển cho Tàu Cộng nhân chuyến công du này của Nguyễn Tấn Dũng.

    Phiên họp đặc biệt và khẩn sẽ được tổ chức,

    Tại: Văn phòng cộng đồng
    214 Nicholson St, Footscray
    Vào lúc: 7 giờ tối
    Ngày: Thứ Ba, 7-10-2008

    Vì tầm quan trọng của buổi họp, chúng tôi rất mong nhận được sự tham dự đông đủ của đồng bào và các hội đoàn đoàn thể. Mọi thắc mắc, xin quý vị vui lòng liên lạc:

  • ông Nguyễn Thế Phong đt số 0411 756 552
  • cô Thanh Trúc đt số 0432 456 077

    Trân trọng kính mời,
    TM. BCH-CÐNVTD-VIC

    Nguyễn Thế Phong
    Chủ tịch
    1-10-2008


  • Thursday, October 2, 2008

    Gởi ông Phan Nhật Nam và ban đại diện đài SBTN


    Lê Trần

    Ngày 26 tháng 9,2006

    Chúng tôi có theo dõi chương trình do Nhà Văn Phan Nhật Nam của quí đài SBTN, và có được biết nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là “khách mời” thường trực của quý đài.

    Hiện nay nhiều tin tức trên internet, trên báo chí sôi động về vấn đề Nguyễn Chí Thiện và nghi vấn về việc “đạo văn” của tập thơ Vô Đề (tức Hoa Địa Ngục I). Qua các cuộc trao đổi trên internet có nhiều về vấn đề liên quan đến “nhà bình luận văn học” (không biết nhà văn Phan Nhật Nam hiểu biết về văn học Việt Nam như thế nào mà nay ông lại là người bình luận văn học cho quý đài ?!) Phan Nhật Nam là đại diện cho SBTN và ông Nguyễn Chí Thiện.

    Đối với người dân chúng như chúng tôi, phản ảnh quan điểm và bình luận của đài SBTN là quan trọng tương đương với tiếng nói của ông O’really của đài Fox, hay Larry King, Jack Cafferty của CNN. Dù ông O’really phát biểu trên chương trình của đài Fox, trên radio, hay các buổi hội luận, hay viết bài đều phản ảnh quan điểm và là đại diện cho đài Fox. Do đó chúng tôi xem tiếng nói của Nhà văn Phan Nhật Nam có giá trị tương đương.

    Vì chúng tôi đặt niềm tin nơi tiếng nói trung thực của quý đài, chúng tôi yêu cầu đài SBTN lắng nghe nguyện vọng chung của người Việt Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại là: muốn tìm ra sự thật vụ “Đạo Văn” của “thi sĩ” Nguyễn Chí Thiện.

    Trong thời gian gần đây, sự phát biểu của “bình luận gia” Phan Nhật Nam trên các diễn đàn cho biết là ông có sự liên hệ sâu xa, mật thiết với Nguyễn Chí Thiện, và ông có những dữ kiện, bằng chứng quan trọng để “giải đáp” ? về nghi vấn “đạo văn” của Nguyễn Chí Thiện. Và chúng tôi cũng được biết ông Nguyễn Chí Thiện là “diễn giả” thường xuyên của đài SBTN.

    Do đó, với vai trò của nhà văn Phan Nhật Nam đại diện cho SBTN, bình luận gia của quí đài, Nguyễn Chí Thiện là “diễn giả” thường xuyên của đài.

    Xin quí ông xác định cho tập thể đa số người dân Việt thầm lặng chúng tôi về lập trường của đài SBTN có cùng quan điểm với nhà văn Phan Nhật Nam không? Đồng ý ở điểm nào? Không đồng ý ở điểm nào?

    Ngày 24 -9-2008 nhà văn Phan Nhật Nam với email phannhatnam9943@gmail.com đã đưa ra những lời bình luận liên quan đến Nghi vấn Nguyễn Chí Thiện thật /giả, nếu là “giả” thì như sau: (xin mạn phép bỏ dấu để người đọc dễ hiểu), xin trích nguyên văn

    1- INS của Mỹ đã cho nhập cư một tên Cộng sản (Hiến pháp Mỹ vẫn còn hiệu lực với cư dân nhập cư là đảng viên Cộng Sản), khi tuyên thệ làm công dân mỹ cũng không được mang đảng tịch của đảng khốn nạn này (ông Thiện đã vào quốc tịch Mỹ từ 2007.)

    2- CIA của Mỹ phải giải tán vì không tìm ra tông tích một tên Cộng sản (nguyễn Chí Thiện) nằm vùng.

    3- Phòng nhì của Pháp phải giải tán vì không sưu tra ra danh tính cua Nguyễn Chí Thiện để ông ta vào gặp Tổng Thống Chirac.

    4- Thủ Tướng và Quốc hội Hà Lan cũng bị tội danh “Gian Nhân Hiệp Đảng” vì đã trao giải thưởng cho Nguyễn Chí Thiện.

    5- Tổng Thống Mỹ hiện nay cũng phải chịu liên lụy vì đã “đón” Nguyễn Chí Thiện hôm tháng 11/2007 nhân làm lễ khánh thành tượng đài “Nạn Nhân Cộng Sản” tại Newyork.

    6- Cuối cùng : nếu Nguyễn Chí Thiện là giả thì đây là một hoạt động tuyệt đối bí mật chỉ có Ban Bảo Vệ Bộ Chính Trị /Trung Ương Đảng mới được biết …. Đứa nào biết được thì đứa đó quả là Việt Cộng chính gốc. Đúng không.

    Nói với Bác cho vui vì nghe nói là Dân “co gang” tôi ở KBC 4919 tức Tiểu đoàn 7ND ổ Biên Hòa.

    (ngưng trích)

    Xin nhắc lại, nhà văn Phan Nhật Nam là nhà bình luận của SBTN và là người public, cho nên những lời bình luận phát biểu dù trên báo chí, trên internet, trên làn sóng đều được xem như là phản ảnh của đài SBTN đúng như nguyên tắc quy định chung của giới truyền thông của các nước tự do.

