Sunday, May 17, 2015

Nhìn lại nền Giáo dục VNCH - Huỳnh Minh Tú

Nhìn lại nền Giáo dục VNCH
Sự tiếc nuối vô bờ bến
Sách giáo khoa thời VNCH

Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.

Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.

Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim – được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc.

Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
Một buổi lễ khánh thành tượng Petrus Ký trong khuôn viên (công viên 30/4 hiện tại), nằm trên đường Boulevard Norodom – (Đại Lộ Thống Nhất trước Dinh Độc Lập, hướng về Nhà Thờ Đức Bà).

Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.

Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.

Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Cảnh giờ rước học sinh.

Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.

Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.

Triết lý giáo dục

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng (liberalic)” được chính thức hóa ở hội nghị này.

Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).

1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.

Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.

Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.

Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.

3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.

Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.

Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.

Mục tiêu giáo dục thời VNCH

1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.

Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.

2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.

Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.

Giáo dục tiểu học:

Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

Số liệu giáo dục bậc tiểu học [8]

Niên học         Số học sinh        Số lớp học
1955                 400.865               8.191
1957                 717.198 [9]
1960                 1.230.000 [9]
1963                 1.450.679           30.123
1964                 1.554.063 [10]
1970                 2.556.000           44.104

Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.

Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.

Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn Quốc văn; 2 giờ Bổn phận công dânĐức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), Quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn Quốc văn, Công dân và Sử Địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.

Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).


Giáo dục trung học:


Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).

Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)…

Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.

Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
trước 1971                sau 1971
lớp năm                    lớp một
lớp tư                      lớp hai
lớp ba                     lớp ba
lớp nhì                   lớp tư
lớp nhất                     lớp năm
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
lớp đệ thất               lớp sáu
lớp đệ lục                lớp bảy
lớp đệ ngũ               lớp tám
lớp đệ tứ                  lớp chín

Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
lớp đệ tam                lớp mười
lớp đệ nhị             lớp 11
lớp đệ nhất           lớp 12

Trung học đệ nhất cấp:

Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%.

Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.

Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.

Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp.

Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.


Trung học đệ nhị cấp:

Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 1112, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở.

Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.

Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học [8]
Niên học           Số học sinh            Số lớp học
1955                  51.465                    890
1960                 160.500 [9]
1963                 264.866                   4.831
1964                 291.965 [10]
1970                 623.000                   9.069

Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.

Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20).

Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh; và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.

Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.

Trung học tổng hợp:

Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là mộtchương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.

Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) , sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960

Bổ sung (theo góp ý của độc giả Nguyễn):

Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).

Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.
Trung học kỹ thuật:

Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.

Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).
.
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử

Các trường tư thục và Bồ đề:


Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.

Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.

Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.

Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.

Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.

Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:

Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.

Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.

Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.



Giáo dục đại học:


Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm.

Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.

Số liệu giáo dục bậc đại học:
Niên học           Số sinh viên
1960-61             11.708 [45]
1962                  16.835 [10]
1964                  20.834 [10]
1974-75            166.475 [46]

Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1: (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng Cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng Kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng Cao học hay Tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương Thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng Tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ).

Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.

Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):

VNCH có nhiều trí thức tốt nghiệp từ Pháp và Hoa Kỳ nên có hai hệ thống bằng cấp khác nhau:
normale11

Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa* là ông Phạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là TT Pháp Georges Pompidou

Theo hệ thống của Pháp (ngày trước):

– Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).

Theo hệ thống của Hoa Kỳ:

– Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ (PhD).

Khó có thể so sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau. ( Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người ).

Từ “Thạc Sĩ” trước đây được dùng để chỉ những người thi đậu một kỳ thi rất khó của Pháp (agrégation). Người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh tương đương cho từ này.

Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:

Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình Viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).

Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều Phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc Trường hay Trường Đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…).

Trong mỗi Phân khoa Đại học hay Trường Đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
 Đại học sư phạm kỹ thuật Thủ Đức
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật

Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.

Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.

Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc.

Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).

Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật

Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học.

Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.

Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.

Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện.

Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.

Các viện đại học công lập:

Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh.

Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.

Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.

Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo dục, Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên (tháng 3/1957-7/1957) Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965

Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục, Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ). Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965.

Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.

Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).

Các viện đại học tư thục:

Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.

Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn
Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số
222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.

Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng.

Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn

Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.

Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.

Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.

Các học viên và viện ngiên cứu:

Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn.

Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.

Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.

Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.

Các trường đại học cộng đồng:

Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.

Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.

Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.

Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.

Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.

Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường:
Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức

Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.
Các trường nghệ thuật:


Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu Trần Thanh Tâm (đờn kìm) Phan Văn Nghị (đờn cò) Trương Văn Đệ (đờn tam) Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh)
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).

Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.

Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).

Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).

Sinh viên du học ngoại quốc:

Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.

TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA

Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967

Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học. [82]

Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo.

Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.

Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học. [83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.

NHÀ GIÁO

Đào tạo giáo chức:
 Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères

Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958. [84] Sau có thêm các trường Cao đẳng Sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.

Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.

Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.

Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn

Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…

Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.

Đời sống và tinh thần giáo chức:

Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470.

Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà.

Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.

THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP

Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 19651966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.

Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu

Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:

Phan Huy Quát: sinh năm 1911, mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-53 thời Quốc gia Việt Nam, kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.
Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhấtĐệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.

Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. [98]

Lê Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu đạn năm 1969. [100]

Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.

Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Southern California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.

Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa.

Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình.

ĐÁNH GIÁ
Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:

“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” (Trích từ nguồn Blog Lý Toét)

Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì: “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra”. Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”). [104]

Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:

“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc […] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…”

Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê:

“Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu“. [107]

(Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen)

Huỳnh Minh Tú




Saturday, May 16, 2015

Dương Nguyệt Ánh nói chuyện tại Giỗ Tổ Hùng Vương

Dương Nguyệt Ánh nói chuyện tại Giỗ Tổ Hùng Vương, Montreal May 3, 2015

    Ánh xin trân trọng kính chào tất cả quý vị.
Trước hết, Ánh xin chân thành cảm tạ ông Lê Văn Trang, BS Chủ Tịch Đào Bá Ngọc và Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Vùng Montreal đã có nhã ý mời Ánh đến đây để gặp gỡ và thưa chuyện với quý vị. Và quan trọng hơn hết, Ánh xin cảm ơn sự hiện diện của tất cả quý vị hôm nay, nhất là những quý vị ở xa đã phải lái xe nhiều giờ để đến đây. Chưa sang đến Montreal mà từ mấy tuần trước Ánh đã nhận được nhiều điện thư chào đón ân cần, Ánh xin nhân dịp nầy trân trọng ghi nhận và tri ân những thịnh tình này, và biết là Ánh sẽ còn phải cố gắng thật nhiều nữa thì mới xứng đáng.
    Kính thưa quý vị,
Đây là lần đầu tiên mà Ánh tham dự lễ Giỗ Tổ và Quốc Hận được tổ chức chung vào cùng một ngày, và cái buồn lần này cũng vì thế mà thấm thía hơn so với mọi năm. Vì Ngày Giỗ Tổ là để nhớ ơn dựng nước và mở mang bờ cõi của tiền nhân, mà ngày nay nước thì đang mất dần vào tay Trung Cộng, tài nguyên VN thì đang bị cho không hay sang nhượng với giá rẻ mạt. Thế hệ hậu sinh như chúng ta thì ngậm ngùi với lễ Quốc Hận, còn những đứa con bất hiếu như Đảng CSVN thì đang mặc sức phung phí và làm băng hoại hết gia tài của mẹ VN.

Bốn mươi năm trước, khi ngồi trên chiếc phi cơ trực thăng bay ra biển Đông trong buổi sáng cuối cùng, dù chưa đủ lớn để hiểu thấu hết cái tai họa to lớn sắp đổ xuống đầu người dân miền Nam nói riêng và cả tổ quốc VN nói chung, nhưng Ánh cũng đã đủ lớn để biết lần ra đi này sẽ là vĩnh biệt. Vĩnh biệt 15 năm tuổi thơ tự do và bình yên của Ánh trong vòng tay bao bọc của chiến sĩ VNCH, và vĩnh biệt VNCH. Cái cảm giác đau đớn nhất lần đầu tiên trong đời là khi đứng nhìn tầu Hải Quân của mình hạ lá cờ của VNCH xuống và thay thế bằng cờ Hoa Kỳ để được phép cặp bến Phi Luật Tân, rồi khóc vì biết mình từ đây là một người vô tổ quốc, rồi lo sợ cho những người còn ở lại, những người đang cố thoát mà không thoát được, thương nhất là những chiến sĩ của mình còn đang cố chiến đấu đến viên đạn sau cùng và thương binh của mình đang còn trong các Quân Y Viện. Ánh tự hỏi số phận của họ rồi ra sao, ai lo cho họ và cho vợ con họ.

