Monday, March 21, 2016

RƠI TRÊN ĐẤT ĐỊCH - Nguyễn Hữu Phước


    RƠI TRÊN ĐẤT ĐỊCH

Nguyễn Hữu Phước 
(phóng tác theo nguyệt san Reader’s Digest)

Trong cuộc chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam trước đây, bên cạnh những chiến tích hào hùng, những tấm gương can đảm của người quân nhân QLVNCH, chúng ta cũng không thể không nói đến sự chiến đấu của người bạn đồng minh.

Họ là những quân nhân đã vượt ngàn dặm để chiến đấu tại một vùng đất xa lạ chỉ vì lý tưởng bảo vệ tự do. Có những người ra đi để rồi không bao giờ trở lại, nhưng cũng có người may mắn sống sót. Và một trong những người may mắn nhất phải là Đại úy Locher của Không lực Hoa Kỳ.

Sau đây mời quý bạn theo dõi câu chuyện về Đại úy Roger Locher, một sĩ quan phi hành, kiêm chuyên viên vũ khí, đã từng tham dự nhiều phi vụ trên không phận Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam.

Locher thường bay trên loại phi cơ phản lực F-4 Phantom và đã hạ được nhiều phản lực MiG của địch trước khi chính phi cơ của anh bị bắn hạ trên không phận Bắc Việt.

Anh tìm cách lẩn trốn và sau 23 ngày đã được toán cấp cứu bốc ra khỏi miền Bắc một cách an toàn. Tên tuổi của Locher được ghi lại với một kỷ lục trong cuộc chiến Việt Nam: Sống sót và được cứu thoát sau 23 ngày kẹt trong lòng địch.
****
Trong khi đang đu đưa với chiếc dù lơ lửng trên bầu trời phía Tây Bắc, cách Hà Nội 40 dặm, Đại úy Locher vẫn chưa thể tin đó là sự thật: mình bị bắn rơi. Tương tự như những người đi bay khác, anh không bao giờ nghĩ rằng chuyện đó có thể xảy ra cho mình.

Nhưng nó đã xảy ra. Một cảm giác nghẹt thở vì sự sợ hãi, bơ vơ đến càng lúc càng rõ rệt. Hai chiếc MiG màu bạc bóng loáng lướt qua phía trên Locher ở cao độ 10,000 bộ. Rồi những đám rừng cây hiện lờ mờ phía dưới. Anh đáp xuyên qua những ngọn cây và cuối cùng đôi bốt đã chạm đất…

Roger Locher là một sĩ quan trẻ mới 25 tuổi, vóc dáng cao lớn. Anh cất cánh vào sáng ngày 10 tháng 5 năm 1972 từ một căn cứ không quân bên Thái Lan. Mục tiêu: Hà Nội. Nhiệm vụ: ngăn chận và tiêu diệt các phi cơ MiG của địch trước khi chúng có thể tấn công các oanh tạc cơ của Hoa Kỳ.

Đây là phi vụ thứ 407 của Locher. Anh ngồi ghế sau của chiếc chiến đấu cơ phản lực F-4 Phantom hai chỗ ngồi, có nhiệm vụ điều khiển hệ thống vũ khí gồm các loại hỏa tiễn, đại bác và bom. Trước đó không lâu, Locher đã bắn hạ được hai chiến đấu cơ MiG-21 của không quân Bắc Việt.

Lúc này, trước mặt Locher về phía Tây Hà Nội, một chiếc MiG đang nhào xuống một chiếc Phantom. Anh khai hỏa hai hỏa tiễn không-đối-không, chiếc MiG bốc cháy.

Thêm hai chiếc MiG nữa bị các Phantom của Hoa Kỳ bắn hạ trước khi người phi công lái chiếc Phantom của Locher thét lên: Chúng mình bị trúng đạn rồi !

Khi ngọn lửa đã lan dần và chiếc Phantom không còn kiểm soát được nữa, lao đi vùn vụt, Locher hét lên: Tôi sắp sửa rời phi cơ.

Rồi anh kéo mạnh cần máy tống, sau một tiếng ‘bụp’ khô khan, thân người anh bị bắn văng ra không gian và anh ngất đi vài giây đông hồ…

Sau khi chạm đất, Locher đã hoàn toàn tỉnh táo. Anh biết chắc hai chiếc MiG vừa bay ngang đã liên lạc vô tuyến thông báo cho các lực lượng dưới đất biết về vị trí của mình. Cái dù của Locher bị vướng trên những cành cây mà anh không thể kéo ra được sẽ khiến địch xác định được vị trí một cách dễ dàng.

Locher vội vã tháo dù ra khỏi người và bắt đầu di chuyển một cách khó nhọc, tiến lên phía sườn núi. Anh cẩn thận không để lại một dấu vết sau những bước chân của mình.

Khoảng mười phút sau, Locher thở thật khó khăn, cảm thấy chóng mặt, đôi chân mềm tựa như cao-su, hai bàn chân lạnh ngắt. Anh nghĩ thầm: ‘Mình bị shock. Hãy dừng lại. Bình tĩnh. Hãy bắt bộ óc mình hoạt động’. Rồi anh bò sâu vào cánh rừng đầy cây lá rậm rạp và nằm rạp xuống theo tư thế đôi chân cao hơn đầu. Nghĩ đến tình trạng nguy hiểm hiện tại, Locher biết rằng mọi việc đang diễn ra một cách tệ hại. Vị trí anh đang ở quá xa về hướng Bắc. Điểm gần nhất mà anh có thể dùng máy liên lạc cấp cứu loại bỏ túi với các phi cơ bạn đang bay trên bầu trời là 90 dặm về phía Nam. Locher tính toán: 90 dặm ! Tìm cách lẩn trốn và bám chặt theo sườn núi, làm sao đi bộ ít nhất hai dặm trong một ngày, trong vòng 45 ngày, không lương thực và trên một địa thế hoàn toàn xa lạ. Nhưng bắt buộc phải cố gắng. Nếu kẻ thù có bắt được mình thì cũng thể để chúng bắt được một cách dễ dàng!

Locher lấy bình nước từ trong áo cấp cứu mặc trên người và từ từ uống hết một nửa, sửa lại cái nón lưới chống muỗi đội trên đầu, rồi với một cái địa bàn cầm tay và bản đồ hướng dẫn, anh thận trọng khởi hành về hướng Tây Nam. Sau mỗi bước chân, anh phải xem xét lại để xóa bỏ mọi dấu vết của đôi giày bốt, của những cành cây nhỏ bị đạp gẫy và tất cả những dấu vết khác có thể làm lộ tung tích của mình.

Tới trưa, đang đi bỗng Locher khựng lại, chết điếng. Từ phía trước mặt có những tiếng réo gọi nhau và những tiếng la hét như giận dữ tiến thẳng về phía anh.

Anh vội vã bò sâu vào một bụi cây và nằm yên, trong lúc bọn người lùng sục tiến đến càng lúc càng gần. Locher bỗng nhớ lại thời niên thiếu của mình ở vùng quê Sabetha, tiểu bang Akansas, nơi mà anh thường chơi trò giả làm vịt trời trốn trong bụi lau, cố gắng ẩn náu, để người thợ săn đang đến gần không thể phát giác. Locher nhủ thầm: Hãy thở thật nhẹ, đừng đầu hàng… Mồ hôi đổ ướt lưng, anh thầm cầu nguyện. Mũi anh có thể ngửi thấy cả mùi thuốc lá của những người đang sục sạo chung quanh. Có lúc tiếng chân người bước qua sát chỗ anh đang ẩn nấp… Ngày kế tiếp, sự việc trên lại tái diễn. Nhưng lần này, ngoài tiếng người la hét, Locher còn nghe thấy tiếng súng nổ. Anh nghĩ thầm: Họ đang tìm cách làm mình phải rời khỏi chổ ẩn nấp, giống như xua đuổi một con vịt trời bay ra khỏi bụi để bắn. Mình phải nằm yên. Họ có đạp lên mình mới mong tìm thấy… Kẻ thù đã suýt chút nữa thì làm được viêc đó: Locher nghe thấy tiếng cành lá bị nghiền nát bởi bước chân người, sau đó hai người đàn ông với súng tiểu liên trên tay tiến tới cách chỗ anh chỉ có vài mét và … ngồi xuống nghỉ mệt. Một lúc sau, họ bỏ đi. Tiếp theo là một sự yên lặng rất đáng nghi ngờ. Họ bỏ đi thật hay gài bẫy chờ con chim bay ra khỏi cành? Locher quyết định tiếp tục nằm im tại chỗ cho đến hết ngày, thỉnh thoảng chỉ dám duỗi nhẹ chân tay, để cho các bắp thịt đỡ mỏi.

