Thursday, March 12, 2015

Âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận 30/4

    Âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận 30/4, Ngày Quân Lực 19/6

Thông Cáo Đặc Biệt của UBTTTADCSVN

Về việc: Âm mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận 30/4, Ngày Quân Lực 19/6 của nhóm Việt gian Ngô Thanh Hải Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Canada, Nguyễn Ngọc Bích (Việt Tân?), Nguyễn Đình Thắng BPSOS và tên nằm vùng Đặng Chí Hùng.
--------------------------------
Bản văn số: 20150309/ubtttadcsvn

Orange County, California, ngày 9 tháng 3 năm 2015

Thưa đồng bào quốc nội và hải ngoại,
Thưa quý Chiến hữu,

Trong một vài năm trở lại đây, đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ thị cho cán bộ của bọn chúng, cho cơ sở nằm vùng, và đám việt gian tay sai tại hải ngoại, mưu toan tẩy xóa ngày Quốc Hận 30/4 thành “Ngày Thuyền Nhân”. Nhưng âm mưu đó đã bất thành vì gặp sự chống đối mãnh liệt của đồng bào tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại.Năm nay 2015, đúng 40 năm tưởng niệm Ngày Quốc Hận, bọn Cộng Sản Việt Nam lại một lần nữa chỉ thị cho tay sai của chúng tại hải ngoại vận động dư luận trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại và cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp tại các nước sở tại nơi có đồng bào tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam cư ngụ soạn thảo dự luật đổi ngày Quốc Hận 30/4 thành ngày “Hành trình đến tự do”.

Âm mưu thâm độc này của đảng cộng sản Việt Nam nhằm vào mục đích gì? Theo thiển ý:
1. Làm mờ nhạt dần nỗi oan hận trong lòng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại đối với đảng và bạo quyền cộng sản Việt Nam.
2. Để giảm nhẹ tội ác do bọn chúng gây ra đối với đồng bào miền nam sau ngày Quốc Hận 30/4.
3. Vô hiệu hóa các hoạt động chống đối cộng sản của các hội đoàn chống cộng tại hải ngoại vì không còn những buổi lễ nhân ngày Quốc Hận 30/4 hằng năm.
4. Triệt tiêu tiềm lực chống cộng và sự đoàn kết của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại.
5. Xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải dân tộc (lập lờ đánh lận cộng sản là dân tộc).

Thưa đồng bào, Thưa quý chiến hữu,

Để thực hiện những âm mưu thâm độc của đảng Cộng Sản Việt Nam, hiện tại đám Việt gian đón gió trở cờ Ngô Thanh Hải Thượng nghị sĩ của thượng viện Canada, đã đệ trình quốc hội Canada dự luật S-219 dùng ngày Quốc Hận 30/4 là ngày “Hành trình đến tự do”. Dự luật này đang được bọn cộng sản nằm vùng, bọn Việt gian tay sai, bọn đón gió trở cờ là Trúc Hồ đài SBTN, Trung tâm băng nhạc Asia, Nguyễn Xuân Nam chủ báo, chủ đài Cali Today tại Thành phố San Jose, Nguyễn Ngọc Bích (Việt Tân?), Nguyễn Đình Thắng (BPSOS) cùng đồng hành tạo nên một thế lực ủng hộ, cổ động, yểm trợ tối đa cho tên việt gian Ngô Thanh Hải.

Đặc biệt là tên cộng sản Đặng Chí Hùng với chiến thuật 100% thuần phục VNCH, ca tụng cờ vàng VNCH, ca tụng Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ca tụng Đệ I và Đệ II VNCH, ca ngợi các anh hùng tử sĩ VNCH và chửi bới thậm tệ Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam để làm vỏ bọc che giấu mọi hoạt động cộng sản của y tại hải ngoại.

Đặng Chí Hùng đã thành công một phần nào lường gạt được một vài người quốc gia tưởng rằng y là loại hạt giống đỏ cộng sản phản tỉnh thứ thiệt. Thế nhưng nay vì nhu cầu đòi hỏi cho công tác xóa bỏ ngày Quốc Hận 30/4, Đặng Chí Hùng đã phải đành để rơi chiếc mặt nạ Quốc Gia chân chính của y. Y chường mặt ra mà ca ngợi Ngô Thanh Hải và cổ động đồng bào hải ngoại đặc biệt là đồng bào Việt Nam tại Canada hổ trợ cho Ngô Thanh Hải và dự luật S-219. (Đính kèm bài viết của Đặng Chí Hùng đã phổ biến công khai qua đài phát thanh của cái tổ chức gọi là “Đáp Lời Sông Núi”. Đặng Chí Hùng hiện là cộng tác viên thường trực của đài phát thanh này).

Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một biến cố lịch sử rất quan trọng, liên quan đến sinh mệnh của cả dân tộc Việt Nam. Xin được trình bày diễn tiến sự việc liên quan và hồi kết thúc đau thương vào ngày 30/4/1975:

1. Ngày 28/2/1975 cộng quân tấn công vào Huế. Hàng chục ngàn đồng bào Huế, bất chấp hiểm nguy trước hỏa lực của cộng quân di tản bằng đường bộ theo Quốc lộ I vượt đèo Hải Vân vào tỵ nạn tại thành phố Đà Nẵng. Trên đường vượt thoát cộng sản, đã có vài ngàn đồng bào bị thương hoặc tử thương vì những đợt pháo kích của cộng quân, pháo thẳng vào đoàn người tỵ nạn để ngăn chận đoàn người di tản. Thành phố Đà Nẵng tràn ngập dân tỵ nạn Đồng Hà, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế.

2. Trong những ngày gần cuối tháng 3/75, chính quyền thị xã Đà Nẵng, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I đã không còn kiểm soát được dân chúng. Hỗn loạn xảy ra. Đám bất lương, du đảng bắt đầu cướp phá công khai trong thành phố, gây cảnh rối loạn. Tình trạng bất an ninh một trăm phần trăm gây kinh hoàng cho đồng bào. Lợi dụng cơ hội này, cộng quân đã tung những đơn vị đặc công và trinh sát vào thành phố. Bọn chúng ngụy trang bằng quân phục của Quân lực VNCH. Những cuộc cướp phá các kho gạo, đập phá các khu phố để hôi của đều do bọn này gây ra để tạo hoang mang và bất ổn, nhằm hổ trợ cho các đơn vị chính quy của bọn chúng sửa soạn tấn công Bộ Lệnh Quân Đoàn I và thị xã Đà Nẵng trong những ngày kế tiếp.

Đồng bào bắt đầu tìm đường thoát chạy khỏi thành phố Đà Nẵng bằng đường bộ và đường biển. Phương tiện di tản không đủ và cảnh rối loạn đã xảy ra. Sáng sớm ngày 29/3/1975, tại bến sông Bạch Đằng ngay tại trung tâm thành phố Đà Nẵng, đồng bào chen lấn xô đẩy nhau trên một chiếc xà lan mà sức chứa chỉ khoảng một ngàn người. Vậy mà đã có cả gần năm, sáu ngàn người chen lấn tranh nhau lên xà lan. Nhiều phụ nữ, bà già, em bé rớt xuống nước trước sự dửng dưng của người khác.

Chiếc xà lan này do cơ quan tình báo Hoa Kỳ thuê từ một công ty chuyển vận ngoại quốc để chở nhân viên người Việt và gia đình của họ ra tàu lớn là tàu Muller, đang neo ngoài khơi Đà Nẵng, và di tản số người này vào Sài gòn. Tôi đứng trên tàu Muller cùng với 4 cố vấn Mỹ, nhìn chiếc xà lan cập vào hông tàu. Đoàn người di tản được đưa lên tàu trong cảnh hổn loạn. Họ đã chen lấn nhau và đã có nhiều người bị rớt xuống biển mà không được cứu vớt. Mạng sống con người khi ấy thật rẻ hơn bèo.

Thành phố Đà Nẵng, hay có thể nói là Vùng I Chiến Thuật chính thức mất vào tay cộng quân vào ngày 29 tháng 3 năm 1975. Một số đơn vị quân lực VNCH không có phương tiện di tản khỏi Đà Nẵng. Họ đã anh dũng không chịu đầu hàng địch quân, quây quần bên nhau trên bờ biển mở lựu đạn hy sinh.

Cộng quân bắt đầu bao vây Thủ Đô Sài Gòn vào ngày 26/4/1975 với từ 5 hướng khác nhau:
1. Hướng bắc Sài gòn Quân Đoàn 1 Cộng Sản
2. Hướng tây bắc Quân Đoàn 3 Cộng Sản
3. Hướng đông Quân Đoàn 4 Cộng Sản
4. Hướng tây nam Sài gòn là Sư Đoàn 8 thuộc Quân khu 8 Cộng Sản

Quân lực VNCH bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn có Quân đoàn III gồm Sư Đoàn 5 và 18. Một số các chiến đoàn được thành lập từ Quân đoàn I và II di tản từ miền Trung và Cao nguyên về Sài gòn. Các Lữ đoàn Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Pháo Binh, Kỵ Binh Thiết Giáp.

Đại Tướng Dương Văn Minh nhận chức Tổng Thống chiều ngày 28/4/1975. Ngay khi đó thì tên phi công nội tuyến Trung úy Nguyễn Thành Trung dội bom Dinh Độc Lập và thả bom Phi Trường Tân Sơn Nhất. Tối hôm đó cộng sản pháo vào Phi Trường Tân Sơn Nhất. Các phi đạo bị phá hủy. Phi trường không thể xử dụng được.

Ngày 29/4/1975 cộng sản chiếm Căn cứ Long Bình, thành Tuy Hạ thuộc quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa, Củ Chi, Hậu Nghĩa.
Sáng 30/4/1975 Quân cộng sản tiến vào nội thành Sài gòn.
Ngày 30/4/1975 lúc 10 giờ 24 phút, Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn thể Quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới. Sau đó ông ta lên đài phát thanh Sài gòn kêu gọi quân đội VNCH hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện. Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn sụp đổ.