Bây giờ thì tất cả chúng ta đều biết chuyện gì đã xảy ra cho những người ở lại. Quân dân miền Nam đã phải chịu đựng một cuộc trả thù tàn bạo nhất, man rợ nhất trong lịch sử dân tộc bởi chính những người đồng chủng, những người từng rêu rao với cả thế giới là họ chiến đấu để giải phóng cho miền Nam. Còn nhớ những ngày sau 30/4/75 Đảng đã tuyên bố là "Chỉ Có Đế Quốc Mỹ là kẻ chiến bại. Toàn thể nhân dân VN, kể cả những viên chức, binh sĩ miền Nam, đều là những người chiến thắng..." và "nhân dân miền Bắc chúng tôi, và đồng bào ruột thịt miền Nam sẽ cùng nhau xây dựng một đất nước Việt Nam hùng mạnh..". Đã có nhiều người tưởng rằng Đảng muốn thật tâm "Hòa Hợp Hòa Giải" mà không hiểu rằng đấy chỉ là thủ đoạn của Đảng để lừa cho các nạn nhân ngoan ngoãn hợp tác và không kháng cự nữa. Sau đó trong số “những đồng bào ruột thịt miền Nam” đã có cả trăm ngàn người bị xử tử ngay lập tức. Mấy triệu người đi tù và trong số đó hơn trăm ngàn người đã chết trong những nhà tù khổ sai được mệnh danh là trại cải tạo. Lớp không phải đi tù thì bị bóc lột vơ vét đến tận cùngxương tuỷ qua hàng loạt chiến dịch đổi tiền và những trò gian manh khác của chính quyền để cướp tài sản của dân, rồi nhà tan cửa nát, gia đình ly tán, rồi bị đầy đi cái gọi là vùng kinh tế mới, cũng là nơi vùi thây của hàng trăm ngàn người dân vô tội khác.
Còn quân dân miền Bắc thì sao? Ban đầu họ ngỡ ngàng trước sự trù phú của miền Nam, trước những dấu vết rất hiển nhiên của một nền tự do dân chủ dù chỉ mới được xây dựng trong 20 năm. Một thí dụ là cái tài sản đáng kể về văn chương, thi ca, âm nhạc, nghệ thuật của miền Nam. Từ ngỡ ngàng họ đi đến tức giận vì nhận ra mình bị lừa, vì đã tin lời Đảng hy sinh xương máu để giải phóng một miền Nam không cần và không muốn giải phóng chút nào. Tệ hại hơn nữa là khi họhiểu ra rằng họ đã hy sinh xương máu để ăn cướp miền Nam cho Đảng thì đúng hơn. Và sau khi ăn cướp được rồi, Đảng chia nhau hết và trở thành giai cấp tư bản Đỏ để phung phí tài nguyên quốc gia và hưởng thụ. Còn những con người ngày trước còng lưng hy sinh cho Đảng đi ăn cướp thì nghèo vẫn hoàn nghèo, khổ vẫn hoàn khổ, rồi vẫn chung số phận Dân Oan bị cướp đất cướp ruộng y như dân miền Nam. Bẽ bàng nhất là những kẻ phản bội VNCH, đã từng ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản hoặc hăng hái đi theo cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Họ tưởng rằng sẽ được Đảng đền ơn trọng hậu, nhưng không ngờ bị Đảng trở mặt phản bội, quyền không được chia mà lợi cũng hụt. Những tấm bằng ban khen, tuyên dương liệt sĩ gì gì chỉ là mớ giấy lộn. Khi họ sáng mắt ra thì đã muộn.

Trong khi các quốc gia Á Châu khác như Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Mã Lai, v.v., dồn mọi nỗ lực xây dựng đất nước, đã đưa đất nước họ lên hàng phú cường chỉ vỏn vẹn trong vài thập niên, thì ngay sau khi chiếm được miền Nam đảng CS đã đưa toàn cõi VN đi thụt lùi lại cả hằng 50 năm. Còn nhớ sau 30/4/75 những tiện nghi cuả một xã hội tân tiến ở miền Nam như TV, tủ lạnh, điện thoại v.v... biến mất hết. VN là một nước nông nghiệp mà cả nước phải ăn bo bo, khoai sắn độn cơm. Rồi đảng CSVN lại tiếp tục làm tay sai cho CS Liên Xô gây ra thêm hai cuộc chiến tranh với Campuchia và Trung Cộng, phung phí thêm mấy trăm ngàn sinh mạng thanh niên Việt, tiêu diệt thêm tiềm năng dân tộc. Cũng vì cái chế đó độc ác, man rợ đó mà cả triệu người bỏ nước ra đi bằng cách vượt biên,vượt biển. Theo thống kê cuả Liên Hiệp Quốc thì có khoảng 900 000 thuyền nhân VN đã đến được bến bờ tự do và họ ước tính rằng cứ mỗi một người thoát được thì có 2 người khác đã bỏ mình trên đường tìm tự do, tức là đã có khoảng gần 2 triệu người thiệt mạng.