Sang ngày thứ ba, Locher thử mở cái máy liên lạc dò tìm tần số cấp cứu và anh đã bắt được cuộc nói chuyện của những phi công đang bay tìm kiếm một nhân viên phi hành vừa bị bắn rơi. Nhân viên này báo cáo rằng kẻ thù đang theo đuổi ông ta, đã rất gần và yêu cầu nên oanh tạc vị trí của mình. Ông ta đã chọn lựa cái chết hơn là bị cầm tù!...

Tín hiệu yếu dần, Locher tắt máy liên lạc. Sau đó anh nghe thấy tiếng nói chuyện của những tên cộng sản đang đi truy lùng mình, cách chỗ anh ẩn nấp khoảng 200 thước… Cái gì thế này ? Locher vừa thắc mắc tự hỏi vừa tìm cách tống khứ những con vắt đang lợi dụng tình thế ngặt nghèo này để tấn công cổ và cườm tay của anh. Rồi Locher nghĩ thầm: Trong ba ngày qua mình đã không đi đưọc quá một dặm. Có thể mình sẽ không thoát khỏi nơi này. Nhưng thôi, cứ hãy cố gắng xem mình sẽ trì hoãn bao lâu cái kết cuộc không thể nào tránh né được.

Sang ngày thứ tư, mặc dù phải bước đi một cách mệt nhọc, Locher vẫn kiên trì men theo sườn núi, lên xuống hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác. Nước không thành vấn đề. Trời mưa ban đêm và vào buổi sáng anh phải hong quần áo cho khô, cẩn thận tránh không để cho giầy và vớ bị hôi thối. Nhưng Locher không có lương thực. Anh đã thử ba loại trái cây rừng. Lúc đầu gậm nhấm một chút ít, rồi chờ khoảng nửa giờ xem phản ứng cơ thể ra sao. Kết quả, anh thấy những loại trái cây này không có hại. Nhưng số lượng tìm được cũng chẳng bao nhiêu…

Locher có thể cảm thấy sức lực trong người mình sa sút một cách rõ rệt theo từng ngày. Điều này rất dễ dàng đưa đến sự chấp nhận đầu hàng. Không, nhất định không. Locher tự nhủ mỗi ngày. Hãy để cho kẻ thù phải khổ công tìm kiếm mình !

Ngày thứ 12, sau khi trời hừng sáng, Locher tìm thấy một con đường mòn khá tốt dẫn về hướng Nam. Đối với Locher, con đường này thật tuyệt hảo, vì anh không còn phải dùng sức nhiều như khi đi xuyên rừng. Bất chợt, Locher nghe thấy nhều giọng nói đang tiến gần về phía mình. Những đứa trẻ chăn trâu đang lùa trâu về phía cánh đồng cỏ. Locher vội nhào vào một bụi rậm, bò đi cách đường mòn vài thước và nằm im. Nhưng những con trâu đã dừng lại gặm cỏ bên vệ đường, có con chỉ cách chỗ anh nằm vài thước.

Thời gian trôi qua một cách chậm chạp, hành hạ Locher trong khi anh nằm im giờ này qua giờ khác. Mãi tới gần hoàng hôn, Locher mới nghe thấy tiếng bọn trẻ gọi nhau, anh nghĩ: chúng bắt đầu lùa trâu về làng! Anh nghe thấy tiếng thở hồng hộc của từng con trâu và tiếng roi của bọn trẻ quất trên lưng những con vật để thúc chúng đi về. Một con trâu giận dữ khịt mũi, đạp chân vào một cành cây sát chỗ Locher nằm, khiến cành cây này đập mạnh vào mắt cá chân. Anh há hốc miệng vì đau, nhưng cố giữ không cho âm thanh thoát ra. Sau khi con trâu đi qua, lại tới đúa bé dẫm lên cành cây hồi nãy, khiến nó đập xuống đùi Locher. Cuối cùng là sự im lặng.

Sau khi trời tối, Locher lén đi bọc vòng quanh làng và tiến lên phía sườn núi để dò xét tình hình chung quanh. Rồi anh lấy lá cây xếp thành một cái giường để ngủ. Thỉnh thoảng anh lại thức giấc, để tống khứ những con vắt đang hút máu mình. Mỗi con để lại một vết đau. Sau đó một trận mưa đổ xuống.


Maj. Robert Lodge (left) and Capt. Roger Locher (right) in the cockpit of F-4D 65-0784, seen earlier in 1972: the team already had two MiG-kills to their credit when they clashed with MiG-19s and MiG-21s on the morning of May 10, 1972.
Trời sáng, Locher vừa sưởi nắng cho khô quần áo, vừa nghiên cứu cẩn thận lại bản đồ, rồi đi tới một kết luận kinh hoàng… là trong 12 ngày qua, anh chưa đi được quá 10 dặm đường chim bay! Nếu vẫn còn ở khu vực phía Bắc quá xa này, anh không có hy vọng được cứu thoát. Phải tiếp tục đi về phía Nam. Nhưng từ đây ra đồng bằng sông Hồng, với bề rộng chừng 20 dặm, khó lòng mà tìm được nơi trú ẩn khi hữu sự. Không biết phải giải quyết ra sao, Locher đành ở lại vị trí ẩn náu của mình. Ngôi làng trải dài khoảng 500 mét dưới chân núi và Locher có thể nghe thấy tiếng kẻng hàng ngày. Kẻng báo thức buổi sáng, kẻng đi làm, kẻng nghỉ giải lao, kẻng ăn trưa.v.v…

Ngày lại ngày trôi qua. Tới ngày thứ 20, Locher biết mình đã phí công sức. Anh sờ xuống đôi mông và cảm thấy chỉ còn da bọc xương. Đầu óc anh trống rỗng và chỉ còn nghĩ tới miếng ăn. Chỉ có hai giải pháp: một, nằm chết đói ở đây, hai, là đi xuống đồng bằng tìm cách lấy trộm thực phẩm. Nhưng Locher cũng biết rằng, sau khi anh bắt đầu vượt qua cái thung lũng trống trải để xuống đồng bằng thì hầu như nắm chắc trong tay việc bị bắt làm tù binh. Locher nghĩ tới viễn tượng khủng khiếp khi bị giam cầm và xác định quyết tâm sẽ tự hành xử một cách danh dự, không để trở thành tù binh của địch.

Thượng đế đã ban cho anh hai mươi lăm năm tự do và anh đã tận hưởng.

Vào tối ngày thứ 21, sau khi quyết định sẽ đi xuống đồng bằng vào trước rạng đông ngày hôm sau, Locher cảm thấy tâm hồn mình bình thản. Anh nhìn lên vần trăng vàng từ từ trôi ngang bầu trời, hít thở mùi vị tươi mát của không khí và thưởng thức sự cô quạnh của mình: anh vẫn còn tự do…

Một cơn mưa dài và nặng hạt làm Locher tĩnh giấc vào buổi sáng ngày thứ 22. Thì ra anh ngủ quên ! Mặt trời đã lên cao.

Locher tức giận với chính mình. Dù đã có quyết định tự hành xử, nhưng anh không thể liều mạng một cách vô lý, đi ngang qua làng vào giữa thanh thiên bạch nhật. Thế là lại thêm một ngày chờ đợi và chiến đấu với đàn muỗi rừng…

Locher vừa thiếp đi thì chợt tỉnh vì những tiếng đạn. Anh nhìn thấy cả ánh chớp của những hỏa tiễn địa-không được bắn lên từ ngôi làng kế cận, cách chỗ anh khoảng 8 dặm. Địch đang bắn lên các phi cơ Mỹ. Không chậm trễ một giây, Locher vội vã nhấn nút máy liên lạc cấp cứu và nói: Bất cứ phi cơ Mỹ nào nghe tên OYSTER ONE BRAVO xin trả lời. (Oyster=tên hiệu anh trong phi vụ ; One=phi cơ dẫn đầu; Bravo=ghế sau). Sau đó, Locher nhấn nút nhận tín hiệu và nghe thấy tiếng người trả lời: Go ahead, Oyster One Bravo. "Ê anh bạn, tôi bị bắn hạ ở đây đã hơn 22 ngày. Chuyển tin dùm tôi vẫn bình an". "Sẽ chuyển và tiếp tục liên lạc". Mười phút sau, Locher nghe tiếng trả lời: "Toán cấp cứu trên đường đến". Toán cấp cứu đến liền sau đó nhưng đã bị các phi cơ MiG và đủ loại phòng không của địch đẩy lui. Locher tin tưởng một cách tuyệt đối rằng những người bạn của mình sẽ trở lại vào sáng hôm sau và chắc chắn họ sẽ được địch ‘đón tiếp nồng hậu’. Thực vậy, suốt buổi chiều và tối, Locher nghe thấy tiếng xe chở bộ đội tới và tiếng phi cơ MiG đáp xuống một phi trường gần đó. Như vậy, địch cũng đoán biết những gì sẽ xảy ra vào ngày hôm sau. Locher lo lắng không biết sự việc rồi đây sẽ ra sao… Buổi sáng ngày thứ 23, kể từ ngày Đại úy Roger Locher bị bắn rơi, một lực lượng 38 phi cơ Mỹ gồm chiến đấu cơ, oanh tạc cơ phản lực, khu trục cánh quạt, trực thăng cấp cứu và phi cơ tiếp tế nhiên liệu trên không, cất cánh từ Thái Lan tới Bắc Việt để cứu người bị nạn. Đầu tiên, hai phi cơ mở tần số liên lạc với Locher và xử dụng các máy móc điện tử để xác định vị trí của anh.