Ngày Quốc Hận 30/4

Ngày 30/4/1975 khi mà quân cộng sản đã chiếm được Thủ đô Sài gòn thì đã có khoảng 150,000 người Việt thoát khỏi Việt Nam. Khoảng 140,000 người tỵ nạn cộng sản tại Hoa Kỳ và 10,000 người tỵ nạn cộng sản ở các quốc gia khác. Đó chỉ là con số khởi đầu. Ngay ngày 30/4/1975 cộng sản Việt Nam đã tố cáo những người di tản là thành phần đỉ điếm, là tay sai Đế quốc Mỹ. Trưa ngày 30/4/1975 tên cộng sản nằm vùng Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” và phát biểu rằng: “Những kẻ ra đi, chúng ta xem như là đã phản bội đất nước”.

Số người tỵ nạn cộng sản Việt Nam bỏ nước ra đi bằng mọi phương cách, mọi phương tiện. Họ bất chấp mọi hiểm nguy bằng đường biển, đường bộ, cho dù phải hy sinh chính mạng sống của mình. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc thì số đồng bào vượt biển đã bị vùi sâu dưới lòng biển cả khoảng 500,000 người. Và khoảng 100,000 người đã bỏ thân xác tại các vùng rừng núi dọc theo biên giới Cao Miên, Thái Lan khi vượt biên bằng đường bộ. Kể từ 30/4/1975 đến nay đã có trên 4 triệu người.

Ngay khi chiếm được miền Nam, khoảng trên 1 triệu dân quân cán chính miền Nam bị bọn cộng sản bắt giữ và đưa vào giam tại trên 150 trại tù mà bọn cộng sản gọi là trại “cải tạo”. Theo tài liệu của chính phủ Hoa Kỳ thì có khoảng 170,000 người bị chết trong các trại tù cải tạo, thời gian họ bị giam giữ trong các trại tù tối đa là 17 năm và sau đó mới được thả ra mà không cần xét xử.

Đối với thân nhân của trên 1 triệu người bị bắt giữ, bọn chúng đẩy họ lên các vùng rừng thiên nước độc gọi là "vùng kinh tế mới".

Bọn chúng trấn áp đồng bào miền nam bằng nhiều cách khác nhau như chế độ hộ khẩu, ai ở đâu thì ở yên chỗ đó và đi đến đâu thì phải khai báo tạm trú tạm vắng. Bọn chúng bóc lột tài sản của đồng bào bằng cách đổi tiền. Lần thứ nhất vào ngày 22/9/1975 cứ 500 đồng VNCH lấy 1 đồng của VNCS. Lần thứ 2 vào ngày 5/5/1978. Lần thứ 3 vào ngày 14/9/1985. Sau 3 lần đổi tiền, đồng bào miền nam bị vơ vét sạch túi, chẳng còn lại xu nào.

Bọn chúng tổ chức đánh tư sản mại bản, tư sản nhỏ, lục soát tịch thu nhà cửa của đồng bào đã bỏ nước ra đi phân chia lại cho cán bộ của chúng. Bọn chúng bắt ep những người khá giả phải tình nguyện hiến nhà hiến đất hiến tài sản cho bọn chúng để khỏi đi ở tù.

Tại nông thôn, bọn chúng quốc hữu hoa đất đai ruộng vườn của người dân. Nông dân phải vào "hợp tác xã" làm việc chấm công để lãnh lúa.

Tất cả các chính sách cộng sản Việt Nam nhắm vào dân chúng làm sao cho dân chúng mỗi ngày mỗi cơ cực để bọn chúng dể cai trị.

Thưa Đồng bào, Thưa quý chiến hữu,
Như vừa đưa ra những sự việc nêu trên, chúng ta thấy rõ ràng: Ngày 30/4 là một biến cố lớn của lịch sử.
 
- Ngày 30/4 là ngày đã thay đổi sinh mệnh của dân tộc.
- Là ngày mở đầu cho đại thảm họa của dân tộc không riêng gì đồng bào miền nam mà cả đồng bào miền bắc.
- Là ngày khởi dầu sự cai trị khắc nghiệt của bạo quyền cộng sản, của bạo tàn, tham nhũng bất công.
- Là ngày bọn Cộng Sản Việt Nam lộ nguyên hình là tay sai của Tàu cộng.
- Là ngày mà đảng Cộng Sản Việt Nam dâng đất dâng biển, dâng quê cha đất tổ cho Trung cộng.

Ngày 30/4 chính danh là ngày Quốc Hận. Sông cạn đá mòn, lòng người thay đổi, nhưng ngày Quốc Hận 30/4 không thể đổi thay. Ngày 30/4/1975 vẫn mãi mãi nằm trong quốc sử Việt Nam và được ghi rõ: 30/4 Ngày Quốc Hận Của Dân Tộc Việt Nam. Không một cá nhân, không một tập thể, không một lãnh tụ, không một quốc gia nào có quyền xâm phạm vào ngày Quốc Hận 30/4 của dân tộc Việt Nam. Đó là điều khẳng định.