    Chúng tôi không đồng ý với lời phát biểu hay quan điểm này của ông Phan Nhật Nam (mà đài SBTN phải chịu trách nhiệm liên đới), vì “nghi vấn” Nguyễn Chí Thiện chưa được bạch hóa, nghiên cứu, hội luận toàn diện. Nhà Văn Phan Nhật Nam không trực thuộc cơ quan điều tra, an ninh nào của Hoa kỳ để kết luận những điều đó, nên điều kết luận trên của ông Phan Nhật Nam không có giá trị gì cả. Nếu lời nói đó với cá nhân ông Phan Nhật Nam thì không ai cần thắc mắc vì họ không rảnh. Nhưng như đã nói ở trên, người dân tin rằng: ông Phan Nhật Nam là tiếng nói của đài SBTN, nên đài SBTN phải có nhiệm vụ và làm sáng tỏ vụ “đạo văn của Nguyễn Chí Thiện.

    Trong quá khứ, Hoa Kỳ có những trường hợp là cơ quan an ninh Hoa Kỳ phải tốn vài ba thập niên sau mới điều tra được lý lịch của những tội phạm chiến tranh từ thời Nazi, hay các các gián điệp liên quốc gia đến Hoa Kỳ làm “khủng bố “, “tổ gián điệp” chúng ta thấy thỉnh thoảng được đưa ra báo chí như trường hợp Khoa học gia Tàu bùng nổ việc gián điêp ở Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử Alamo, và Josef Mengele tội đồ Nazi ẩn trốn nhiều năm.

    Chúng tôi nhận thấy lời tuyên bố của Nhà văn Phan Nhật Nam như một lời thách thức “giải tán” các cơ quan Hoa Kỳ như sở Ngoại Kiều INS, Cơ Quan CIA, và các cơ quan an ninh của các quốc gia khác, cũng như các lãnh đạo của các quốc gia đó. Đây là một lời nói khinh thường trí thức của cộng đồng người Việt, và của cơ quan an ninh Hoa Kỳ.

    Chúng tôi tin rằng ban Giám đốc của Đài SBTN không có những quan điểm như vậy, và chúng tôi yêu cầu đài SBTN minh định lập trường, nói rõ quan điểm điểm chính thức của đài để chúng tôi không lầm lẫn với lập trường “cá nhân” của nhà văn Phan Nhật Nam là thành viên của đài SBTN.

    Ngoài ra, ông Nguyễn Chí Thiện là một diễn giả thường trực của đài, và nghi án tập thơ Vô Đề (Hoa Địa Ngục I) không phải của Nguyễn Chí Thiện, mà là của một tác giả Vô Danh với nhiều chứng minh càng ngày càng cho chúng ta biết điều đó một cách chính xác, nhiều người trí thức trong cộng đồng người Việt Tị nạn hải ngoại mong muốn quý đài SBTN tham gia hưởng ứng với báo chí truyền thông khác để làm sáng tỏ vấn đề này. Nếu Quí đài SBTN vẫn tiếp tục mời ông Nguyễn Chí Thiện xuất hiện trong chương trình thảo luận của quý đài, nhưng lại hoàn toàn làm ngơ trước những điều quan trọng liên quan đến ông Nguyễn Chí Thiện, thì chúng tôi e rằng khán thính giả hiểu lầm là quý đài SBTN đứng về phía bệnh vực ông Nguyễn Chí Thiện và làm ngơ trước nguyện vọng chung của cộng đồng người Việt hải ngoại.

    Chúng tôi mong mỏi sự trung thực của quý đài SBTN đại diện cho quan điểm chung của đa số người Việt Tị Nạn cộng sản và làm sáng tỏ một nghi án lớn của Văn Học Việt Nam sau năm 1975.

    Trân trọng.

    Lê Trần

    Kèm sau đây là những dữ kiện liên quan đến lá thư này.

      http://groups.yahoo.com/group/DienDanCongLuan/message/189253
      From:
      Nam Phan Nhat

      Subject: Re: PNN - Chứng nhân sống ve^` NCT tha^.t
      To: lang.vuon@yahoo. com
      Date:
      Wednesday, September 24, 2008, 3:52 PM

      Ngoài ra còn có ai đã nghe , đã đọc một chữ nào của người goi là "NGUYEN CHI THIỆN "GIẢ" KIA PHƯƠNG HẠI ÐẾN CUOC TRANH ÐẤU CHUNG KHÔNG. VA NẾU LA "GIA" THÌ CÓ NHỮNG VẤN ÐÈ SAU:
      #1/ INS CUA MỸ DA CHO NHẬP CƯ MOT TÊN CỘNG SAN ( HIẾN PHA"P Mỹ VAN CON HIỆU LUC DOI VOI CƯ DÂN NHẬP CU LA DẢNG VIEN CỘNG SẢN- KHI TUYEN THE LAM CONG DÂN MỸ CUNG KHONG DUOC MANG DẢNG TICH CUA DẢNG KHỐN NẠN NẦỴ ONG THIEN DA VAO QUOC TICH MY TU 2007.

      #2/CIA CUA MỸ PHẢI GIAI TÁN VI KHONG TÌM RA TONG TICH MOT TÊN CONG SẢN
      NAM VUNG

      #3. PHÒNG NHÌ CUA PHAP PHẢI GIAI TAN VI KHONG SUU TRA RA DANH TINH CUA NCT DE ONG TA VAO GAP TONG THONG CHIRAC.