Một phi công nói qua máy: "Chúng tôi đã biết anh đang ở đâu rồi. Bây giờ anh cứ đứng tại chỗ, chúng tôi sắp kéo anh ra khỏi nơi này". Bên dưới mặt đất, Locher lạnh và run rẩy: "Xin Thượng đế bảo vệ họ, đừng để ai bị bắn rơi vì con". Khoảng 30 phút sau, hai trực thăng xuất hiện. Trong khi Locher làm dấu hiệu xác định vị trí của mình bằng kính phản chiếu, một trong hai chiếc bay về phía anh, chiếc còn lại chờ đợi tiếp cứu trong trường hợp khẩn cấp. Phía trên, các chiến đấu cơ vần vũ, gầm thét uy hiếp tinh thần địch. Chiếc trực thăng dừng lại, lơ lửng phía trên vị trí của Locher khoảng 15 mét và thả xuống một ‘penetrator’ (dụng cụ có hình trái thủy lôi, có trọng lượng vừa đủ để làm xuyên thủng những tàng cây che phủ vị trí Locher đang ẩn nấp).

Tiếng súng liên thanh đồng loạt bắn ra từ ngôi làng dưới chân núi, nhưng sau đó đã vội im tiếng, vì bị trực thăng võ trang trả đũa.

Locher nhào về phía penetrator. Anh nhanh nhẹn kéo dây an toàn từ penetrator ra nịt vào người, và banh ba càng ngồi hình mỏ neo ra ngồi vào. Sau đó anh dơ ngón tay ra hiệu…

Trong khoảnh khắc, Locher đã được kéo lên và đưa vào trong thân trực thăng. Lực lượng cấp cứu trở về căn cứ. Một số MiG của địch bay lượn ở xa xa, hậm hực chứng kiến mà không dám lại gần, vì biết không thể địch lại lực lượng hùng hậu của Mỹ.

Về phần Đại úy Roger Locher, chuyến bay về Thái Lan phải là chuyến bay hạnh phúc nhất đời. Lúc đó anh không thể biết mình đã sút đi gần 15 kí-lô sau 23 ngày hoạn nạn, anh cũng không biết rằng mình là người sống sót lâu nhất trong số các phi công lâm nạn và đã được cứu thoát trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và dĩ nhiên, anh cũng không thể biết rằng, cuộc cấp cứu anh là cuộc cấp cứu vào sâu trong lãnh thổ địch nhất và tất cả đã trở về an toàn.

Anh chỉ biết có một điều là mình đã được bạn bè cứu thoát. Họ đã liều chết để cứu anh. Bây giờ, ngồi trên phi cơ, họ luôn miệng cười đùa như thể đã quên mất việc mình vừa đi vào đất địch.

Họ không cho Locher một dịp may nào để nói một lời cảm ơn. Anh chỉ biết nhìn họ với đôi mắt mở to, với nụ cười dễ thương, và những giọt lệ từ khóe mắt tràn ra, rồi từ từ lăn xuống bộ râu rậm của mình…



Sunday, March 20, 2016

NGHỀ SƯỚNG NHẤT Ở VIỆT NAM - Trần Thảo Minh Hạnh

...
Nghề này mới sướng thứ nhì, thua nghề làm Đảng Viên
Hàng bao nhiêu chục năm nay, cái nghề sướng nhất ở Việt Nam là NGHỀ LÀM ĐẢNG VIÊN của ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
...  Khởi từ thuở ban đầu của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì  Hồ Chí Minh , Lê Hồng Phong , Nguyễn Thị Minh Khai .... đã không cần phải ra công, gắng sức miệt mài với sách vở chữ nghĩa của các trường học.
..... Họ không cần có văn hóa, chữ nghĩa gì cả, không cần có các bằng cấp học vấn và kiến thức văn hoá gì cả ....
Hồ chí Minh đã không có văn bằng tốt nghiệp trung học, ông ta chỉ có trình độ lớp Chín mà thôi, đi làm bồi bàn cho nhà ăn Tây, rồi làm thông ngôn cho Tây ...
Nguyễn Thị Minh Khai đã không có trình độ của lớp ba tiểu học.
...  Rồi Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh Đặng Xuân Khu ....  cũng không có kiến thức và trình độ của cấp Cử Nhân Đại Học.
... Lê Duẫn thì chỉ có trình độ của lớp Năm tiểu học.
.... Nông đức Mạnh đã không có văn bằng trung học .....
Mãi cho đến thời bây giờ: -- đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã không có các bằng cấp nào của đại học, Nguyễn Tấn Dũng thì cũng chỉ có trình độ của lớp Chín, lớp Mười trung học mà thôi .....
Còn Trương Tấn Sang, Trần Đại Quang ....v..v....   thì có văn bằng ngụy tạo, giả tạo, văn bằng giả, văn bằng DỞM  mua của các trường đại học .....
Và một số đảng viên, cán bộ khác nữa của đảng Cộng Sản Việt Nam thì có các bằng cấp Giả, bằng cấp dởm mà thôi mua của các đại học không lớp, không sách vở,  không vách,  không tường (Colleges, Universities Without Walls) ở Mỹ, ở Anh quốc, ngoại quốc để lừa xạo, lừa gạt, bịp bợm mọi người !!!!!!!! .....v..v.... và .....v..v.....
Ấy thế mà các đảng viên của đảng Cộng Sản Việt Nam độc quyền nắm trọn hết tất cả mọi quyền hành, chức tước, địa vị về việc cai trị, quản lý, chỉ huy, lãnh đạo dân chúng và đất nước Việt Nam trong mọi ngành, mọi việc, mọi sự, mọi điều về chính trị, hành chánh, quân sự,  kinh tế, kinh doanh, thương mại, tài chánh, giáo dục, y tế...
.... từ hằng nhiều chục năm nay !!!!!!!!
Họ sống trên đầu, trên cổ, trên xương máu, trên các sự đau khổ kinh khiếp, trên sự nghèo nàn đói rách, khốn quẩn và trên mạng sống của nhân dân lầm than .....
Họ không cần biết đến dân chúng, họ không cần lưu tâm, để ý đến nhân dân !!!!!!!
Họ chỉ cần biết đến các tham vọng khùng điên và ngông cuồng về công danh, địa vị, chức tước, quyền hành, tiền của, tài sản của cá nhân họ mà thôi !!!!!!!! ....
Để đạt được các tham vọng cực điên khùng và ngông cuồng đó của cá nhân họ thì họ đã dùng tất cả các mưu mô và thủ đoạn độc ác nhất, tàn khốc nhất, kinh khủng nhất, gian trá, lọc lừa, bịp bợm, xảo quyệt, qu quyệt, tham lam nhất để khủng bố, tiêu diệt,  ăn cướp, giết người, bắt bớ, giam cầm, tra tấn,  đánh đập, hành hạ và bóc lột tất cả các người dân công chíng, lương thiện và vô tội !!!!!!!
Họ là các đảng viên Cộng Sản nên họ vô tôn giáo, vô tín ngưỡng, vô chính nghiã, vô nhân, vô tình cảm,  vô đạo nghiã, vô Tổ Tiên, vô Nòi Giống,  vô ơn nghiã, vô lương tâm, vô lương tri, vô DÂN TỘC VIỆT NAM và vô TỔ QUỐC VIỆT NAM !!!!!!!!!!
Họ đã bán sơn hà, giang sơn, xã tắc, bán các đất đai, các biển, các đảo của VIỆT NAM và Nhân Dân Việt Nam cho Tàu Chệt Trung Quốc để lấy tiền của, vàng bạc của Tàu Chệt Trung quốc đem chia chác cho nhau để mà làm lợi, mưu lợi lộc riêng cho công danh, địa vị, chức tước, tiền bạc, giàu sang của cá nhân và gia đình  riêng họ mà thôi !!!!!!!!! .....
Giờ đây dân chúng Việt Nam đã nhận biết được các tội ác tày trời kinh khủng, long trời lở đất, gian ác, độc hại khủng khiếp của các đảng viên và của Chế Độ vô nhân đạo của Chủ Nghiã Xã Hội Cộng Sản Việt Nam !!!!!!!
Dân chúng không còn chịu đựng được sự gian ác, thâm độc, ăn cướp, giết người, lường gạt, lọc lừa, bịp bợm của các đảng viên và Chế Độ sắt máu Cộng Sản nên họ đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi Việt Nam đến độ con kiến, con trùn, con rận, con rệp, cái bàn, cái ghế cũng muốn có cánh mà bay thoát ra khỏi Việt Nam !!!!!!!!!!
**  Rồi  đây, bọn Tàu Chệt Trung cộng rỉ tai nhau - bọn chúng đông và nhiều hơn kiến - chúng nói với nhau rằng thịt của người Việt Nam rất thơm ngon, rất bổ dưỡng, cường dương, tráng thận, mạnh mẽ thân mình, ăn vào thì sống thọ được 200 (hai trăm) năm như chúng đã ăn canh Thai Nhi Việt Nam, hiếp dâm tập thể và cắt xẻo vú các đàn bà, phụ nữ, con gái Việt Nam năm 1979 khi chúng nhào sang tấn công biên giới Việt Nam !!!!!!!!!!!
Hiện tại, ngay giờ phút nầy đây, bọn ác qủy Tàu Chệt Trung cộng đang ăn thịt các đàn bà, phụ nữ Việt Nam bị các tổ chức bí mật của nhà nước và các đảng viên gian ác của Cộng Sản Việt Nam bắt cóc đem bán cho bọn Tàu Chệt Trung cộng giết chết mổ lấy nội tạng rồi ăn thịt các nạn nhân đó giống như chúng đang giết chết và ăn thịt mấy con chó, con mèo, con thỏ vậy !!!!!!!!!!!!!!
Bọn Tàu Chệt Trung cộng sẽ tràn sang, nhào sang đua nhau, tranh giành nhau ăn thịt người Việt Nam vì các đảng viên và các cán bộ cộng sản Việt Nam đã bán Dân Tộc và đất nước Việt Nam cho Tàu Chệt Trung cộng rồi !!!!!!!
Chỉ trong vòng một năm là sạch trắng hết người Việt trên đất nước Việt Nam !!!!!!!!!!!
Trần Thảo Minh Hạnh