Đói nghèo và thất học thường dẫn đến suy đồi đạo đức, khi con người tìm mọi cách để thoát ra cái đói nghèo và sẵn sàng trả bằng những giá đắt nhất, nhất là khi cái giàu sang xa xỉ và vô đạo đức của giai cấp lãnh đạo diễn ra nhan nhản trước mặt. Và cái thành phần phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất bao giờ cũng là thành phần ở vào thế yếu nhất, đó là phụ nữ và trẻ em. Trong lịch sử hơn 4000 năm văn hiến của chúng ta, chưa bao giờ có sự kiện hàng lớp phụ nữ và trẻ em VN bị bán ra nước ngoài để làm nô lệ tình dục hoặc những cảnh nhục nhã ê chề cuả các thiếu nữ VN khoả thân sắp hàng để cho ngoại kiều lựa như lựa một món hàng. Đó là chuyện của những người dân VN nghèo khổ. Chuyện của giai cấp lãnh đạo giàu có thì sao? Đạo đức của họ còn suy đồi tệ hại hơn. Không có gì xấu hổ, nhục nhã bằng những tấm bảng viết bằng tiếng VN để cảnh cáo không được ăn cắp ở những nước Á Châu có nhiều khách du lịch từ VN. Nếu đã đủ tiền để đi du lịch thì chắc chắn là không đến nỗi đói nghèo mà phải làm liều.
Vì sao mà ra nông nỗi này? VN chúng ta đã bao lần bị ngoại bang đô hộ và bóc lột, cả ngàn năm Bắc thuộc tăm tối, cả 80 năm đọa đày dưới tay thực dân Pháp, cả triệu người chết đói vì phát xít Nhật, mà giấy rách vẫn giữ được lề, không bao giờ đi đến sự nhục nhã tột cùng như bây giờ. VN ngày nay là một quốc gia có chủ quyền, với đảng cầm quyền là người VN, mà tại sao VN lại thụt lùi thảm hại về cả vật chất lẫn tinh thần như thế, tại sao phụ nữ VN và trẻ em VN lại bị đẩy vào bước đường cùng như thế, tại sao tình trạng VN lại tồi tệ hơn cả khi bị ngoại bang đô hộ và một trời một vực so với thời VN từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông?

Câu trả lời là vì trong suốt 40 năm qua chính quyền CS không hề có một nỗ lực nào để xây dựng đất nước, không hề có một quan tâm nào đến phúc lợi của người dân nên mới ra nông nỗi này. Họ có thật sự là người VN không mà sao hành xử y như thực dân ngoại bang, chỉ lo vơ vét thật nhiều và thật nhanh mọi tài nguyên quốc gia, bất chấp những mối đại họa đường dài như tàn phá môi sinh, đốn rừng, chặt gỗ quý, tàn phá di tích lịch sử, v.v... Không chăm lo cho dân thì chớ, họ tán tận lương tâm đến nỗi công nhân VN xuất cảnh lao động bị chủ ngoại quốc đánh đập chạy đến cầu cứu mà tòa đại sứ làm ngơ không can thiệp, ngư dân VN bi tầu Trung Cộng hà hiếp ngay trong hải phận VN mà họ không phản ứng.

Và cái tội tầy đình nhất của Đảng CSVN ngày nay là vì tham vì hèn mà dâng đất dâng biển cho Trung Cộng để dựa vào Trung Cộng mà củng cố quyền lực. Ít nhất 720 cây số vuông biên giới VN, kể cả Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc và 10000 cây số vuông biển VN gồm cả quyền khai thác hải sản đã nằm gọn trong tay Trung Cộng mà chúng không hề phải tốn một viên đạn. Chưa kể đến việc cho Trung Cộng khai thác Bauxite ở Tây Nguyên và cho Trung Cộng thuê 300,000 mẫu rừng ở 6 tỉnh miền Bắc 50 năm. Trung Cộng tha hồ di dân và đem quân đội của chúng vào những vùng này đóng chốt sẵn. Sau này nếu có xẩy ra chiến tranh Trung-Việt thì địch đã ở sẵn ngay trong lòng ta rồi, lại càng khó mà đánh bật được chúng.

Bán nước, phá hoại tài nguyên quốc gia, dập tắt tinh thần ái quốc và niềm tự hào dân tộc, bóc lột, đàn áp, khủng bố dân. Một chính quyền thực dân đỏ, một đảng lãnh đạo bất nhân bất nghĩa như thế là đại hoạ cho tổ quốc Việt Nam thì người Việt quốc gia hải ngoại không thể nào hợp tác hay hòa hợp hòa giải gì với họ được. Nhân đây, xin một lần nữa nhắc nhở những ai đã, đang hoặc có ý định hợp tác với chính quyền CS, về cái bản chất phản bội, dối trá và lừa lọc của ĐảngCSVN. Cả miền Bắc đã bị lừa, đã không thiếu gì những bài viết chửi Đảng của những cựu đảng viên hay cựu cán bộ vì uất ức. Cả miền Nam đã bị lừa khi Đảng giả vờ hòa hợp hòa giải chỉ để dễ bề thẳng tay tàn sát trả thù và dễ dàng lùa cả triệu quân cán chính miền Nam vào nhà tù mà ai cũng tưởng chỉ là đi học tập vài ngày rồi về. Cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị lừa. Đây là những kẻ nai lưng hy sinh xương máu cho Đảng rồi bị Đảng trở mặt phản bội sau khi xong việc. Vậy thì huống gì là người Việt hải ngoại, thành phần đã từng bị Đảng nhục mạ vu khống là một lũ ma cô đĩ điếm tội phạm nên mới bỏ nước ra đi. Ngày nay Đảng đổi giọng quỷ quyệt gọi chúng ta là những khúc ruột ngàn dặm vì muốn biến chúng ta thành những con bò ngây thơ để cho Đảng vắt sữa. Đảng hô hào hòa hợp hòa giải để chúng ta tự nguyện làm tay sai không công giúp Đảng thi hành nghị quyết 36. Đảng dựng lên những lãnh tụ đối lập ma để sau nầy diễn kịch "VN có đa đảng" hầu che mắt thế giới, để mượn tay những kẻ nhẹ dạ thi hành âm mưu của đảng. Sau khi Đảng xong việc, đạt được mục đích, thì cái bản chất phản bội lừa lọc mới lộ ra và quý vị đó cũng sẽ là những cái vỏ chanh tội nghiệp mà Đảng sẽ không ngần ngại vứt bỏ sau khi vắt hết nước.