      #4/THU TUONG VA QUOC HOI HÒA LAN CUNG BI TOI DANH "GIAN NHÂN HIỆP DẢNG" VI TRAO GIAI THUONG CHO NCT

      #5/TONG THONG MY HIEN THOI CUNG PHẢI CHIU LIEN LUY VI DÃ DÓN NCT HOM THANG 11/2007 NHAN LÀM LỄ KHÁNH THÀNH TUONG DÀI "NAN NHÂN CỘNG SẢN" TAI NEWYORK

      #6/ CUOI CUNG: NEU NCT LA " GIẢ" THI DAY LA MOT HOAT DÔNG TUYET DOI BI MẬT CHỈ CO BAN BẢO VE BO CHINH TRI /TƯD MOI DUOC BIET - DUA NAO BIET THI DUA DO QUA LA ..VIET CỘNG CHINH GỐC. DUNG KHÔNG.
      NOI VOI BAC CHO VUI VI NGHE NOI LA DÂN "CO GANG" TOI O KBC 4919 TUC TIEU DOÀN 7ND O BIEN HOA




    Du học sinh: Con sóng ngầm của VC tại hải ngoại


    Đặng thiên Sơn

    Vấn đề du học sinh Việt Nam tại hải ngoại hiện nay là một vấn đề nhạy cảm. Đề cập đến chuyện này thiếu khách quan thì sẽ dẫn đến những điều không vui, vì sự liên hệ của các du học sinh đối với người Việt đang sống tại hải ngoại không nhỏ. Tuy nhiên, vì lợi ích chung của đất nước mà người Việt trong và ngoài nước đang theo đuổi là lật đổ bạo quyền Việt cộng, người Việt quốc gia tại hải ngoại không thể thiếu cảnh giác, để cho Việt Cộng và tay sai nhởn nhơ thi hành nghị quyết 36 của chúng.

    Đây là nghị quyết mà Việt cộng muốn "nắm đầu, xỏ mũi" người Việt tại hải ngoại, với mục đích làm giảm tiềm năng yểm trợ các lực lượng đấu tranh dân chủ trong nước đang nổi lên.

    Qua những sự kiện như cản trở nghị quyết cờ vàng, từ chối cầm cờ vàng khi được ông David Mac trao tặng, rồi đến trở mặt bất ngờ để từ chối cái tên "Little Sàigòn" của bà Madison trong đêm 20/11/07 đã cho thấy những dấu hiệu bất thường trong sinh hoạt chính trị của người Việt hải ngoại.

    Người ta còn nhớ trong đêm 20/11/07 tại phiên họp của HĐTP San Jose, một du học sinh trong phần phát biểu đã nói một câu khó nghe của một "con két" được huấn luyện thuần thục rằng: "Quí vị đã bầu cho cô Madison thì phải để cho cô ấy chỉ huy quí vị". Để rồi tiếp theo đó vào đầu năm 2008, một số du học sinh Việt Nam đã đứng ra tổ chức buổi triển lãm lấy tên "Taste Vietnam" tại đại học Standford, Bắc Cali. để quảng bá cho CSVN. Sau đó không lâu một sự kiện khác là cờ Việt cộng được treo lên tại thư viện trường Trung học San Jose hồi tháng 6/08. Nhưng những hoạt động của du học sinh VN chưa hết, vì vào ngày 03 tháng 10/08 tới đây một "Taste Vietnam" tương tự sẽ được tổ chức tại Queensland, Úc Châu.

    Những việc làm liên tục của du học sinh như vậy, đã cho thấy đây không phải đơn thuần là việc "đi học" để mở mang kiến thức, để có một trình độ kỹ thuật cao, mà rỏ ràng còn là những hành động chính trị được thi hành theo chỉ thị được giao phó và học đường là một môi trường PHI CHÍNH TRỊ được chọn để tuyên truyền cho CSVN.

    Đã là người Việt tỵ nạn, không ai muốn cộng đồng chia tam, xẻ tứ, sống với những người chung quanh mà không tin tưởng nhau và nghi ngờ lẫn nhau. Sống như vậy có gì là vui? Chẳng những không vui mà những ý niệm này còn làm giảm sức mạnh cộng đồng, còn khiến chính quyền địa phương hay các sắc dân khác ngỡ ngàng "không hiểu nổi" mặc dù thành tích đóng góp của cộng đồng VN nổi bật hơn những cộng đồng khác. Đây là điều mâu thuẩn đáng buồn, nhưng không có gì phải ngạc nhiên, vì người ngoài cuộc làm sao hiểu thấu được nỗi niềm của những người tỵ nạn cộng sản. Do đó, họ có hiểu hay không cũng không quan trọng bằng chính người quốc gia chúng ta phải tìm đủ mọi cách để ngăn chận và đập tan âm mưu của Việt Cộng nhằm phân hóa cộng đồng người Việt tỵ nạn CS.

    Khi chưa có du học sinh rần rộ được "xuất cảng" ra nước ngoài, hai thành phần được Việt cộng xử dụng đánh phá cộng đồng Việt Nam hải ngoại là:

    1. Cán bộ VC, đã được cài nằm vùng từ trước năm 1975: Đây là các du học sinh ngày nay đã ở vào lứa tuổi 55 trở lên. Bọn nằm vùng này, ngày nay đã đạt được những bằng cấp, có nghề nghiệp vững chắc trong mọi lãnh vực từ công chức, tư chức, thương mại nơi địa phương chúng cư trú.

    2. Cán bộ VC được cài ra hải ngoại sau năm 1975 theo các ngõ vượt biên, đoàn tụ, ngoại giao, H.O.



    Bây giờ là giai đoạn hai thành phần nằm vùng nói trên đang từ từ lui vào bóng tối giữ vai trò cố vấn, chỉ đạo cho một đoàn quân hùng hậu mới:
    Đoàn quân "DU HỌC SINH". Với số lượng hàng chục ngàn du học sinh Việt Nam tại hải ngoại hiện nay, chúng ta có thể khẳng định đây là lực lượng nhân sự nồng cốt của Việt Cộng đang ảnh hưởng lớn lao đến tiền đồ chống cộng của Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại.

    Để có luận cứ vững với tiền đề được đưa ra, cộng đồng người Việt quốc gia phải có một nhận xét khách quan để tìm hiểu du học sinh từ đâu mà có, do đâu mà ra. Họ là thành phần nào trong xã hội Việt Nam cộng sản hiện nay. Họ là con cái nhà ai? Hoàn cảnh? Gia thế ra làm sao, mà được nhà nước Việt Cộng tin tưởng cho ra nước ngoài du học.