The Flash War of '74: China and Vietnam's South China Sea Showdown

    The Flash War of '74: China and Vietnam's South China Sea Showdown

While Asia watchers the world over debate China’s latest moves to transform the status-quo in the South China Sea one fake island at a time, we must remember the starting point of Beijing’s quest for dominance in this vital body of water: a brief and bloody battle with Vietnam in 1974 over the Paracel Islands. History clearly shows that it was this fast-paced and intense clash which set events into motion, a battle between Asian powers that is not very clearly understood—until now.

Thanks to the great work of scholar Dr. Toshi Yoshihara, a Professor at the United States Naval War College and one of the world’s best China defense watchers, we now have a much greater understanding of this brief struggle thanks to his recently published research, what he calls “a first cut at an important but largely underappreciated episode in China’s march to the seas.” The good professor also shares important details on how this battle likely influenced current Chinese tactics, laying out in stunning detail “how Chinese strategists tailored their tactics so as to coerce, deter and defeat a rival claimant in the South China Sea.”

Indeed, Yoshihara’s recent piece for the always impressive Naval War College Review titled The 1974 Paracels Sea Battle: A Campaign Appraisal, is a must read for those who want to know more about this brief conflict along with relevant lessons that apply today’s South China Sea showdown. As Yoshihara explains:
    “The conflict and its aftermath. . . left an outsize and lasting legacy in Asian international relations. The territorial dispute that gave rise to fighting forty years ago remains unresolved and continues to stoke Sino-Vietnamese enmity. When Beijing placed an oil rig in waters close to the Paracels in May 2014, violent protests targeting Chinese businesses broke out across Vietnam. At sea, Vietnamese maritime law enforcement vessels sought to break the security cordon formed around the rig by Chinese civilian, paramilitary, and naval vessels. Amid the standoff, bilateral relations plunged to new lows. The contest, then, is far from over; and the passions the dispute still stirs up trace back to 1974.”
But there is much more to the piece, twenty-four pages in all, than that—a comprehensive and far reaching work to say the least. He begins by reviewing the geographic setting as well as the historical context of the dispute. Yoshihara then recounts prior moves in this disputed area that brought China and South Vietnam to eventual blows. He then describes the battle in an epic style along with its aftermath—using mostly hard to come by Chinese sources which color most of his research. These sources craft an interesting narrative of the battle, taking a strong look at China’s civil-military relations, operational performance of Beijing’s navy and most important of all, the role of China’s paramilitary forces. Finally, he closes out the piece by offering thoughts about how the battle may inform China’s future strategy in the South China Sea and its implications for stakeholders in maritime Asia.

While a complete deep dive illustrating every detail that is worth reading in this excellent long-form article is a tough task in a blog such as this, I offer here five big highlights Asia hands should keep in mind from Yoshihara’s work:

1. Some of the Tactics the Chinese Used in the Battle were Very Innovative
    “The commanders received orders to ‘speed forward, fight close, and hit hard.’ The smaller, faster, and nimbler Chinese vessels purposefully sought close combat (贴身战, literally, “stick-to-body combat”) against the larger, lumbering, and slower-firing RVN units. The tactic was to draw so near that the enemy’s main deck guns would overshoot their targets. By fighting while sheltering in these blind spots, the Chinese effectively nullified the superior range and lethality of the enemy’s firepower. The PLAN commanders chose a knife fight against an adversary expecting a gunfight.”
2. After Vietnam’s defeat on the water and on the islands themselves, they briefly considered escalating the conflict, seeking American help
    “Stung by the defeat, Saigon threatened to escalate. The South Vietnamese navy reportedly sent two destroyers to reinforce Da Nang and directed six warships to head toward the Paracels. The RVN high command also alerted all ground, naval, and air forces to heighten readiness for war. President Nguyen Van Thieu, who arrived in Da Nang to oversee his forces personally, allegedly ordered the South Vietnamese air force to bomb Chinese positions on the Paracels—before rescinding the decision. At the same time, Saigon requested assistance from the U.S. Seventh Fleet, but to no avail.”
3. Paramilitary assets mattered—and could matter again in a future South China Sea clash:
    “The civil-military integration of China’s maritime power, involving the militia and the fishing trawlers, contributed directly to operational success. The militia, stationed forward on Woody Island, acted on short notice. Akin to a rapid-response force, the militia slipped onto the Crescent Group’s southeastern islands under the cover of night, preempting the Vietnamese. Indeed, the militia threw back RVN commandos attempting to seize the islands the next day. The ability to act quickly and effectively denied operational objectives to the enemy while likely buying time for regular troops to mobilize on the mainland. Finally, the militia took part in the seizure of Robert and Pattle Islands that helped to secure China’s control of the entire archipelago.”
Also of note, fishing vessels became an important weapon of war:
    “At sea, trawlers Nos. 402 and 407 acted as first responders. Months before the battle, the fishing boats maintained initial presence in the Paracels while asserting claims to the islands by planting flags on them. The trawlers then sent early warning to headquarters ashore when RVN warships first arrived in the Paracels. The leaders on board also furnished tactical intelligence to the PLAN’s local commanders at sea. The ships helped transfer the militia onto Duncan, Drummond, and Palm Islands the night before the battle and provided the means to conduct landings on Vietnamese-held islands after the RVN warships fled the area. The fishing boats were pivotal in the rescue of crippled minesweeper No. 389.”
4. A Chinese Playbook Emerges from 1974: Enter Scarborough Shoal
    “Chinese behavior during the 2012 Scarborough Shoal incident exhibits operational preferences that echo the 1974 Sino-Vietnamese clash...The more recent crisis began when a Philippine reconnaissance aircraft detected five Chinese fishing trawlers working near the shoal, located some two hundred kilometers west of Luzon Island. . . .
    “Just as armed trawlers played an outsize role throughout the Paracels campaign, civilian and paramilitary vessels took part in the Scarborough Shoal incident. Chinese fishing boats triggered both crises by engaging in activities that, at least in the eyes of rival claimants, were illicit or provocative. Militia-crewed boats in 1974 and paramilitary ships in 2012 acted as China’s first line of defense, helping to probe the intentions and capabilities of their opponents while asserting Beijing’s claims. The noncombatant vessels enjoyed the protection of the PLAN even as they served as the eyes and ears of the Chinese navy. Such mutual support enabled China to evaluate the tactical circumstances; demonstrate resolve without militarizing the confrontation during the initial stages; calibrate the level of coercive pressure needed to compel the opponent’s will; and, should deterrence fail, apply force.
    “The civilian character of the Chinese vessels constrained their rivals’ navies. The South Vietnamese and Philippine navies were apparently loath to fire directly on lightly armed or unarmed civilian vessels, lest they risk major escalation or diplomatic fallout. The two services thus found themselves maneuvering and posturing in vain to expel the Chinese ships.”
5. What Lessons Should the United States and its Allies/Partners in Asia take away?
    “Somewhat counterintuitively, a more powerful PLA [in 2016] could render unnecessary violent clashes like the Paracels battle. Instead, China may rely even more on its maritime law enforcement ships—the signature feature of China’s maritime coercion in recent years—to assert its territorial claims while the Chinese navy backstops such noncombatant units from just over the horizon. The Scarborough Shoal incident and the ongoing face-off over the Senkaku/Diaoyutai Islands amply demonstrate this civil-military integration of maritime power. Greater conventional military means will thus further empower irregular forces to impose China’s will on rival claimants. And, if all else fails, Beijing can still call on its navy to settle a dispute. That China—unlike its weaker rivals—has the option of climbing the escalation ladder only amplifies the intimidation factor. Indeed, the navy’s lurking presence may induce an opponent to back down in a crisis, as it apparently did during the Scarborough confrontation.”
While my short, quick-hits summary does not do justice to this fascinating piece of original research, one thing is quite clear: hybrid styles of warfare are nothing new, and a big part of China’s current military playbook originating decades earlier—something Washington must pay attention to in the months and years to come. And even more reason why we must always remember to study the past to gain valuable lessons about the times in which we live.