Vừa rồi chúng ta đã ôn lại câu chuyện tang thương của những người ở lại và quê hương bỏ lại. Còn chuyện của những người ra đi?

Trước hết, xin thành kính đốt nén hương lòng cho những người đã bỏ mình trên đường tìm tự do, những người đã chọn thà chết còn hơn sống mà như chết. Còn chúng ta, từ những người tị nạn thất thểu không nhà và vô tổ quốc năm xưa chúng ta đã trở thành công dân đầy tự tin của những quốc gia tự do dân chủ bậc nhất trên thế giới. Chúng ta đã nhanh chóng khắc phục được những khó khăn kinh tế ban đầu và dựng lên những cộng đồng vững mạnh, những khu thương mại trù phú, các công ty lớn nhỏ đầy dẫy, do người Việt làm chủ. Chúng ta thành công trong mọi ngành, từ quân sự đến khoa học kỹ thuật, văn chương nghệ thuật, từ Luật Nha Y Dược đến Thẩm Mỹ, Thời trang. Con em chúng ta đang sắp hạng đầu ở mọi cấp lớp, từ mẫu giáo đến đại học. Trong lúc người VN trong nước đi ra ngoại quốc thì tủi hổ vì bị cảnh cáo không được ăn cắp, thì chúng ta, những người Gia Nã Đại gốc Việt, người Úc gốc Việt, người Mỹ gốc Việt, v.v... đi đến đâu cũng được khen phục vì những thành quả và đóng góp không nhỏ cho quê hương mới. Sự kiện này chúng minh hùng hồn rằng nếu những người Việt trong nước có điều kiện và cơ hội như người Việt hải ngoại thì họ cũng sẽ xây dựng được một đời sống no ấm và một quốc gia phú cường. Do đó, chính Đảng CS và bè lũ thực dân Đỏ đang cai trị VN là cái lý do ngăn chặn điều kiện phát triển đất nước và hạnh phúc cho dân tộc VN.

Suốt 40 năm qua người Việt hải ngoại không chỉ lo làm lại cuộc đời trên quê hương mới. Song song với việc đó chúng ta vẫn nêu cao chính nghĩa quốc gia, vẫn tranh đấu không ngừng nghỉ cho 80 triệu đồng bào trong nước, đồng thời gắt gao lên án những tội tày trời của CSVN đối với quốc gia dân tộc. Ánh xin được liệt kê một vài thí dụ.

Chẳng hạn như cuối thập niên 70, đa số người tỵ nạn còn đang chân ướt chân ráo cố hội nhập vào đời sống mới, người thì làm 2,3 jobs một lúc để dành dụm gửi tiền về VN, người thì học ngày học đêm để bắt kịp bạn đồng lớp, nhưng chúng ta vẫn bỏ giờ làm giờ học để di biểu tình tranh đấu cho thuyền nhân VN không bị đẩy trở ra biển, tổ cáo hải tặc đang giết người cướp của trên biển Đông, và kêu cứu với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc. Ánh nhớ hồi đó bố mẹ Ánh rất khó, muốn xin đi đâu không phải dễ. Vậy mà Ánh xin đi tuyệt thực trước tòa Đại Sứ Mã Lai hay vắng nhà cả đêm 30 tháng 4 để làm Đêm Không Ngủ Tưởng Nhớ Quê Hương thì hai cụ cho con gái đi ngay mà không hề thắc mắc.

Một thí dụ nữa là việc tranh đấu cho những cựu tù cộng sản được đến Hoa Kỳ trong chiến dịch nhân đạo mà bên Mỹ vẫn gọi tắt là HO. Người có sáng kiến và có công đầu là bà Khúc Minh Thơ. Nếu không có chiến dịch HO thì con số những người tù chết trong vòng vài năm sau khi được thả sẽ còn cao hơn nữa, vì ở trong tù bị hành hạ đánh đập, bị bắt làm việc khổ sai và đói ăn triền miên thì thể lực hao mòn, nhiều khi lê về được với gia đình nhưng trong người mang cả trăm thứ bệnh.