    Không nói ra, nhưng ai cũng biết du học sinh của nước Việt Nam Cộng Sản là những thanh niên, thiếu nữ sanh sau năm 1975 tức là lứa tuổi từ 16, 17 đến 25, 30. Thế hệ thanh niên, thiếu nữ này từ khi mở mắt chào đời, thì chung quanh họ là lá cờ máu, cờ đỏ sao vàng, kèm ảnh "bác Hồ vĩ đại" trên tường, những hình ảnh này đã ăn sâu vào tiềm thức của họ ngay từ thuở lọt lòng.

    Từ lớp mẫu giáo họ đã được quàng khăn đỏ, được nhồi sọ "bác hồ" là "vị cha già dân tộc" "bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta" "Đảng cộng sản VN muôn năm" "Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa VN bách chiến bách thắng muôn năm" vân vân và vân vân.

    Nói một cách dễ hiểu du học sinh VN là những người đã được Cộng Sản Việt Nam đào tạo theo căn bản "định hướng xã hội chủ nghĩa" có đủ tiêu chuẩn "hồng và chuyên" từ lúc là thiếu nhi quàng khăn đỏ, cháu ngoan "bác Hồ", cho đến lúc tốt nghiệp trung học phổ thông, tốt nghiệp đại học.

    Và điều quan trọng khác mà mọi người cần phải biết rõ, du học sinh VN tại hải ngoại là thành phần được Cộng Sản Việt Nam ưu đãi (dù do TIỀN TÀI hay THẾ LỰC). Cho nên quyền lợi của họ luôn luôn gắn chặt với quyền lợi của "bác và đảng". Do đó, có thể nói họ rất trung thànhh với chế độ. Vì nhận được đặc ân của "bác và đảng" thành phần du học sinh này sẵn sàng biến thành những nhân viên tình báo, những kẻ phá hoại, gây rối, gây xáo trộn cộng đồng hải ngoại khi được lệnh và khi được giựt dây.

    Đa số du học sinh là thành phần đối tượng đảng. Đây là thành phần trong chính sách trồng người của VC. Du học sinh là thành phần đã được đào luyện trong lò "Thép đã tôi thế đấy" của Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam . Là một lực lượng có tổ chức, hoạt động có bài bản đặt dưới sự điều động, chỉ huy và sai khiến của các tòa lãnh sự hay đại sứ VC tại hải ngoại vì danh sách, nơi ăn chốn ở, việc làm của du học sinh trong tay các cơ quan này.

    Chính vì thế không có lý do gì các du học sinh lại đi nghe theo lời của các đoàn thể, tổ chức quốc gia tại hải ngoại để chống lại Việt cộng. Trong suốt 30 trường các du học sinh đã được nhồi sọ về đảng CSVN thần thánh. Ngược lại họ không có một chút ấn tượng nào về VNCH, về một thể chế tự do miền Nam, ngoài hình ảnh một số người còn sót lại của chế độ "Mỹ - Ngụy" đã bị sụp đổ. Nên chuyện họ THỰC TÂM tham dự vào các cuộc biểu tình, xuống đường để đi chống lại "bác và đảng", những là thần tượng của họ, là ân nhân của họ là chuyện không tưởng, không thể xảy ra, không bao giờ có. Những hình ảnh du học sinh VN tại Pháp, Anh quốc và Đức cầm cờ đỏ sao vàng lên án Trung cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa đã nói lên quan điểm biểu tượng quốc gia của họ.

    Với lực lượng đang có hàng chục ngàn du học sinh tại hải ngoại, Cộng Sản Việt Nam đang thực hiện việc hàng ngũ hóa và sẽ biến thành phần này thành một lực lượng chính trị trên mặt trận ngoại giao.

    Thành phần Việt gian cộng sản này, sẽ dần dần kiếm cách để cờ đỏ sao vàng xuất hiện nhiều nơi. Để rồi dựa vào đó các cơ quan truyền thông thân cộng xuyên tạc chính nghĩa quốc gia của cộng đồng Người Việt tại hải ngoại. Bọn VC nằm vùng sẽ lợi dụng tình trạng nhiều đảng phái, tổ chức muốn thỏa hiệp, hòa giải với CSVN, để thực hiện mưu đồ nhuộm đỏ cộng đồng VNHN. Việt cộng nhuộm đỏ CĐVNHN qua chính sách khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện dễ dàng cho du học sinh sau khi học hết chương trình tìm cách ở lại vĩnh viễn tại Hoa kỳ. Số du học sinh sau khi mãn chương trình học vấn họ tìm cách định cư luôn nơi hải ngoại bằng hình thức lập gia đình với một công dân Hoa Kỳ hay ở lại vì lý nghề nghiệp.

    Để hổ trợ cho âm mưu nhuộm đỏ cộng đồng VNHN, truyền thông là công cụ hàng đầu của Việt cộng. Tại hải ngoại, những cái loa tuyên truyền cho Việt cộng được khôn khéo ngụy trang dưới lớp áo quốc gia, được núp dưới cái dù cờ vàng ba sọc đỏ.

    Với phương tiện tài chánh dồi dào, Cộng Sản Việt Nam vừa trực tiếp điều hành các cơ sở truyền thông vừa hợp tác với các cơ quan truyền thông người Việt đã có sẵn. Lợi dụng "đệ tứ quyền" trên đất Mỹ, bọn Việt gian sẽ viết những bài báo, những bài tường thuật sinh hoạt cộng đồng "hai mặt", chuyên chở ý nghĩa chung chung để gây hoang mang dư luận. Trong lớp vỏ "hồn Việt Cộng, áo Quốc gia" này, VC dựng ra những luận điệu bất thường, để tạo nên sự tranh cãi, gây rối loạn cộng đồng.

    Những cơ quan tuyên truyền thông được VC yểm trợ, là những cơ quan thường có những hình thức "chống cộng vô thưởng, vô phạt". Đây là thủ đoạn chống cộng có "lisence" của Việt cộng và tay sai nằm vùng. Ngoài truyền hình, truyền thanh, báo chí, CSVN tăng cường và cho nở rộ sự đánh phá, đầu độc cộng đồng Việt hải ngoại qua hệ thống mạng lưới truyền thông toàn cầu. Và số du học sinh VN cộng sản nhúng tay vào công tác này của VC không phải là con số ít.