Harry Kazianis (@grecianformula) is a non-resident Senior Fellow for Defense Policy at the Center for the National Interest, a non-resident Senior Fellow at the China Policy Institute as well as a fellow for National Security affairs at the Potomac Foundation. He is the former Executive Editor of the National Interest and former Editor-In-Chief of The Diplomat. The views expressed are his own.
Image: Pixabay.
Source: nationalinterest.org



Saturday, March 19, 2016

Cái chết của tiếng Việt Sài Gòn cũ

    Cái chết của một ngôn ngữ: tiếng Việt Sài Gòn cũ
Trịnh Thanh Thủy

Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo. Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền văn hoá đệ nhất, đệ nhị cộng hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quận Đội, trường võ bị Thủ Đức, v.v... Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc biến đi như một sắp xếp của định mệnh hay một định luật của tạo hoá.

Nhắc đến tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì cuộc đấu tranh ý thức hệ mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân đôi. Sau ngày miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm năm 75, miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống, văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một số phận. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp sự chi phối của ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Nguời dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới. Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, v.v... dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.

Có những từ ngữ miền Nam và miền Bắc trước 75 đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ "quản lý" là trông nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lãnh vực thương mại trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu: "Anh xin quản lý đời em". Hoặc từ "chế độ" cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính trị như "chế độ dân chủ". Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như "chế độ xem", "chế độ bao cấp". Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản - giản đơn; bảo đảm - đảm bảo; dãi dầu - dầu dãi; vùi dập - dập vùi. v.v...

Song song với việc cưỡng chiếm, chính quyền cộng sản Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi đó là "tiếng Việt toàn dân". Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.

Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải. Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến trước đó sẽ biến mất trước tiên. Những: trực thăng, cộng quân, tác chiến, địa phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chức (hữu) trách, dứt điểm, phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái bộc pha, viễn thám, binh chủng, phi hành, gia binh, ấp chiến lược, nhân dân tự vệ, chiêu hồi, chiêu mộ, v.v… hầu như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại. Những từ ngữ thông dụng khác như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan. Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như: sổ gia đình, tờ khai gia đình, phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát, làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ, tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật, v.v...

Ở hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong tâm thức một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động tác mở để vỡ ra một con đường: Đường hoài hương. Nhiều người viết hải ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa thường tạo nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương pháp giải toả và trám đầy nỗi hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly dị với quê hương đất tổ sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ báo điện tử liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại. Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.

Thế hệ chúng tôi được người ta âu yếm gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một nửa.

Do đó, nhiều lúc tôi phân vân không biết mình nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của những từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt thông dụng trong nước? Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.

Các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản đối khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi là "chữ của Việt Cộng" và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là ở Nam Cali, báo chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ "cộng sản" nếu không khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay mà đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng đồng địa phương đó.

Trong cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông nhất như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ, hoạt động này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít. Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. "Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt" (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)

Về vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy theo một lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên, sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với tôi: "Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không dùng hoặc dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng cha mẹ của sinh viên, học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy phải đổi sách thì phiền chết."

Sự dị ứng và khước từ việc sử dụng tiếng Việt trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng Việt ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán và thế giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!!

Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài nguyên do:

Thứ nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ. Những người Việt Nam lưu vong phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng tiếng Việt trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.

Thứ hai, sự khác biệt của từ ngữ được dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một thí dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài nước dịch thành hai văn bản khác nhau:

Trong nước: Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy

Interfax dẫn một nguồn tin Hải quân Nga cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ lò hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ. Phát ngôn viên hạm đội này cho hay: "Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống cấp năng lượng phần mũi tàu.
(http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/09/3B9EDF89/)

Ngoài nước: Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga

Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có nguy cơ phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân hỏa hoạn có thể do chạm giây điện.
(http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=48362&z=75)

Một người Việt hải ngoại khi đọc văn bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ ràng vì sự khác biệt như những chữ: phòng điện hoá, được kích hoạt, chập điện, hệ thống cấp năng lượng...

Hơn thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa thông thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về điện toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó nhanh hơn là phiên dịch.

Trong việc phiên dịch, theo tôi, địa danh, đường phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người đọc dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh trên bản đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng khen nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng An sẽ dễ nhận ra hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm bản đồ này.
Tôi thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm ra: đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước Mỹ!

Ngôn ngữ chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay chuyển động để phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị lỗi thời và không còn thích ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng Việt trong nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống đối việc sử dụng tiếng Việt trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã xảy ra khiến người ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp chí, sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những văn bản trong nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc quốc nội được bày bán trong các tiệm sách. Các đài truyền thanh phỏng vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ, nhiều người nổi tiếng ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa. Giới truyền thông bây giờ sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ trích, không còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó chịu và chê trách, họ chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi, không chịu thì phải ráng mà chịu.

Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là "cái chết của một ngôn ngữ". Đau lòng lắm thay!

Trịnh Thanh Thuỷ


Saturday, March 5, 2016

Môn Lịch Sử Tự Chọn - Trần Gia Phụng

    Về Môn Lịch Sử Tự Chọn
Trần Gia Phụng

Ngày 5-8-2015, bộ Giáo Dục và Đào Tạo Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố “Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể”. Dự thảo chương trình nầy khá ôm đồm, trong đó có một môn học gây tranh cãi ồn ào từ mấy tháng nay là môn lịch sử ở bậc trung học, được bản dự thảo chương trình của bộ GD-ĐT đề nghị chuyển đổi từ một môn học bắt buộc thành môn tích hợp ở cấp trung học cơ sở (THCS) và môn tự chọn ở cấp trung học phổ thông (THPT). Cấp THCS là cấp 2, tương đương trung học đệ nhất cấp thời Việt Nam Cộng Hòa. Cấp THPT là cấp 3, tương đương trung học đệ nhị cấp thời VNCH.

Nhiều nhà giáo, nhiều nhà nghiên cứu sử, kể cả các sử gia trong nước, cho rằng làm như thế là hạ giá môn lịch sử, đứng ra tổ chức hội thảo và mời chức sắc bộ GD-ĐT đến thảo luận. Ngày 15-11-2015, tại Hà Nội, cuộc hội thảo mang tên “Môn lịch sử trong giáo dục phổ thông”, diễn ra cuộc tranh luận giữa một bên là đại diện bộ GD-ĐT, và bên thứ hai là các nhà nghiên cứu sử học, các giáo viên trung học. Cuộc hội thảo đi đến kết quả là “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay” (tục ngữ).

Quốc hội Hà Nội cũng vào cuộc. Sau nhiều cuộc thảo luận, quốc hội Hà Nội đưa ra quyết định ngày 27-11-2015, yêu cầu bộ GD-ĐT tiếp tục giữ môn lịch sử là môn học độc lập trong chương trình trung học như cũ. Tuy nhiên quyết định của quốc hội Hà Nội không phải là quyết định cuối cùng.

Cuộc tranh luận về bộ môn lịch sử hiện nay ở trong nước xoay quanh chuyện là nên sắp môn lịch sử trung học vào môn học bắt buộc hay môn học tích hợp hoặc tự chọn? Như thế, các giáo viên, các nhà nghiên cứu sử học, chỉ thảo luận cách thức giảng dạy bộ môn lịch sử ở bậc trung học như thế nào, mà không đi vào điểm căn bản cốt yếu của vấn đề là vì lý do sâu xa nào đưa đến việc bộ GD-ĐT chuyển môn lịch sử từ một môn học bắt buộc thành môn học tích hợp hoặc tự chọn? Nguồn gốc của vấn đề là ở đó.

CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC CỦA CỘNG SẢN

Hồ Chí Minh (HCM), Mặt trận Việt Minh và đảng Cộng Sản (CS) cướp chính quyền và lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9-1945. Bộ trưởng Giáo dục là Vũ Đình Hòe. Chương trình giáo dục lúc đầu vẫn theo chương trình Hoàng Xuân Hãn của chính phủ Trần Trọng Kim. Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ lần thứ ba ngày 3-11-1946, thì Nguyễn Văn Huyên làm bộ trưởng giáo dục, Nguyễn Khánh Toàn làm thứ trưởng.