Thưa đồng bào, Thưa quý chiến hữu,
Chúng ta không thể ngồi yên, không thể im lặng trước âm mưu thâm độc của đảng cộng sản Việt Nam và đám việt gian tay sai. Xin hãy lên tiếng phản đối quyết liệt tên phản bội Ngô Thanh Hải, và bè lũ Việt gian, bằng thư từ, Email gởi đến quốc hội Canada. Đồng thời chúng ta cũng gởi cho Bà Elizabeth May Thượng nghị sĩ của Quốc hội Canada phản đối dự luật S-219 của tên Việt gian Ngô Thanh Hải, vì chính bà thượng nghị sĩ này đang đề nghị quốc hội Canada nên dùng ngày 27/7/1979 là ngày thuyền nhân đầu tiên đến Canada làm ngày “Hành Trình Đến Tự Do”. Email của thượng Nghị sĩ Elizabeth May: admin@ElizabethMayMP.ca

Trân Trọng,

Liên Thành
Đại diện Anh Chị Em UBTTTADCSVN

Đính kèm:
1. Bài viết "Còn gì xấu hổ hơn nữa?" của tên Việt cộng Đặng Chí Hùng do đài phát thanh của cái gọi là "Đáp Lời Sông Núi" phổ biến ngày 5-3 -2015
2. Email của bà Elizabeth May, Thượng Nghị sĩ Quốc Hội Canada ngày 25-2-2015.

Trích đoạn bài viết của tên VC Đặng Chí Hùng:

"….Nhưng bài viết này, người viết muốn nói đến Canada vì ngoài việc đã giúp hàng triệu người được định cư sinh sống tại Canada thì gần đây đã nổi lên hai sự kiện mà chúng ta cần phải thêm một lần nữa cảm ơn Canada !

Sự kiện thứ nhất chính là dự luật S-219 của Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đưa ra và đang chờ thông qua tại Hạ Viện Canada trước khi nó đi vào đời sống thực tế một cách chính thức. Dự luật này là nhát dao đầu tiên đâm vào con tim của loài quỷ đỏ. Dự luật này đã cho thấy thế giới nói chung và Canada nói riêng công nhận ngày 30/04/1975 chính là dấu mốc của dân tộc Việt Nam phải bỏ nước ra đi vì thảm họa cộng sản. Việc phải đi tìm tự do cho mình chính là sự tố cáo CSVN đã không cho người dân Việt Nam có tự do. Vì thế người dân Việt Nam đã phải ra đi tìm đường sống cho mình. Để trả lời về sự kiện này, TNS Ngô Thanh Hải đã phát biểu với nhà báo Mặc Lâm – RFA như sau: "Đó là dự luật để tưởng nhớ tới hơn hai triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi với tư cách là tị nạn, là thuyền nhân. Thứ hai là để tưởng nhớ 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển cả hoặc là bị cướp, bị bão hay điều gì đó. Thứ ba nữa dự luật này nhằm cám ơn chính phủ Canada đã nhận một trăm hai chục ngàn người Việt Nam tỵ nạn vào cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 rồi sau này lên tới 300 ngàn người. Đồng thời cũng cám ơn chính phủ Canada đã mở rộng vòng tay để đón nhận thuyền nhân tỵ nạn của chúng ta tại đây...".

Vì vậy một lần nữa chúng ta nói lời cảm ơn những người Canada, chính phủ Canada, thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải... đã không chỉ giúp đỡ những người Việt tị nạn cộng sản trên hành trình đi tìm tự do mà còn trân trọng những gì thuộc về bản sắc của dân tộc Việt Nam chúng ta.

Đặng Chí Hùng
05/03/2015"

Email của bà Elizabeth May, Thượng Nghị sĩ Quốc Hội Canada

From: Elizabeth May, MP
Date: Wed, Feb 25, 2015 at 7:50 PM
Subject: Update on Bill S-219
To: cluuvong@gmail.com

I want to follow up on an email response sent to you regarding Bill S-219, the Journey to Freedom Day Act.

After careful consideration, I remain supportive of establishing a day recognize Vietnamese immigration to Canada. However, I will seek to amend the bill in a way that responds to the concerns of Vietnamese-Canadians regarding the date proposed by the bill.

The invaluable contributions of Vietnamese-Canadians to our society should be celebrated. At the same time, not all members of the Vietnamese-Canadian community commemorate April 30. Given the diversity of views within the Vietnamese-Canadian community, it may not be appropriate as a day of celebration.

Bill S-219 also singles out North Vietnam’s actions in the fall of Saigon in 1975. A more even-handed approach would recognize the exodus of boat people to Canada while maintaining political neutrality and good diplomatic relations with Vietnam.

I have appreciated hearing from hundreds of members of the Vietnamese-Canadian community on both sides of this issue. I am grateful for the feedback and I strive to balance these concerns. As such, I will seek to amend the bill to commemorate July 27 as Journey to Freedom Day, so as to acknowledge the diversity of opinion regarding the historical significance of April 30 for those impacted. July 27, 1979 marks the day when the first Canadian Forces plane arrived in Toronto under Operation Magnet II, bringing Vietnamese refugees to Canada.