    Du học sinh Việt Nam đang sống tại nước ngoài, nơi cư trú của họ được ước tính như sau:

    - 10% sống nội trú tại các trường: Đây là thành phần con ông cháu cha, cán bộ cao cấp gộc của CSVN có tiền bạc ăn cướp của dân.

    - 90% sống trong các gia đình có thân nhân định cư tại hải ngoại từ lâu theo các diện: Việt cộng có trước năm 1975, diện vượt biên, diện đoàn tụ, diện H.O. Đây là thành phần con, cháu cán bộ trung cấp, hay có thân nhân liên hệ chặc chẽ với VC.

    Với nơi cư trú như trên đã cho thấy du học sinh VN sống trà trộn trong cộng đồng. Đã cho thấy cộng đồng người Việt chống cộng tại hải ngoại đang bị đặt vào tình trạng "nuôi khỉ dòm nhà".

    Để tránh tình trạng lịch sử đau lòng tái diễn như trước năm 1975. Tức là hình ảnh ban đêm đồng bào quốc gia và con cháu là VC ra đào đường đấp mô, để rồi sáng hôm sau cũng chính họ và con cháu là thành phần quốc gia đi phá mô, dẹp đường. Đây là hình ảnh mâu thuẫn, nực cười.

    Vì vậy, để tránh việc đau lòng xảy ra, thiết nghĩ mọi người vì lợi ích chung của đất nước hãy theo dõi để phát hiện kịp thời những tên Việt cộng, những du học sinh VC đang trong tư thế sẵn sàng tạo ra những tình huống bất lợi cho cộng đồng, cho an ninh địa phương. Đây là nhiệm vụ của mọi người trong cộng đồng.

    Chúng ta không phân biệt họ, nhưng không tha thứ cho những tên tay sai Việt gian cộng sản hoặc vì lý do nào đó đã, đang làm lợi cho CSVN

    Đặng thiên Sơn
    1 tháng 10/2008


    Rớt mồng tơi

    Trần Văn Giang

    Nói về “Nghèo,” tiếng Việt có nhiều chữ cực đoan để diễn tả: Nghèo rớt mồng tơi, nghèo tận mạng, bần chí tử, nghèo sặc gạch, nghèo sát d’…, nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra máu … Riêng thành ngữ tượng hình “nghèo rớt mồng tơi” được dùng khá rộng rãi. Tự điển Thành ngữ và Tục ngữ Việt Nam (của nhà xuất bản Văn Hóa) giải nghĩa “nghèo rớt mồng tơi” là “nghèo đến cùng cực.” Thành ngữ này được dùng nhiều nhất ở miền Bắc Việt Nam vì ở nông thôn miền Bắc, các cửa ngõ, hàng rào thường hay trồng rất nhiều giây mồng tơi. Đây là một lọai rau dễ mọc, dùng cho nhà nghèo. Dân nghèo đi làm ruộng về, không có tiền mua thịt cá, chỉ cần bắt vài con cua, con cáy ở đồng; khi về nhà, ra ngõ vơ một nắm mồng tơi là có được một nồi canh cho bữa cơm thường ngày của nhà nông. Rau mồng tơi có nhiều nhớt (người Bắc còn gọi là “rớt”) vì vậy “rớt mồng tơi” được dùng để chỉ sự nghèo khổ của ngưới Việt (nhất là ở miền Bắc). Thi sĩ Nguyển Bính đã có lần thi vị hóa cái sự “mồng tơi xanh rờn” trong bài “Cô Hàng Xóm” để tả sự đơn giản, môc mạc của tình cảm dân nông thôn Bắc việt.

    Đến đây kể cũng bàn lọan tạm đủ về chuyện mồng tơi. Để khỏi lạc đề, mục đích của bài này là bàn về “sự nghèo” chứ không phải thực phẩm rau canh mồng tơi!

    Cuộc sống có rất nhiều chuyện để quan tâm. Nhưng trên phương diện thực tiễn, đa số mọi người đều thấp thỏm về hai vấn đề giầu và nghèo. Thật lòng, ai cũng muốn giầu chứ có ai muốn nghèo? Giầu thường đi đôi với sang trọng (giầu sang!) sung túc. Giầu được kính nể, được mọi người chú ý săn đón … trong khi nghèo thì đi với khổ (nghèo khổ!) thiếu thốn, bị mất đi hay thiếu những vật chất cần thiết tối thiểu để cho cuộc sống có ý nghĩa như cơm áo, nước uống, chỗ ở ... chưa kể các cơ hội được đi học, tình trạng tâm trí căng thẳng rụt rè lo âu. Nghèo đến rớt mồng tơi đâm ra hèn mọn, bị khi dể, chí đoản, bị đời bỏ rơi khinh miệt … Giầu ở hang hốc cũng có người tìm đến; nghèo đứng giữa chợ đông người cũng chẳng có ai để ý ngó ngàng …

    Như đã thấy, nghèo không chỉ có đơn gỉan một định nghĩa mà là sự tập hợp của cả trăm cách khác nhau. Thí dụ:

    Nghèo vì không có thực phẩm để ăn
    Nghèo vì không có nước để uống
    Nghèo vì không có nhà ở
    Nghèo vì không có phương tiện y tế
    Nghèo vì không có tiền
    Nghèo vì bị bỏ rơi, quên lãng,
    Nghèo vì thiếu học, thiêu giáo dục
    Nghèo vì đông con
    Nghèo vì không có công việc làm hay không có đất để cày cấy trồng trọt

    Thôi! Tạm thời “Nghèo” được định nghĩa là: “sự thiếu thốn các vật chất cần thiết của đời sống.” Còn “người Nghèo” là: “người không có hay không đủ khả năng để tự tìm ra các phương tiện vật chất cho đời sống. Nếu họ vẫn sống hoặc vẫn tồn tại thì họ cần phải trông cậy vào sự giúp đỡ hay nhờ vào tài nguyên, lòng từ thiện của người khác.”