Nguyễn Khánh Toàn, người Thừa Thiên, sinh năm 1905, vào học Trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội năm 1923, rời trường năm 1926, không được cấp bằng tốt nghiệp vì theo lời Toàn, nhà trường cho rằng Toàn chống chính phủ. Năm 1928 Toàn đi Pháp, rồi qua Nga, vào học ở Học viện Thợ thuyền Đông phương (Université des travailleurs d’Orient) từ năm 1928 đến năm 1931, có tên Nga là Minin, có vợ Nga. Sau đó, Toàn ở lại Liên Xô, phụ trách việc giúp đỡ những học sinh Việt Nam mới đến. (Vy Thanh, KYTB Lò đào tạo cán bộ sách động của Quốc Tế Cộng Sản, tập 1, California: 2013, tt. 477-483.) Năm 1939, Nguyễn Khánh Toàn cùng Nguyễn Ái Quốc (HCM) qua Trung Hoa, cùng đến Diên An, căn cứ của CS ở bắc Trung Hoa. Toàn ở lại Diên An, đến năm 1946 mới trở về Việt Nam. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản [nguyên bản Anh văn], Mặc Định dịch, Paris: 1962, tt.79-81.)

Tuy chỉ là thứ trưởng, nhưng Nguyễn Khánh Toàn là người du nhập và áp dụng chính sách giáo dục từ Liên Xô vào Việt Nam. Đó là chính sách “giáo dục phục vụ chính trị” do bộ trưởng Giáo dục Liên Xô là Kalenikov (?) đưa ra. (Theo lời kể của những nhà giáo lão thành, đã từng tham dự khi còn trẻ, khóa huấn luyện chương trình cải tổ giáo dục năm 1946 của Nguyễn Khánh Toàn.)

Chính sách giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ đảng là chính sách giáo dục nền tảng của đảng CSVN, được áp dụng từ năm 1946 cho đến ngày nay, không thay đổi. Điều nầy dễ hiểu vì dưới chế độ CS, không phải chỉ riêng ngành giáo dục, mà tất cả các ban ngành đều phải phục vụ đảng. Hai ví dụ nổi tiếng là “quân đội ta trung với đảng… ” (lời HCM), hoặc “công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình” (khẩu hiệu hiện nay của ngành công an CS).

Phát biểu tại lớp học tập chính trị các giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc, dạy từ lớp 6 đến lớp 12, tại Hà Nội ngày 13-9-1958, HCM nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.” (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958.) Câu nầy được nhà trường Bắc Việt Nam (BVN) xem là tư tưởng vĩ đại về giáo dục của HCM, thật ra được HCM dịch lại lời của Quản Trọng thời Xuân thu (722-479 TCN) bên Trung Hoa: “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc; thập niên chi kế mạc như thụ mộc; chung thân chi kế mạc như thụ nhân.” (Kế hoạch một năm không gì bằng trồng lúa; kế hoạch mười năm không gì bằng trồng cây; kế hoạch trọn đời không gì bằng trồng người.) (Quản Tử, chương “Quyền tu”.)

Như thế, HCM và đảng CSVN thấy rõ tầm chiến lược đường dài quan trọng của ngành giáo dục. Quân đội và công an đều phải trung thành với đảng CS, vậy dứt khoát giáo dục cũng phải trung thành với đảng CS. Giáo dục phục vụ chế độ, có nghĩa là đảng CS đặt sẵn cái cày trước con trâu. Trâu ơi! Cứ thế mà tiến bước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Giáo dục phục vụ chế độ nghĩa là giáo dục phải có tính đảng; giáo viên phải vững chắc lập trường đảng, giáo khoa phải đầy đủ tính đảng. Nền giáo dục phục vụ chế độ nhắm đào tạo những con người hồng (đảng tính) hơn chuyên (chuyên môn), đồng thời là những con người biết vâng lời đảng CS, hơn là biết suy nghĩ độc lập.

Nói trắng ra, nền giáo dục dưới chế độ CS, từ đại học xuống tới mẫu giáo, không được độc lập mà phải phục vụ đảng, nghĩa là lệ thuộc hoàn toàn vào chủ trương chính trị của đảng CS.

Xin chú ý là giáo dục phục vụ chế độ thì tất cả các bộ môn trong chương trình giáo dục, đều phục vụ chế độ, trong đó có môn lịch sử. Cộng sản Việt Nam rất chú trọng đến ngành lịch sử nói chung và môn lịch sử trong trường học nói riêng. Môn lịch sử trong trường học được CS dùng để tuyên truyền về chủ nghĩa CS, về phong trào CS Việt Nam, về các lãnh tụ CS, đặc biệt về HCM, về hoạt động và thành quả của đảng CSVN từ khi thành lập năm 1930 cho đến ngày nay, nhứt là giai đoạn từ khi giành được chính quyền năm 1945 cho đến thành công năm 1975…

Chính sách giáo dục nầy về sau được củng cố thêm bằng luật số 11/1998/QH10 của Quốc hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998, theo đó: “… Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân… lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.”

LỊCH SỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Lịch sử là những hoạt động của loài người, đã xảy ra trong quá khứ của loài người, liên hệ đến đa số loài người. Vì là những sinh hoạt đã xảy ra trong quá khứ, nên không ai có thể ngược dòng thời gian để sửa đổi quá khứ, nghĩa là không ai có thể sửa đổi được lịch sử.

Môn lịch sử, sử học, hay sử ký trình bày lại quá khứ loài người như quá khứ đã xảy ra, hay cố gắng trình bày quá khứ càng trung thực càng tốt. Muốn trình bày quá khứ trung thực, đúng sự thật đã xảy ra, thì yếu tố tối cần thiết đầu tiên cho người viết sử là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng mới có thể viết được sự thật lịch sử.

Chỉ mới ngang đây, bắt đầu xuất hiện hai mâu thuẫn lớn giữa chính sách giáo dục CS với môn lịch sử:
    1. Một bên là giáo dục (trong đó có môn lịch sử) phục vụ đảng, phục vụ chế độ CS, còn một bên là trình bày quá khứ trung thực như quá khứ đã xảy ra, trung lập, không sửa đổi, không phục vụ ai cả.

    2. Chế độ CS là chế độ độc tài, toàn trị, chuyên chế, không có tự do, trong khi muốn trình bày trung thực quá khứ thì phải có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng.

Dưới chế độ CS độc tài toàn trị bưng bít, để giải quyết hai mâu thuẫn nầy, CS chỉ cần một động tác rất dễ dàng và đơn giản là CS không cần sự thật quá khứ, mà để phục vụ đảng, thì CS tùy tiện viết lại lịch sử, sửa đổi lịch sử theo nhu cầu của đảng CS. Nói cách khác, lịch sử của CS không phải là sự thật quá khứ, mà là thứ lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là lịch sử biên tập lại theo quyết định của đảng CS, nhằm tuyên truyền và làm lợi cho CS.

Có khi vì nhu cầu tuyên truyền, CS bịa đặt ra những câu chuyện dối trá rồi đưa vào lịch sử, như chuyện “Lê Văn Tám”. Người sáng tác chuyện Lê Văn Tám là sử gia hàng đầu của CS là Trần Huy Liệu. Trước khi chết năm 1969, Trần Huy Liệu hối hận, nhờ sử gia Phan Huy Lê cải chính khi nào có cơ hội. Phan Huy Lê đã cải chính điều nầy tại Hà Nội vào tháng 2-2005, xác nhận chuyện Lê Văn Tám không có thật. (Người Việt Online, 20-3-2005.) Tuy đã được cải chính, sách giáo khoa sử CS đến nay vẫn còn ca ngợi “anh hùng” Lê Văn Tám…

Loại lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể phổ biến trong không gian bưng bít dưới chế độ độc tài. Tại Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1975, ngoài sách vở, báo chí, tài liệu của CS, không có bất cứ nguồn sách vở, tài liệu, báo chí nào khác, để so sánh, đối chiếu, nên CS ưa viết gì thì viết, vẽ vời rồng rắn tự do trong các sách giáo khoa sử CS.

Hơn nữa, “giáo khoa là pháp lệnh”. Thầy cô giáo không được giảng dạy ra ngoài giáo khoa. Học sinh nhắm mắt học theo giáo khoa, không được bàn cãi. Nếu có người, nhất là những người lớn tuổi, phát hiện giáo khoa sử CS không đúng sự thật, cũng đành phải im tiếng, vì lên tiếng phê bình sách giáo khoa là bị ghép tội chống đảng, phản động, và sẽ bị tù tội… (Kinh nghiệm vụ Nhân Văn-Giai Phẩm làm cho mọi người khiếp sợ.)