Một thí dụ nữa là chuyện treo cờ vàng. 40 năm trước đã có nhiều hội đoàn không treo và chào cờ vàng trong các buổi sinh hoạt của người Việt ở hải ngoại, vì họchủ trương phi chính trị. Chúng ta đã phải mất rất nhiều tâm huyết mới thuyết phục được họ treo và chào cờ vàng. Rồi so với hôm nay không những mình đã thuyết phục được mình mà còn thuyết phục được người. Ánh muốn nói đến sự kiện những thành phố và Tiểu Bang Hoa Kỳ có đông người Việt cư ngụ đã lần lượt công nhận cờ vàng là biểu tượng của người Mỹ gốc Việt. Nhờ vậy lá cờ thân yêu của chúng ta đang được tung bay hiên ngang ở khắp hải ngoại mà tòa các tòa Đại Sứ CS không làm gì được. Quả là cộng đồng người Việt quốc gia chúng ta đã tiến được một bước rất dài. Và một trong những người có công đầu trong cuộc vận động kiên quyết này là chị Lữ Anh Thư, một người bạn thân và đồng chí của Ánh. Một lát nữa, chị Anh Thư sẽ giúp bổ túc thêm về những thành quả của người trẻ hải ngoại trong 40 năm qua.

Một thành quả quan trọng khác là công tác trả ơn chiến sĩ. Không đâu là không có những nỗ lực gây quỹ giúp thương phế binh và cô nhi quả phụ của tử sĩ VNCH. Cộng đồng nhỏ thì làm nhỏ, cộng đồng lớn thì làm lớn. Ở những nơi đông người Việt sinh sống như California bên Mỹ thì hàng năm vẫn có đại nhạc hội Cám Ơn Anh quy tụ hàng trăm nghệ sĩ trình diễn ngoài trời suốt từ trưa đến tối bán được cả trên 10 ngàn vé và số tiền đóng góp bao giờ cũng lên trên nửa triệu đô la.

Nãy giờ chúng ta đã ôn lại hai câu chuyện, câu chuyện tang thương của những người ở lại và câu chuyện đầy tự hào của những người ra đi. Trong bối cảnh này, câu hỏi lớn nhất là người Việt hải ngoại cần phải làm gì cho tương lai dân tộc. Mà tương lai của một dân tộc thì luôn luôn nằm trong tay những người trẻ. Vậy câu hỏi chính xác hơn là chúng ta cần làm gì để khuyến khích tuổi trẻ hải ngoại tiếp tay với những người trẻ trong nước bảo vệ quê hương và tiếp tục tranh đấu cho tự do nhân quyền. Thật vậy, ngoài việc giúp con em chuẩn bị cho tương lai cá nhân, phụ huynh chúng ta còn cần giúp đào tạo một thế hệ mới cho tương lai dân tộc Việt Nam.

Việc làm này có viển vông không, khi mà VN đang sắp sửa mất nước vào tay Trung Cộng đến nơi rồi. Thưa câu trả lời là không viển vông. Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử, VN đã từng bị Tàu đô hộ cả ngàn năm mà hàng mấy mươi thế hệ người VN từ đời này sang đời khác vẫn nuôi dưỡng được lòng ái quốc bền bỉ và ý chí quật cường đề cuối cùng dành lại độc lập. Đó là vì cha ông ta đã nỗ lực gìn giữ cái tinh thần dân tộc cho con cháu. Nhờ đó, ta luôn ý thức được mình là người Việt và tự hào mình là người Việt, dù nền văn minh của ta có bị kẻ thống trị cướp nhận là của họ, dù lịch sử của ta có bị bôi xoá hay xuyên tạc, và văn hoá của ta bị pha loãng đi để tiêu diệt niềm tự hào dân tộc của ta và đồng hoá ta thành người Tàu. Soi tấm gương này của cha ông, ngày nào chúng ta còn nỗ lực hun đúc tinh thần dân tộc cho con cháu thì nhất định ta không sợ mất nước, và dẫu có mất thì cũng sẽ dành lại được khi thời cơ thuận tiện.

Nếu câu hỏi là đối với tuổi trẻ VN ở hải ngoại, nỗ lực hun đúc tinh thần dân tộc này có thực tế không khi con em chúng ta sinh ra và lớn lên ở đây, thì xin thưa câu trả lời là khó nhưng không phải không làm được. Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta đã phải hàng hàng lớp lớp bỏ quê hương ra đi vì không chấp nhận cộng sản. Nhưng chúng ta không phải là dân tộc duy nhất đang trải rộng trong thế giới tự do. Hãy lấy một thí dụ là người Do Thái. Họ đã tha phương đi khắp nơi mà vẫn không mất hồn Do Thái, và cuối cùng đã làm được cái chuyện không tưởng là vận động cả thế giới cho họ lập quốc. Ngày nay, họ đang lợi dụng vị thế chính trị và kinh tế của họ ở những nước bên ngoài để hỗ trợ đắc lực cho người dân bên trong nước Do Thái được tự do và trường tồn. Nếu người Do Thái làm được thì sao ta không làm được. Nếu thế hệ con em chúng ta trở thành những nhà chính trị kinh tế thương gia chuyên viên lỗi lạc, nắm những cơ phận then chốt trong guồng máy các quốc gia lớn trên thế giới, nhưng luôn giữ được tinh thần VN thì dù sinh ra và lớn lên ở bất cứ đâu, họ vẫn sẽ có những quan tâm tự nhiên cho đất nước và dân tộc VN.