    Nghèo đã thiếu ăn thiếu mặc là một chuyện mà lại bất lực, không có tiếng nói (có muốn nói cũng chẳng ai nghe), bị lệ thuộc, bị đối xử nhục nhã.

    Biết sự nghèo là khổ như vậy, nhưng không phải cứ muốn giầu là được! Không có ai muốn nghèo. Cái nghèo không được mời, nhưng nó cứ đến với mọi người một cách “vô tư…” ngoài ý muốn, chạy nhanh cách mấy cũng không thoát!

    Các tờ báo kinh tế tài chánh, thí dụ như Forbes …, thỉnh thỏang vẫn hay liệt kê danh sách những người giầu nhất kèm với trị giá tài sản mà họ đang có. Không thấy ai, báo chí nào lập ra danh sách tương tự như vậy cho người nghèo; bởi vì, cũng dễ hiểu, lập danh sách người nghèo cho đến khi nào mới xong? Người nghèo có cái gì cụ thể để mà đo và đếm?

    Phân tách vấn đề giầu nghèo của đời người cũng không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều lúc giầu và nghèo luân chuyển với nhau như bánh xe luân hồi: Giầu có thì hoang phí. Hoang phí hết tiền của sinh ra nghèo. Nghèo sống cần kiệm chăm chỉ. Cần kiệm chăm chỉ trở thành giầu có …

    Trong khuôn khổ bài nhận định này, một cách chủ quan, tôi sẽ tìm cách phân tách nguyên do và hoàn cảnh của sự nghèo khó của người mình và để cố gắng nêu ra (cũng lại chủ quan) một vài giải pháp khả dĩ. Nếu có gì sơ xuất thì xin quí vị quan tâm bổ túc thêm.

    Nguyên nhân nghèo

    Tại sao nghèo? Có nên trách người dân nghèo vì chính họ làm cho họ nghèo? Hay là trách cái chính phủ ngu dốt đã theo đuồi các chính sách hại dân hại nước; chính sách đắp mô trên sự nghiệp thăng tiến của dân tộc? hay vì lý do nào khác nữa?

    (Oái ăm là nếu các cơ sở nhân đạo trên tòan thế giới lấy tất cả số tiền mà họ tài trợ cho các công cuộc nghiên cứu về nguyên do “nghèo đói” đem giúp đỡ thẳng cho người nghèo; thì nửa số người nghèo đã bớt nghèo rồi !!!)

    Về nguyên do, sự nghèo có thể được tạm phân lọai thành 2 nhóm như sau:

    - Nghèo vì tự chính bản thân mình: Người lười biếng, thích chơi và ngủ hơn làm việc; nghèo vì ham cờ bạc, nghiện ngập, thích tiêu xài hoang phí …

    - Nghèo vì hoàn cảnh bên ngòai: Chính quyền ngu muội, dã man, tham nhũng sách nhiễu, lạm dụng bóc lột, làm sưu cao thuế nặng, kinh tế lạm phát, thất nghiệp, thời tiết, thiên tai, bệnh tật ...

    Ngân hàng thế giới lại phân người nghèo ra thành 2 thể lọai căn cứ vào đồng đô la:

    - Nghèo rớt mồng tơi (extreme poverty) là loại người sống với dưới 1 đô la mỗi ngày (US$ per person)

    - Nghèo vừa vừa (moderate poverty) là loại người sống với dưới 2 đô la mỗi ngày.

    Nhìn vào nước Việt Nam qua lợi tức bình quân trên đầu người (“income per capita”), sau 63 năm đảng Cộng sản nắm chính quyền (1945) 33 năm sau khi “thống nhất đất nước” (1975), là $725.00 thì Việt Nam vẫn là nước rất nghèo. Điểm đáng chú ý là 51% dân Việt vẫn còn nghèo trong tình trạng rớt mồng tơi (tức là dưới US$ 1.00 một ngày).

    Qua lịch sử, câu nói sau đây của Lenin đã hoàn tòan lỗi thời và sai bét:

    “Nguyên do chính gây ra nạn nghèo trên thế giới là là chính sách thực dân của tây phương.”

    Các quốc gia nghèo nhất trên thế giới chưa hề có bước chân của thực dân như: A Phú Hãn, Ethiopia, Tây Tạng và Liberia. Đồng thời có một số quốc gia giầu bậc nhất trên thế giới cũng chưa hề có sự kiểm soát nào của thực dân như: Thụy sỉ, Na Uy, Đan Mạch, Phần lan. Trong khi cũng có các quốc gia giầu có lại là thuộc địa cũ như Hồng kông, Hoa Kỳ, Gia nã đại, Tân tây Lan …

    Trở ngại chính của sự phát triển quốc gia là chính trị, kinh tế chứ không phải văn hóa hay tôn giáo (mặc dầu văn hóa hay tôn giáo cũng có ít hay nhiều đóng một vai trò phụ trong sự giầu nghèo của dân tộc!)

    Hòan cảnh Việt Nam

    Trong “Mười điều răn” của Thiên chúa giáo. Đã có đến 2 hai điều (20%) nhắn nhủ về vấn đề tôn trọng tài sản (tư hữu) của con người.

    Điều 8 nói: “Không được trộm cắp.”
    Điều 10 nói: “Không được tham của người.”

    Hèn gì CS không thích Thiên Chúa gíao (và ngược lại!)

    Có ý tham tài sản của người (điều 10) đã là một tội rồi; lấy trộm (điều 8) tức là “lấy” mà không có sự đồng ý của sở hữu chủ còn mang tội nặng hơn.