Việc soạn thảo và in sách giáo khoa được kiểm soát chặt chẽ. Những người soạn sách phải là đảng viên có lập trường CS vững vàng và sách giáo khoa phải được duyệt xét thật kỹ càng trước khi in. Ngoài ra, để kiểm soát đời sống văn hóa quần chúng, CS độc quyền phân phối giấy in, quốc doanh các nhà in, các phương tiện truyền thông, đài phát thanh, báo chí, sách vở, văn học, nghệ thuật, điện ảnh, giải trí, và hoàn toàn không có một tạp chí tư nhân.

ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI CUỘC

Sau biến cố năm 1975, chiếm được Nam Việt Nam (NVN), CS tiếp tục bế quan tỏa cảng, thống trị đất nước một cách chặt chẽ. Nhà cầm quyền CS tịch thu, tiêu hủy toàn bộ sách vở, báo chí NVN mà CS kết tội là “văn hóa đồi trụy”. Ngoài việc bắt quân nhân công chức chế độ Cộng hòa đi tù dài hạn không tuyên án, CS còn bắt bớ, tù đày những nhà văn hóa, những văn nghệ sĩ NVN không theo CS, đóng cửa những nhà xuất bản, đưa vào quốc doanh những nhà sách, những nhà in. Chủ đích của CS là xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa NVN, giống như vào thế kỷ 15, nhà Minh xóa bỏ văn hóa Đại Việt.

Dầu CS dốc hết sức tiêu diệt văn hóa NVN, nhưng CS vẫn bất lực trong việc triệt tiêu di sản văn hóa NVN. Di sản văn hóa NVN gồm hai phần:
    1. Di sản văn hóa dân tộc cổ truyền được bảo tồn và lưu truyền ở NVN sau năm 1954, mà ở BVN bị CS tiêu diệt. 2. Nền văn hóa mới từ Âu Mỹ du nhập và phát triển trong 21 năm tự do dân chủ ở NVN. Chính di sản văn hóa NVN lan truyền trên toàn quốc làm thay đổi xã hội sau năm 1975.
Ngoài ra, còn có thêm các yếu tố thời cuộc mới, cũng giúp cho dân chúng Việt Nam, dầu bị CS kềm kẹp, vẫn tự học hỏi và thay đổi nếp sống, nâng cao nhận thức chính trị, văn hóa.

Đó là sau biến cố năm 1975, phong trào di tản rồi vượt biên ra nước ngoài lánh nạn CS càng ngày càng rầm rộ. Người Việt ra nước ngoài tập hợp thành cộng đồng người Việt hải ngoại hết sức năng động khắp nơi trên thế giới. Sau một thời gian ổn định cuộc sống ở nước ngoài, người Việt hải ngoại chẳng những gởi tiền, gởi hàng hóa, thuốc men về cứu trợ gia đình, bà con, mà còn chuyển nhiều thông tin, kiến thức, sách báo, tài liệu văn hóa, chính trị, lịch sử về nước.

Cũng sau năm 1975, CS áp dụng chính sách kinh tế chỉ huy, làm cho đất nước càng ngày càng nghèo đói, kiệt quệ. Để tự cứu mình, từ năm 1985, CS bắt đầu thay đổi. Lúc đầu, sự thay đổi khá chậm chạp, nhưng rồi nhanh dần.

Vì muốn hội nhập vào dòng sống quốc tế hiện đại, CS đành phải dần dần mở cửa rộng hơn. Công nghệ truyền thông thế giới tràn vào Việt Nam; mạng lưới thông tin quốc tế (Intermet) bao trùm trời đất. Dù CS cố gắng bưng bít, dựng lên những bức tường lửa, luồng gió văn hóa tự do dân chủ từ nước ngoài càng ngày càng xâm nhập Việt Nam.

Do ảnh hưởng của các yếu tố trên đây, dân chúng trong nước dần dần tự mở rộng hiểu biết, tiếp thu thêm nhiều điều mới lạ, càng ngày càng khám phá thêm nhiều sự thật lịch sử, càng phát hiện thêm những dối trá, lừa bịp trong tài liệu, giáo khoa sử của CS.

LỊCH SỬ THEO ĐINH HƯỚNG XHCN BỊ PHÁ SẢN

Trong khi trình độ hiểu biết của dân chúng và của sinh viên, học sinh được âm thầm nâng cao, nhà cầm quyền CS vẫn giữ lối tuyên truyền cũ, vẫn tiếp tục giảng dạy môn lịch sử theo kiểu phục vụ đảng CS, và theo sách giáo khoa (pháp lệnh) do CS soạn thảo.

Theo chương trình, cấp THCS thi tốt nghiệp cuối năm lớp 9, và cấp THPT thi tốt nghiệp cuối năm lớp 12. Hai lớp nầy cách nhau ba năm, nhưng học cùng giai đoạn lịch sử từ năm 1930 là năm đảng CS được thành lập cho đến năm 2000. Tuy cùng giai đoạn, chương trình lớp 12 mở rộng nhiều hơn so với lớp 9.

Vì là chương trình thi tốt nghiệp lấy bằng cấp, nên giáo viên phải dạy kỹ và học sinh phải học kỹ giai đoạn nầy. Trải qua hai kỳ thi (lớp 9 và lớp 12) nên giai đoạn nầy được dạy kỹ và học kỹ hai lần. Đảng CS được thành lập năm 1930 nên CS rất chú trọng đến giai đoạn nầy.

Trong giai đoạn nầy, ngoài chiến tranh 30 năm từ 1946 đến 1975, CS còn có hai cuộc chiến quan trọng mà CS gọi là chiến tranh “Bảo vệ biên giới Tây Nam” tức chiến tranh Cambodia năm 1978; và chiến tranh “Bảo vệ biên giới phía Bắc” tức chiến tranh chống Trung Cộng xâm lược năm 1979. Cả hai cuộc chiến nầy gây hậu quả trầm trọng cho người Việt. (Đã có nhiều sách báo viết đến.)

Điều đáng nói là sách Lịch sử lớp 12 viết về giai đoạn nầy, do bộ GD-ĐT soạn và in lần thứ sáu năm 2014, tt. 206-207, trình bày cả hai cuộc chiến quan trọng trên chỉ trong 23 dòng chữ, kể cả tiểu đề, chiềm khoảng 2/3 trang sách. (Cũng trong sách nầy, trận Điện Biên Phủ năm 1954 chiếm 6 trang; trận Sài Gòn năm 1975 chiếm 5 trang.)

Còn chuyện Trung Cộng xâm lăng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì sách không viết đến. Điều nầy có nghĩa là CSVN tránh nói đến vì đã nhượng hai quần đảo nầy cho TC.

Đó là giai đoạn lịch sử 1930-2000. Còn lịch sử Việt Nam trước đó, tức từ khi lập quốc đến năm 1930, thì được CS sắp vào chương trình các lớp không thi, tức các lớp 6, 7, 8 (PTCS) và 10, 11 (PTTH). Giai đoạn nầy lâu dài hơn, lại là thời kỳ tổ tiên chúng ta chống Trung Hoa để giành độc lập và bảo vệ độc độc lập. Cộng sản lơ là giai đoạn nầy, chẳng những vì đảng CS chưa thành lập, mà còn vì những chiến công vang dội của tổ tiên chúng ta làm kinh động Trung Hoa, và nhất là nuôi dưỡng và hun đúc tinh thần chống ngoại xâm Bắc phương của người Việt Nam.

Các em học sinh càng ngày càng nhận chân rõ những dụng ý trong nội dung môn sử phục vụ chế độ nên đâm ra chán học môn sử, chứ không phải vì các em không thích học môn sử. Sử gì mà khi nào CS cũng thắng, địch cũng thua; chỉ biết ca tụng Liên Xô, TC một cách lạ lùng.

“Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ,

Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào.

Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ,

Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời và ngờ nghệch làm sao…”

(Việt Phương, “Cuộc đời như vợ của ta ơi”, tập thơ Cửa mở.)

[Việt Phương từng là thư ký riêng của Phạm Văn Đồng.]

Khi chưa cải tổ, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông gồm bốn môn thi bắt buộc là ngữ văn, toán, ngoại ngữ, và một môn tự chọn trong số các môn còn lại: vật lý, hóa học, sinh học, lịch sử, địa lý. Có nhiều nơi, nhất là ở thành phố, rất ít học sinh chọn thi môn sử. Ví dụ trong năm 2015 ở Sài Gòn, trường Bùi Thị Xuân (quận 1), trong 630 học sinh dự thi THPT chỉ có 9 em chọn thi môn sử; trường Lê Thị Hồng Gấm (quận 3), có 400 học sinh dự thi THPT, thì chỉ có 10 em chọn thi môn sử. Trường Long Trường (quận 9), trong 540 học sinh chỉ có 20 em chọn thi môn sử. (Báo VNEpress, trong nước ngày 8-5-2015.)

Từ đó, nhà trường CS gặp nhiều khó khăn trong việc dạy môn lịch sử. Khó khăn đầu tiên là nền tảng chính sách giáo dục CSVN hiện nay trong nước vốn được minh định bằng luật số 11/1998/QH10 của Quốc hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998: “… Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân… lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.”