Thank you very much for sharing your concerns with me.

Sincerely,

Elizabeth May, M.P., O.C.
Member of Parliament for Saanich-Gulf Islands
Leader of the Green Party

CHÚNG TÔI KHÔNG PHẢI VIỆT KIỀU

CHÚNG TÔI KHÔNG PHẢI VIỆT KIỀU 

(Gởi đảng Việt Cộng và bọn Việt Gian)

Chúng tôi không phải Việt Kiều
Mà là tỵ nạn đã liều năm xưa
Vượt biên đấy và vừa lập nghiệp
Bộ đảng quên, quên thiệt đấy à ???
Vượt Biên vì ghét cộng tà
Khinh bày khuyển mã, tìm ra nước ngoài
Cốt xa đảng, xa loài lang sói
Tay giết người miệng nói yêu thương
Dã tâm, gian dối, lật lường
Gây bao thảm cảnh thê lương khắp miền
Chính đảng tạo triền miên thống khổ
Đảng cưỡi lưng, bóp cổ đồng bào
Đảng không nhớ chúng tôi sao ?
Kẻ thù của đảng năm nào đấy thôi !!!

Xưa, đảng chửi chúng tôi đĩ điếm
Lũ côn đồ theo liếm ngoại bang
Ma cô, bọn giặc cờ vàng
Tàn dư Mỹ Ngụy rõ ràng, nhớ chăng ?
Nay đảng lại nhập nhằng lật lọng
Gọi chúng tôi trịnh trọng: "Việt Kiều" !
Việt Kiều giúp đảng lắm chiêu
Giúp moi chất xám, giúp khều đô xanh
Giúp kinh tài nhiệt thành xây đảng
Nuôi đảng bền, vàng bạc đầy rương
Đảng sai tuyên vận bốn phương
Giỏi màn vu chụp, rành đường đâm hông
Loại kiều ấy đảng trồng khắp chỗ
Sống vật vờ đầu ngõ, cuối mương
Và kiều áo gấm khoe hương
Rằng yêu chủ nghĩa là thương quê nhà
Kiều loại ấy sơn hà có nát
Chẳng hề chi, miễn đảng sống đời
Cần gì tổ quốc, cơ ngơi
Vì Kiều và đảng chung chơi ván bài !!!

Còn Tỵ Nạn thì ai cũng hận
Bọn giặc Hồ tán tận lương tâm
Giết lầm, cộng chẳng tha lầm
Bao người dân Việt âm thầm chết oan
Bốn mươi năm hung tàn cướp nước
Tám mươi năm bạo ngược giết người
Núi sông đảng đã xé tơi
Đổi cho Trung cộng giữ ngôi ác quyền
Bởi đảng thế dân hiền mới chán
Mới vượt biên tỵ nạn nước người
Đi mười nào đến đủ mười
Kẻ tay hải tặc người nơi biển sầu
Ai sống sót bắt đầu xây dựng
Sau bao năm chịu đựng nhọc nhằn
Cháu con danh toại công thành
Bản thân nay tạm an lành thảnh thơi
Thì đảng lại gọi mời "thân ái"
Gọi mà không ái ngại "Việt Kiều" !
Tuyệt vời, khen đảng tung chiêu
"Việt Kiều" tiếng gọi thân yêu hết mình !
Nhưng này nhé, Ba Đình chớ vội
Gom Vượt Biên chung với Việt Kiều
Vượt Biên chẳng thể nào yêu
Cái bầy Việt cộng, Việt kiều, Việt gian!
Đảng đừng mãi mưu toan bịp bợm
Vượt Biên nay kinh tởm Ba Đình
Hôm qua đảng chửi tận tình
Bữa nay đảng lại cung nghinh đón mời
Xưa, xoen xoét chửi người đĩ điếm
Lũ côn đồ, theo liếm ngoại bang
Nay ai là kẻ điếm đàng ?
Ngậm đô la Mỹ, đảng đang liếm gì ???
Ngôn ngữ đảng nói thì đạo đức
Nhưng hành vi phản phúc, đảo điên
*
Nghe đây, Tỵ Nạn, Vượt Biên
Không là đối tượng đảng viên: Việt Kiều !!!

Ngô Minh Hằng



NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN


NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Trong trái tim, trong sách sử loài người
Để ghi lại ngày tang thương trời đất
Cộng cướp miền Nam, cộng giết cuộc đời

NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Bởi BA MƯƠI, một cuối THÁNG TƯ xưa
Ngày Việt cộng gây hờn oan vô tận
Bức tử miền Nam, qủy quyệt, gạt lừa

NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Bởi đảng trả thù dân chúng miền Nam
Nào "cải tạo", lớp chết vì bất khuất
Chết bịnh, chết oan, roi, súng, bạo tàn

Lớp bị đảng lừa đi kinh tế mới
Để đảng cướp nhà, cướp của, chia nhau
Mặc dân chết bên luống mì đang xới
Chết bởi muỗi rừng, nắng vội mưa mau

Lớp chết biển khơi trên đường tị nạn
Bị sóng vùi ôm hận đáy trùng dương
Hay hải tặc chặn đầu, không cách thoát
Hoặc tàu hư, lạc lối giữa đêm trường

NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Ngày đau thương của nước Việt Nam mà !
Vì đảng đã coi người như thú vật
Cũi sắt, dùi cui thống trị dân nhà

NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Thôi chớ vẽ vời thay chữ, đổi tên
Thay đổi thế nào vẫn kìa, sự thật
Sự thật kinh hoàng của THÁNG TƯ ĐEN !