    Chính CS (và XNCH) đã hợp thức hóa vấn đề “lấy” của cải của người dân. Họ không chỉ “lấy” mà ngang nhiên “cướp (!)” đi tất cả những gì người dân tạo dựng ra từ mồ hôi nước mắt; và rồi rao giảng là làm như vậy để tạo một “xã hội công bằng tốt đẹp hơn.” Sau 60 -70 năm (từ sau “cách mạng tháng 10” ở Nga và “cách mạng tháng 8” ở Việt Nam), sự công bằng vẫn chỉ là bánh vẽ. Chỉ thấy “hướng dẫn sản xuất” dẫn đến kinh tế trì trệ, “giới hạn lợi bổng và chế độ bao cấp” dẫn đến năng xuất kém và tiêu diệt sáng kiến. Chính phủ càng tăng gia sự kiểm sóat thì tự do của công dân càng bị thu hẹp … CS một mặt không xây dựng được gì đã đành; lại còn phá hủy cái động cơ căn bản thúc đẩy sự sản xuất: “tư hữu.” Người dân dưới chế độ CS càng ngày càng nghèo thêm; ngọai trừ một thiểu số cán bộ, nhân viên chính quyền giầu có nhờ tham nhũng, lường gạt dân chứ không phải vì họ lao động giỏi …

    Ngay cả lý tưởng “công bằng xã hội” theo kiểu cộng sản (“cách mạng vô sản”) nghe cũng không ổn! Gỉa dụ việc lấy hết của nhà giầu để chia cho nhà nghèo được thi hành một cách “nghiêm chỉnh” thì chính sách “nghiêm chỉnh” này tự nó đã “thiếu tinh thần sản xuất” rồi. Theo John Tucci:

    “Lấy của cải của người giầu - bất kể giầu vì lý do gì (giầu vì làm việc siêng năng, may mắn hay thụ hưởng gia tài của cha ông, lường gạt, tham nhũng …) đem chia cho người nghèo sẽ không giúp ích gì cho người nghèo cả. Bời vì giầu nghèo không phải là vấn đề có nhiều tiền của (hay ít tiền ít của) hơn người khác; chẳng khác gì người bị béo phì không phải vì Mc Donald bán hamberger và khoai chiên có nhiều dầu mỡ. Ăn hamburger và khoai chiên có nhiều dầu mỡ là sự lựa chọn của mỗi người.”

    Đúng như vậy? Ngoài ra, sự bố thí chẳng giúp ích gì cho người nghèo nếu nhìn theo chính sách về lâu về dài. Nếu cho (free of charge!) người nghèo đói một con cá. Họ ăn hết con cá đó thì ngày mai họ lại đói lại như thường. Chính sách tốt là chính sách biết cách dậy (“giáo dục”) người nghèo làm sao biết cách “câu cá” thì mới mong họ tự túc kiếm ăn không bị đói.

    Nhìn chung các nước nghèo (trong đó hiển nhiên có cả nước Việt Nam anh hùng) đều có vài điểm giống nhau. Ngoài chuyện thiếu ăn, thiếu mặc còn thấy ngay là nước đó có chế độc tài hoặc Cộng sản - hoặc có cả hai của quí “độc tài và CS” một lúc (Tôi đề nghị CS nên đổi lại khẩu hiệu mà họ thường trên in trên những hàng đầu các văn bản của nhà nước là: “Không có gì qquý bằng độc tài và Cộng sản”) - Không phải vì đất nước thiếu tài nguyên mà vì lãnh đạo độc tài CS phần lớn thất học, tham lam mông muội. Họ chỉ lo vơ vét cho nhiều cho nhanh để vinh thân phì gia (hoặc bỏ vào nhà băng ở ngọai quốc); họ không hề để ý gì đến vấn đề giáo dục, y tế và an sinh của dân; không xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết tối thiểu như trường học, bệnh viện, đường xá … để giúp dân có cơ hội thóat ra cảnh nghèo đói triền miên của họ.

    Chính quyền CS cứ ra rả hô hào “xóa đói, gỉam nghèo” mà chẳng thấy làm được cái gì cụ thể cả. Họ không biết là dân chúng Việt Nam đang muốn thi hành điều cần thiết số 1 (“number ONE”) là “diệt bỏ chủ nghĩa cộng sản.” Nếu trong một đêm, cứ mỗi một gia đình Việt Nam chia nhau xiết cổ 1 tên đảng viên CS là hôm sau nước Việt mới có thể có cơ hội “xóa đói giảm nghèo” được ngay! Việt Nam có thể cùng sánh bước tiến hóa với dân tộc của tòan cầu được.

    Chế độ CS và HCM sau khi ám sát, cắt đầu, mổ bụng, phá cầu, đắp mô, pháo kích vào khu đông dân cư, nướng bao nhiêu sinh mạng thanh niên Việt qua hết kháng chiến này đến chiến tranh nọ … thành quả duy nhất mà họ đem đến cho nước Việt là làm cho đất nước tụt hậu từ 50 dến 90 năm. Vinh quang ở chỗ nào? Xin cho biết với! Đời sống người dân dưới chế độ CS cứ dần dần chìm sâu hơn trong tuyệt vọng, không thấy lối thoát. Con đường “hy vọng” ngắn nhất đi từ sự nghèo khó đến hy vọng sinh tồn có lẽ là phải làm những chuyện bất hợp pháp như trộm cắp, lường gạt, buôn bán ma túy và … mãi dâm để sống qua ngày qua tháng. Ngay cả những người lương thiện, ngay thẳng, trọng nhân phẩm cũng phải nghĩ đến việc phải phạm pháp, việc phải đáng xấu hổ chỉ vì họ có cha mẹ, có anh em, có con cái đang đang sống vất vưởng và trông cậy vào họ. Thật là thương tâm khi phải nghĩ đến sự lựa chọn, sự hy sinh to tát của họ.