Nhân dịp này Ánh cũng xin bày tỏ mối lo ngại rất lớn không phải của riêng Ánh mà của tất cả chúng ta trước sự phá sản tinh thần VN đang diễn ra trong nước. Chúng ta là một dân tộc với cả một lịch sử kiêu hùng và một nền văn minh phong phú, từ trống đồng cho đến phong tục thờ cúng tổ tiên và những sinh hoạt tự trị nơi làng xã ngay cả dưới thời phong kiến. Ngày nay vì muốn lấy lòng Trung Cộng, nhà nước CS đang lặng lẽ bôi xóa đi những trang sử chống Bắc xâm lẫm liệt của ta. Mới năm ngoái, chúng ra chỉ thị bãi bỏ những ngày kỷ niệm quan trọng như kỷ niệm Trưng Vương ở cấp quốc gia mà chỉ cho làm ở địa phương nơi có đền thờ hai bà thôi. Nguy hiểm hơn là luận điệu văn hóa của ta là toàn vay mượn từ Trung Hoa, và tinh thần vọng ngoại, ưa chuộng tất cả những gì của người và chê bai của mình. Chúng ta chắc chắn sẽ mất nước khi chúng ta tự đánh mất đi hồn nước. Còn đất còn biển mà mất văn hóa, mất lịch sử, mất đi từ hào dân tộc, rồi thay vào là tinh thần nô lệ, Hán hoá thì có khác gì đã mất nước rồi. Nếu ta không giữ được quê hương ở trong chúng ta thì làm sao giữ được quê hương bên ngoài?

Trong tình huống này, nhu cầu giáo dục tuổi trẻ VN để huy động niềm tự hào dân tộc trở thành cấp thiết. Bước đầu tiên là dậy cho con em một hiểu biết tường tận và chính xác về lịch sử VN, và những anh hùng, anh thư của dân tộc. Điều khó khăn là phụ huynh chúng ta không có tài liệu sẵn sàng cho mục đích này. Hơn nữa, nếu muốn nhắm vào giới trẻ hải ngoại, chúng ta cần phải soạn thảo những tài liệu này bằng anh ngữ, pháp ngữ v.vv... Muốn gây được phong trào học sử trong giới trẻ, chúng ta cần có những bài viết ngắn, gọn để tóm lược những mốc lịch sử quan trọng đồng thời xoáy vào những giai đoạn lịch sử oai hùng nhất và đề cập thật nhiều đến những người trẻ hào hùng VN qua bao thời đại. Khi nói về họ, ta cần nhấn mạnh đến tuổi tác và thân thế của họ, thí dụ như Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản mới 16 tuổi đã tự điều khiển một đạo quân chống giặc Mông Cổ và lập bao chiến công lừng lẫy, Lý Đông A mới 15 tuổi đã theo nhà cách mạng Phan Bội Châu và 22 tuổi đã thành lập và làm tổng thư ký Đại Việt Duy Dân Cách Mệnh Đảng để đấu tranh chống Pháp. Trương Tử Anh thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng lúc chỉ mới 25 tuổi. Nguyễn Thái Học thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng ở tuổi 25.

Song song với việc dạy sử, chúng ta cần trang bị cho con em những hiểu biết căn bản về văn hóa của người VN, nhất là những văn hóa cổ, đặc thù của ta. Mình phải biết rõ cái gì của mình, nhất là những cái hay, cái đẹp của mình trước khi để ý học hỏi và so sánh với những cái hay cái đẹp của người. Có như vậy mình sẽ có những chọn lựa khôn ngoan để cầu tiến nhưng vẫn giữ được bản sắc và niềm tự hào dân tộc. Có như vậy thì không sợ Hán hoá, sợ mất đi hồn VN. Có như vậy thì mới giữ vững được cái VN bên trong chúng ta để bảo vệ cái VN bên ngoài.

Thế hệ tỵ nạn và di dân đầu tiên bao giờ cũng phải lo chuyện cơm áo và ổn định đời sống. Nay chúng ta đã xong bước đầu và đã thiết lập được những cộng đồng Việt trù phú ở nhiều quốc gia tân tiến. Con em chúng ta đang sắp hạng đầu ở học đường và đang thăng tiến rất nhanh trong nghề nghiệp. Đây là lúc chúng ta cần thực hiện bước kế tiếp là đẩy mạnh tuổi trẻ VN vào tiến trình khôi phục và phát huy tinh thần dân tộc. Nói một cách khác là sau khi phải bỏ quê hương ra đi nay ta đã hoàn hồn, bây giờ thì ta cần lo đến bước kế tiếp là giữ hồn, nhất là trước tình huống VN hiện nay. Ánh xin trân trọng kêu gọi sự chung sức của những vị học giả, sử gia trong và ngoài nước cho vấn để cấp thiết nầy. Chúng ta có rất nhiều hội đoàn đa số cho mục đích ái hữu, tương tế, và từ thiện. Đây là lúc chúng ta cần cho mọc lên như nấm những hội nghiên cứu về sử, về nguồn gốc, văn hóa, và phong tục VN.