Sự thật dã tâm của bày ác thú
Biến Việt Nam thành quận, hạt của Tàu
Bắt dân tộc sống nhục nhằn đói khổ
Để bạc tiền, ngôi vị đảng chia nhau ...

Này hỡi đảng và những con tương cận
Ván cờ vào phút chót, tỉnh đi thôi !
NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Lương tâm đâu, sao chối bỏ tiếng người ???

Ngô Minh Hằng



Saturday, March 7, 2015

NGÔ THANH HẢI ! MI LÀ AI ? - Gs Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên

NGÔ THANH HẢI ! MI LÀ AI ?
 Một thượng nghĩ sĩ gốc Việt không do dân cử.

Gs Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên

Giới thiệu Loạt Bài về:
NĂM 2015: NGÔ THANH HẢI ÂM MƯU
THAY QUỐC HẬN 30.04 BẰNG NGÀY TỰ DO (GIẢI PHÓNG)

Chúng tôi nhận thấy đây là cả một chương trình của CSVN, qua Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, sử dụng những chính khứa ham danh ham lợi tại Hải ngoại để thực hiện việc xóa bỏ NGÀY QUỐC HẬN 30/4 CỦA DÂN TỘC và để tiến dần đến Hòa Giải Hòa Hợp trá hình nhằm kéo dài Cơ chế CSVN.

Ngày 30/4 QUỐC HẬN là cái mốc của Lịch sử nói lên tâm hồn của toàn Dân: đây là NGÀY TANG CỦA NGƯỜI SỐNG và NGÀY GIỖ CHO NGƯỜI CHẾT mà nguyên cớ gây ra ngày mốc Lịch sử đau buồn đó của Dân tộc chính là đảng CSVN. Không ai, dù một chính quyền nước ngoài, nhất nữa là người Việt Nam, có quyền xâm phạm đến ngày đó.

Khi mà Ý chí dâng cao của quần chúng tại Quốc nội là phải dứt bỏ hẳn Cơ chế CSVN để thăng hóa Xã hội, phát triển Kinh tế và chống xâm lăng từ Trung quốc, thì tại Hải ngoại, một số thành phần Trí thức, Trí ngủ và đám chính khứa đảng phái ham danh ham lợi, nhất thời riêng tư, đã cấu kết với CSVN để đi đến một hình thức Hòa Giải Hòa Hợp trá hình nhằm kéo dài Cơ chế CSVN trên Quê Hương Việt Nam đã quá nhiều đau khổ.

Thực vậy, quần chúng Quốc nội đã can đảm xuống đường giương cao khẩu hiệu “30.4 NGÀY TANG DÂN TỘC“ đập vào mặt đảng CSVN, thì tại nước ngoài, một số trí thức trí ngủ và một đám chính khứa đảng phái ham danh ham lợi lại bưng bô cho CSVN âm mưu xóa bỏ NGÀY QUỐC HẬN 30.4 nhằm đi đến Hòa Giải Hòa Hợp trá hình kéo dài Cơ chế CSVN để quần chúng Quốc nội tiếp tục kiếp nô lệ nữa. Đám phản bội này tìm cách đưa những thành phần “phản tỉnh mà vẫn tôn thờ Hồ Chính Minh” như Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cây... từ quốc nội sang Mỹ để giới thiệu với Nghị sĩ Hoa kỳ, mong Mỹ dàn xếp Hòa Giải Hòa Hợp trá hình với CSVN. Chúng ta yểm trợ cuộc đấu tranh cam go của Quốc nội, thì chúng ta không thể tha thứ đám người âm mưu với CSVN để đi đến Hòa Giải Hòa Hợp trá hình kéo dài tội ác trên Dân tộc nữa !

Viết về âm mưu Ngô Thanh Hải và đồng bọn, chúng tôi lần lượt viết loạt bài sau đây, không những chỉ riêng cho tên phản động này, mà còn chung cho cả những tên phản động bưng bô khác nữa đang sống giữa chúng ta tại Hải ngoại:
    (1) NGÔ THANH HẢI ! MI LÀ AI? (2) XẬM XỤI LIÊN HỆ NGUYỄN THANH SƠN & NGÔ THANH HẢI (3) CHỦ TRƯƠNG HÒA GIẢI HÒA HỢP NHĂM NHẨY BÀN ĐỘC (4) THỰC HIỆN ÂM MƯU XÓA BỎ NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG TƯ (5) LẬP TRƯỜNG DỨT KHOÁT CỦA DÂN TỘC: DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN (6) 30/4, NGÀY TANG CỦA NGƯỜI SỐNG & NGÀY GIỖ CHO NGƯỜI CHẾT (7) CSVN THUÊ NHỮNG TÊN BƯNG BÔ TIẾN HÀNH HÒA GIẢI HÒA HỢP (8) NHỮNG TÊN TỰ XƯNG CHỐNG CỘNG, NHƯNG LÀ KIỆN TOÀN CSVN (9) Phụ Bản I: NĂM 2005: VIỆT TÂM ÂM MƯU VỚI "DIỄN HÀNH TỰ DO" (10) Phụ Bản II: NĂM 2013: GS NGUYỄN NGỌC BÍCH ÂM MƯU XÓA QUÔC HẬN
Chú thích:

===>Viết tất cả những đề mục trên đây chung vào một bài dài, chúng tôi sợ Đọc giả ngán đọc. Vì vậy, chúng tôi viết thành một loạt bài ngắn đọc giả tiện theo rõi và không ngán khi đọc.

===> Bài này viết đặc biệt cho PHONG TRÀO HIẾN CHƯƠNG 2000 tại Canada để PHONG TRÀO làm mạnh ngăn chặn âm mưu của CSVN và tên phản động bưng bô Ngô Thanh Hải.
------------------------------

Đây là Bài thứ (1) trong loạt bài về Ngô Thanh Hải và đồng bọn bưng bô với đầu đề (1) NGÔ THANH HẢI ! MI LÀ AI ?

Như CHÚ THÍCH trên đây, chúng tôi sẽ viết vắn gọn để quý Độc giả đọc đỡ ngán và tiện theo rõi từng giai đoạn khai triển về âm mưu tiến tới Hòa Giải Hòa Hợp trá hình. Chúng tôi đề cập đến những điểm sau đây:

=> QUỐC HẬN 30/4 là của toàn Dân, không ai có quyền xâm phạm đến NGÀY TANG và NGÀY GIỖ Lịch sử ấy.

=> NGÔ THANH HẢI ! MI LÀ AI ? Từ một tên ngu đần, bưng bô cho CSVN…, đến âm mưu kéo dài CSVN trên Quê Hương VN:
    * NGÔ THANH HẢI ! Mi là tên ngu đần để nước ngoài xâm phạm đến NGÀY QUỐC HẬN 30/4. * NGÔ THANH HẢI ! Mi là tên mù quáng để chính mi xâm phạm đến NGÀY LỊCH SỬ và LINH THIÊNG của Dân Tộc. * NGÔ THANH HẢI ! Mi là tên phản bội khi cấu kết với CSVN, qua Nguyễn Thanh Sơn, âm mưu đổi NGÀY QUỐC HẬN thành ngày DIÊN HÀNH TỰ DO. * NGÔ THANH HẢI ! Mi là tên tòng phạm với tội ác CSVN để kéo dài tội ác của chúng trên Quê Hương. * NGÔ THANH HẢI ! Mi cấu kết với quyền lợi ngoại lai để áp đặt một giải quyết chính trị không tôn trọng Ý chí độc lập của Dân Tộc Việt Nam

QUỐC HẬN 30/4 là của toàn Dân,
không ai có quyền xâm phạm đến
NGÀY TANG và NGÀY GIỖ Lịch sử ấy.

Ngày 30 THÁNG TƯ là một cái mốc thời gian, đánh dấu việc toàn Dân oán hận đảng CSVN đã và còn mang tang thương, tù tội, chết chóc đến cho người Việt Nam. Ngày 30 THÁNG TƯ NĂM 1975, khi mà CSVN lấy vũ lực của ngoại lai cưỡng chiếm trọn Sài Gòn, thì toàn dân Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước thấy tâm hồn trơ thành cay đắng dưới màn đen tội ác che phủ lên toàn lãnh thổ.

Cái ngày 30/4 này là một cái mốc thời gian của Lịch sử đau buồn của Dân Tộc và cái ngày đó được gọi là ngày QUỐC HẬN. Đây là cái HẬN đã kéo dài trước ngày 30/4/1975 và còn tiếp tục sau ngày đó.

Thực vậy:

* Trước mốc thời gian 30/4/1975.
QUỐC HẬN bắt đầu bằng việc Hồ Chính Minh làm đầy tớ cho Cộng sản quốc tế, mang lý thuyết ngoại lai Mác—Lênin áp đặt lên Dân Tộc Việt Nam. Năm 1954, đất nước bị chia đôi và hơn 1 triệu dân Miền Bắc bỏ tài sản, mồ mả Tổ Tiên để di cư vào Nam, đó là QUỐC HẬN. Những tàn ác trong cuộc Cải Cách Điền Địa và cảnh chôn sống người trong Tết Mậu Thân 1968 tạo thành QUỐC HẬN trong lòng Dân. Cuộc chiến huynh đệ tương tàn quá đẫm máu do tham vọng của Cộng sản Miền Bắc cưỡng chiếm Miền Nam đang yên lành, hiển nhiên tạo thành QUỐC HẬN.