    Xứ sở nghèo (như Việt Nam) đều thiếu các cơ sở hạ tầng như đường xá, giao thông, nguồn nước sạch để uống, Ai cũng biết, sự giáo dục, học hành và sức khỏe sẽ mang lại một hy vọng cho người nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh bị đất của mình, những vùng nghèo lại thiếu trường học, thiếu cơ sở y tế tối thiểu. Không thấy chính quyền CS thi hành các nỗ lực (xây dựng) nào để giúp người nghèo. Nếu có tạo được một vài cơ sở hạ tầng như trường học, trạm y tế, thì người dân nghèo (“bần cố nông nòng cốt của cách mạng!” “chủ của đất nước!”) lại bị hạ nhuc, bị đối xử tàn nhẫn khi họ có nhu cầu cần tiếp xúc với các nhân viên, cán bộ nhà nước (“đấy tớ của nhân dân!”) ở chính ngay các cơ sở hạ tầng nầy (hối lộ, các chế tài khắt khe, ngăn cấm …)

    Nhiều chủ gia đình nghèo Việt Nam thấy sự thất bại của mình trong việc xây dựng tương lai cho gia đình và con cái, thường quay ra nghiện rượu, đánh vợ đánh con, làm cho cơ cấu gia đình bị đổ vỡ, rồi xã hội đổ vỡ. Chuyện tội phạm, vô luật lệ là chuyện bình thường của xứ nghèo. Đã xoá đói giảm nghèo không được, mà lại không có đủ phương tiện để chống phạm tội … Cái vòng lẩn quẩn dường như khó mà xoay ngược lại được mà lại cứ thế lún xuống xâu hơn mỗi ngày.

    Tiến trình của lịch sử thế giới cho thấy chủ nghĩa cộng sản chẳng sớm thì muộn rồi cũng sẽ bị tận diệt. Thật oan trái! Cái nguyên nhân chính sẽ tiêu diệt CS lại là cái mà CS vẫn hô hào cổ võ: “vô sản” (sau khi đã thi hành “Trí, phú, địa, hào / Đào tận gốc, trốc tận rề!"). Vô sản làm lụt đi cái động năng tự nhiên thúc đẩy con người làm việc chăm chỉ hơn (để thêm lợi nhuận tư sản). CS có khả năng làm đại đa số dân chúng nghèo bằng nhau những khó mà đem lại sự xung túc cho dân. CS biến văn minh dân tộc trở thành văn minh của các bộ lạc bán khai nơi đó tất các tài sản chung của bộ lạc (quốc gia) và tài sản của riêng của người dân mọi (dân chúng) đặt dưới sự “quản lý” của bộ lạc (nhà nước!)

    Thể chế dân chủ hay độc tài chưa thể quyết định được sự thịnh vượng hay nghèo khổ của quốc gia. Phải nhìn vào hệ thống kinh tế của quốc gia đó mới thấy rõ được sự thành công hay thất bại. Ngày hôm nay nền kinh tế tư bản mặc dù không hoàn hảo (khủng hoảng kinh tế, sự cách biệt lớn lao giữa giầu và nghèo…) nhưng nó đưa ra nhiều kết quả tốt hơn là từ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (nhà nước / giới cai trị kiểm soát mọi động tác trên sân chơi kinh tế). Bởi vì “công bằng xã hội” và “động lực phát triển kinh tế” không nằm chung giường với nhau được.

    CS có khả năng lật đổ, “cướp” chính quyền nhưng hoàn toàn không có khả năng đưa ra một phương cách cải tiến đời sống và tiện nghi của dân tộc. Đại đa số quần chúng đã nghèo từ trước vẫn nghèo như muôn thuở; Chẳng những thế, số người nghèo lại còn gia tăng thêm gấp bội hơn lúc trước. Sự thể này đã thấy rõ rệt ở các quốc gia trước đây theo chế độ CS như Liên xô, CS Đông âu … Hầu hết các các quốc gia có nền kinh tế tư bản đều là nước dân chủ – có nghĩa là chính quyền được dân bầu lên một cách dân chủ chứ không phải được chỉ định bởi 1 thiểu số hay 1 đảng phái. Dân nghèo, bị ép vế dưới chế độ tư bản sẽ áp lực các đại biểu của họ thi hành các biện pháp (hay thông qua các dự luật) để thay đổi hoàn cảnh của họ. Nhưng ngược lại, người nghèo, yếu thế dưới chế đó CS hoàn toàn bất lực, đó là chưa kể chính quyền CS lấy đâu ra tiền (capital) và mậu dịch (trade) – 2 món mà họ luôn luôn đã phá - để cải tiến mức sống của dân nghèo? Các nước tư bản tiến bộ vì dị biệt về quan điểm ý thức hệ với CS, không tha thiết gì về việc giúp đỡ các lân bang CS. Thành ra, cách tốt nhất, các chính quyền CS phải lấy / cướp của nhà giàu, trên nguyên tắc là, chia bớt cho người nghèo (?) (đánh tư sản mại bản cho đến tận gốc rễ, cái cách ruộng đất một cách phi lý, đẫm máu).

    Ở cuối con đường, các tài sản bị cướp từ các giới tư sản và địa chủ không vào tay dân nghèo mà lại vào tay của các cán bộ, đảng viên của giai cấp lãnh đạo (còn gọi “giai cấp mới”). Xã hội mất hẳn ý chí sản xuất (vì sản xuất ra lại sợ bị tịch thu …) như vậy lấy đâu ra vốn và kỹ thuật để làm gia tăng sản xuất, gia tăng mức sống … Nghèo sẽ là chuyện đương nhiên – hãy nhìn lại thêm một lần nữa Liên xô, Đông âu, Cuba, Bắc Hàn, Kampuchia, Việt Nam …

    Cơ hội giàu có sung túc của một dân tộc rõ ràng không chỉ căn cứ trên địa lý, văn hoá mà cả chính sách kinh tế và thể chế chính trị của dân tộc … 75 năm lịch sử cận đại đã chứng minh rõ rệt điều này.

    Tự nhiên, trong hai cái xấu, tốt nhất là mình nên chọn cái nào xấu ít hơn. Bài học sai lầm (lựa chọn cái xấu!) của dân tộc đã dài 60 - 70 năm rồi. Mình đâu có sống lâu để đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Hãy khôn ngoan học cái sai lầm của các dân tộc khác.

    “Việt Nam tiến lên!” là một khẩu hiệu quen thuộc của CSVN; nhưng Việt Nam tiến sao được khi còn đang bò từng bước lên “xã hội chủ nghĩa!” Việt Nam phải đứng lên và bước ra khỏi cái vòng lẩn quẩn nghèo - cộng sản – nghèo cái đã ….

    Trần Văn Giang