Những lời nói sau cùng xin được dành cho những người trẻ VN và xin mượn tựa đề của một tác phẩm của cố văn sĩ Duyên Anh có tên là “Mơ Thành Người Quang Trung”, một trong những anh hùng chống Bắc xâm vĩ đại nhất của lịch sử VN. Vâng, tất cả chúng ta xin hãy mơ thành người Quang Trung, và xin hãy là người Quang Trung.

Dương Nguyệt Ánh - 5/2015




Sunday, May 10, 2015

Sự vô liêm sỉ đã không còn giới hạn.... - Mai Tú Ân

Sự vô liêm sỉ đã không còn giới hạn....
 Du khách không có chuyên môn vẫn ở lại giúp người địa phương cứu người trong khi các quan chức chữ thập đỏ VN qua nhờ người ta học tập lại bỏ chạy thoát thân sau khi động đất nổ ra. Nhục hơn nữa là tru tréo chữ thập đỏ nước chủ nhà  giúp đỡ để lùng vé máy bay tranh chỗ ra đi của đàn bà trẻ con.

Mai Tú Ân

Du khách không có chuyên môn vẫn ở lại giúp người địa phương cứu người trong khi các quan chức chữ thập đỏ VN qua nhờ người ta học tập lại bỏ chạy thoát thân sau khi động đất nổ ra. Nhục hơn nữa là tru tréo chữ thập đỏ nước chủ nhà giúp đỡ để lùng vé máy bay tranh chỗ ra đi của đàn bà trẻ con

Sự kiện 10 người trong " Chữ Thập Đỏ Việt Nam" đã hèn nhát bỏ về trong sự nhục nhã cùng sự vô liêm sỉ của họ khi bào chữa cho cái hèn. Họ đi học hỏi về công tác chống động đất thì gặp cơn động đất như vậy thì họ phải coi như đó là một cơ hội tốt để thực hành những điều đã học trong thực tế chứ. Họ là những người được đào tạo về các kỹ năng đối phó với khủng hoảng, và được trả tiền để làm việc đó. Nhưng họ lại làm ngược lại cái trách nhiệm được giao một cách hèn nhát, nhục nhã. Cho họ và cho đất nước của họ...
"Quan chức chữ thập đỏ" chạy thoát thân về khoe thành tích tranh vé của đàn bà trẻ con để chạy trước

Không hề đem kỹ năng được đào tạo ra để giúp cho đất nước đang gặp tai họa, không hề có một động thái nào giúp đỡ những người dân Nepal đang khốn khổ và cần lắm từng sự giúp đỡ của từng đôi tay thiện nguyện, họ lại cũng vô cảm đến mức không giúp đỡ được chút nào cho cả đồng bào VN đang gặp nạn bên ấy. Và thêm gánh nặng cho đất nước đang gặp thảm họa ấy bằng cách cuống cuồng yêu cầu được thoát thân trong khi đàn bà trẻ con của nhiều nước vẫn còn kẹt lại, trong khi đường đường là những đấng nam nhi thì họ lại tháo chạy nhanh nhất có thể. Chưa kể trên con đường bỏ chạy, hẳn họ nhìn thấy những con người tình nguyện trên khắp thế giới đang ùn ùn đổ về Nepal để cứu giúp người dân...

Và trớ trêu khi nỗi hèn của họ như còn tăng gấp đôi khi điều lo sợ của họ đã không đến. Đó là vì sau cơn động đất 7,9 độ richter đó thì Nepal liên tiếp bị những cơn dư chấn và có lẽ đây mới chính là nguyên nhân của việc bỏ chạy nhục nhã của phái đoàn CTD VN. Vì khi cả đoàn tháo chạy như thế thì Nepal không còn bị động đất nữa ngoài những cơn dư chấn kể trên. Nó giống như những kẻ hèn nhát đạp lên đầu nhau để tháo chạy khỏi con tàu đắm, nhưng khi thoát được thì tàu lại không đắm.

Hèn nhát như vậy nhưng khi về nước thì lại trơ tráo không biết ngượng khi loanh quanh chối cái hèn bằng những lý do lý trấu một cách vô liêm sỉ như ông Nguyễn Xuân Duy (hình) đã trả lời trên tivi mà tôi không thèm nhắc lại vì nó đã vượt giới hạn của sự liêm sỉ.

Rồi lãnh đạo của họ, đáng ra phải lên án họ như một thứ lên tiếng của đạo đức, lương tâm giống như người dân thì lại bào chữa, bao biện một cách không thể chấp nhận được...

Điều tra và xử lý hết những kẻ làm nhục, không phải làm nhục họ vì họ không còn liêm sỉ để nhục, mà vì tội làm nhục những người Việt Nam chúng ta...

Mai Tú Ân