Thực tế ngày nay ai cũng biết chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời và bị đào thải từ sau biến cố Đông Âu năm 1990-1991. Ngày 25-1-2006, quốc hội Âu Châu họp tại Strasbourg (Pháp) lên án chủ nghĩa CS là tội ác chống nhân loại. Còn “tư tưởng Hồ Chí Minh”, thì chính HCM xác nhận “Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin.” (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152. Nguyễn Văn Trấn là một cán bộ CS cao cấp ở miền Nam.)

Sinh viên, học sinh không còn tin chủ nghĩa Mác-Lênin và biết rõ HCM không có tư tưởng, nhưng nhà cầm quyền CS lại không chịu thừa nhận thực tế nầy, mà vẫn “kiên định lập trường”, bắt học sinh phải học. Làm sao học sinh không chán ngấy?

Càng ngày càng nhiều sự thật lịch sử được đưa ra ánh sáng, như chuyện về HCM, về Nhân Văn-Giai Phẩm, về Cải cách ruộng đất, về cuộc tấn công NVN… Vì vậy học sinh lại càng nghi ngờ tính cách trung thực, khách quan của giáo khoa sử CS.

Giáo khoa sử CS luôn luôn bôi đen, mạ lỵ địch thủ chính trị của BVN, là NVN hay Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Sách sử CS cho rằng VNCH là “ngụy quân, ngụy quyền”, nhưng ngày nay, thực tế cho thấy VNCH đã tận tình chiến đấu để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ. Gần đây, một người Hà Nội đã viết như sau: “Người ta gọi các anh là “quân ngụy”,/ Bởi các anh là lính Việt Nam Cộng Hòa./ Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ,/ Bởi các anh ngã xuống vì Hoàng Sa.” (Phan Duy Kha, 14-1-2014, http://phanduykha.wordpress.com.)

Thêm một chuyện nữa. Trong chiến tranh 1946-1975, Trung Cộng (TC) viện trợ mạnh mẽ cho CSVN. Sau năm 1975, CSVN chạy theo Liên Xô, nhưng Liên Xô sụp đổ năm 1991. Cộng sản quay qua đầu phục TC. Trung Cộng giúp CSVN duy trì quyền lực, nhưng ép CSVN ký hiệp ước nhượng ải Nam Quan, nhượng biển, nhượng đảo cho TC. Trung Cộng trở thành quan thầy của CSVN.

Trong khi đó, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm phương bắc, tức chống Trung Hoa xâm lăng. Lịch sử Việt Nam đã hun đúc tinh thần chống ngoại xâm mạnh mẽ nơi nhân dân Việt Nam, đến nỗi ngày 29-12-2014, bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh phải than lên rằng: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc.” (Phát biểu của bộ trưởng Phùng Quang Thanh ngày 29-12-2014. Tin báo chí trong và ngoài nước ngày 30-12-2014.)

Chỉ cần vài ví dụ thật đơn giản trên đây, cũng đủ thấy chẳng những ngành giáo dục mà cả chế độ CS rất lúng túng, khó khăn khi lịch sử đích thực của tổ tiên Việt Nam được phổ biến rộng rãi.

RƯỢU CŨ BÌNH MỚI

Để giải quyết những khó khăn trên đây, bộ GD-ĐT/CS cải tổ chương trình trung học, đưa ra “Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể”, theo đó bộ GD-ĐT đề nghị chuyển đổi môn lịch sử từ một môn học bắt buộc thành môn tích hợp và môn tự chọn.

Về lịch sử tích hợp, ở cấp THCS (cấp 2, tương đương trung học đệ nhất cấp), môn lịch sử được tích hợp với các môn khác, nghĩa là không phải là học môn sử riêng biệt như chương trình cũ, mà là một hình thức mới, kết hợp và lồng ghép lịch sử với một số môn liên hệ vào nội dung chủ đề các bài học.

Về lịch sử tự chọn, ở cấp THPT (cấp 3, tức trung học đệ nhị cấp), ngoài các môn học bắt buộc là toán, ngữ văn [Việt văn], ngoại ngữ, công dân với tổ quốc, học sinh được tự chọn một môn trong số các môn học còn lại là lịch sử, địa lý, hóa học, sinh học, vật lý…

Trong cả hai trường hợp, dự thảo chương trình mới chỉ thay đổi cách dạy môn lịch sử ở trường học, và tránh không đả động gì đến đến điều quan trọng cốt yếu là chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, nghĩa là môn lịch sử vẫn phải lệ thuộc vào đường lối chính sách của đảng CS, truyên truyền cho đảng CS.

Làm như thế, học sinh được âm thầm tách xa khỏi môn sử, vì ở cấp THCS, môn sử được kết hợp với các môn khác; còn ở cấp THPT, học sinh gần đến tuổi trưởng thành, bắt đầu chú ý đến thời sự, hiểu biết rộng rãi hơn, không thích môn lịch sử phục vụ chế độ, thì có con đường khác để học, không vướng bận chuyện học sử.

Đây là một diệu kế kín đáo của bộ GD-ĐT trong việc cải tổ chương trình trung học lần nầy, vừa duy trì môn lịch sử phục vụ chính trị theo chủ trương của đảng CSVN; vừa làm phai lạt môn sử, lại mở một lối đi khác cho những học sinh không thích học môn lịch sử phục vụ chính trị. Các em không thích môn sử nầy, thì các em có sẵn con đường tránh đi chỗ khác, cho được việc đảng, khỏi thắc mắc.

Lúc đó, bộ GD-ĐT và nhà trường CS sẽ có lý do chính đáng để đổ lỗi cho học sinh: Học sinh không học môn lịch sử là do học sinh tự quyết định, là vì học sinh thích học các môn khác hơn, là vì học sinh có năng khiếu các môn khác hơn, hoặc là vì các môn khác dễ học hơn môn sử …, chứ không phải vì lỗi về cách giảng dạy của nhà trường, hay lỗi của chương trình môn lịch sử do bộ GD-ĐT đưa ra, hay lỗi tại bản chất môn lịch sử phục vụ chính trị làm cho học sinh chán ghét. Thâm thúy đến thế là cùng.

KẾT LUẬN

Chủ trương chính sách giáo dục của chế độ CS là giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ đảng CS. Nhiệm vụ của nền giáo dục CS đã được khẳng định rõ ràng chắc nịch như thế, không tranh cãi và không bao giờ thay đổi. Từ năm 1945, CS nhiều lần thay đổi chương trình giáo dục, nhưng chỉ thay đổi cách thức tổ chức các lớp trung tiểu học (hệ 10 năm, hệ 12 năm), chứ không thay đổi nội dung giảng dạy, không thay đổi chính sách giáo dục, và luôn luôn duy trì môn lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các sách sử CS hay giáo khoa sử CS, dù ai viết, luôn luôn cùng một luận điệu, một kết luận như nhau, chỉ thay đổi từ ngữ và hành văn mà thôi.

Nói cho cùng, dưới chế độ CS lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là bản tường thuật hay bản báo cáo hoạt động và thành tích của đảng CS. Cũng có thể nói, lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa là loại bánh mà Chế Lan Viên đã viết: “Chưa cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ”. (Bánh vẽ – trích Di cảo của Chế Lan Viên). Học sinh chán ăn bánh vẽ, chán đọc báo cáo, chứ học sinh không chán môn lịch sử.

Chủ trương giáo dục phục vụ chính trị tự bản thân đã làm giảm nhẹ giá trị của bộ môn lịch sử, làm cho lịch sử không còn trung thực, thiếu khách quan. Chắc chắn thầy cô giáo, những nhà nghiên cứu sử trong nước dư biết điều nầy, nhưng vì yêu sử, yêu nghề, lại ở vào cảnh “cá chậu chim lồng”, không thể lên tiếng nói thẳng, đành phải gắng sức vớt vát được phần nào hay phần ấy. Thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu sử quan tâm, hội thảo như thế nào cũng vô ích. Có nói cũng dư thừa. Đàn gãy tai trâu mà thôi.

Những mâu thuẫn giữa chính sách giáo dục của CS và tính chất môn lịch sử không bao giờ có thể giải quyết được nếu chế độ CS còn tồn tại trên đất nước Việt Nam. Chỉ khi nào đảng CSVN và chế độ CSVN bị giải thể, thì lịch sử Việt Nam mới được giải thoát, khỏi bị kềm kẹp, khỏi bị sửa dổi, bóp méo, và khi đó lịch sử mới tái hiện đầy đủ như quá khứ oai hùng của dân tộc đã diễn ra.

Khi đó, môn lịch sử trong trường học mới tự do, trong sáng, trung thực và trở lại vị trí xứng đáng mà mọi người trông đợi. (Trích Lịch sử sẽ phán xét, xuất bản tháng 6-2016.)

Trần Gia Phụng