* Chính NGÀY 30/4/1975
Đó là cái mốc thời gian Lịch sử làm toàn dân bàng hoàng, đánh dấu mối HẬN dâng trào. Người Miền Bắc thấy mình bị đảng CSVN lừa bịp dối trá. Họ thầm ao ước Miền Nam ra giải phóng họ. Người Miền Nam thấy cảnh đen tối chụp xuống với nanh vuốt tàn ác của đảng CSVN. Người Việt sống ở Hải ngoại thấy mình lạc lõng, đơn côi vì từ nay Quê Hương trở thành một nhà tù lớn. Làm sao mọi người không oán HẬN được và tất cả gọi ngày 30/4 là ngày QUỐC HẬN.

* Sau mốc thời gian 30/4/1975
Liền sau ngày 30/4, đảng CSVN thi hành cuộc trả thù tàn ác. Quân Cán Chính VNCH chỉ vì bảo vệ cho cuộc sống Tự do của người dân, cho thể chế Dân chủ của Xã hội, mà nay bị chuyển tải vào những trại tập trung lao tù cay nghiệt. Đây là QUỐC HẬN. Đảng CSVN từ Miền Bắc tràn vào Miền Nam như những con chó đói, dùng quyền lực đuổi dân thành thị đi vùng Kinh tế mới để chúng cướp nhà cửa ở Miền Nam, thu tài sản đến con búp bê chuyển về Miền Bắc. Đây là QUỐC HẬN đối với đảng cướp CSVN. Thế rồi gần 3 triệu người bỏ nước ra đi, hơn nửa triệu người chết ở biển cả, rừng sâu. Những người chết tức tưởi, những người sống sót ngắc ngoải làm sao không HẬN được CSVN.

Ngày nay nữa, sau 40 năm từ ngày 30/4/1975, cuộc sống Xã hội trở thành thác loạn, đời sống Kinh tế quốc dân bị phá sản. Quần chúng đang sống cực khổ, sao không OÁN HẬN được. Lớp tuổi trẻ nhìn tương lai đen tối. Khi CSVN còn đó, thì Xã hội tương lai càng thác loạn và Kinh tế quốc dân ngày mai càng đi xuống hố sâu. Đó là QUỐC HẬN cho tương lai vậy.

Tóm lại:
- NGÀY 30/4 LÀ NGÀY TANG của ngững người còn sống.
- NGÀY 30/4 LÀ NGÀY GIỖ cho những người đã chết.

Vì vậy không có ai, dù là những Chính quyền nước ngoài, nhất nữa lại là những người Việt Nam, có thể xâm phạm đến NGÀY 30/4 QUỐC HẬN, ngày TANG và ngày GIỖ của một Dân Tộc gần 90 triệu người !

NGÔ THANH HẢI ! MI LÀ AI ?
Từ một tên ngu đần, bưng bô cho CSVN…, đến âm mưu kéo dài CSVN trên Quê Hương VN.

Chính vì sự Linh thiêng và tính cách Lịch sử của 90 triệu dân Việt Nam, mà chúng tôi gọi Ngô Thanh Hải bằng những tiếng “Ngu đần“, “Mù quáng“, “Tòng phạm với tội ác CSVN“… Chúng tôi xin lần lượt cắt nghĩa tại sao phải gọi như vậy.

* NGÔ THANH HẢI !
Mi là tên ngu đần để nước ngoài xâm phạm đến NGÀY QUỐC HẬN 30/4.

Ngô Thanh Hải cắt nghĩa rằng đây là việc Canada chọn ngày 30/4 làm ngày TÌM TỰ DO, nghĩa là ngày vui mừng để cám ơn lòng độ lượng của người Canada. Ngô Thanh Hải là một người Việt, là đảng trưởng của đảng Liên Minh Dân Chủ, làm Thương Nghị sĩ (không phải là dân cử) cho Canada, mà không dám mở miệng cắt nghĩa cho Canada biết rằng việc chọn ngày 30/4 là xúc phạm đến sự Thiêng liêng của Dân Tộc Việt Nam. Nếu Ngô Thanh Hải biết mà không dám mở miệng nói, thì hắn là tên hèn. Còn nếu không nói vì không biết ngày 30/4 QUỐC HẬN là ngày Lịch sử và Linh thiêng đối với Dân Tộc, thì hắn quả thực là tên ngu đần, chỉ đáng gù đầu xuống ăn cám !!!

* NGÔ THANH HẢI !
Mi là tên mù quáng để chính mi xâm phạm đến NGÀY LỊCH SỬ và LINH THIÊNG của Dân Tộc.

Ngô Thanh Hải không phải là ngu đần đến độ không biết ngày 30/4 là NGÀY LỊCH SỬ và LINH THIÊNG của Dân Tộc. Nhưng hắn đã đi vào con đường xúc phạm đến ngày đó chỉ vì mù quáng trước hai quyến rũ: (i) Nịnh bợ phía Canada vì danh và lợi lộc cho vị trí làm việc lúc này; (ii) Làm thuê kiếm thù lao Đo-la từ phía CSVN ban cho.

* NGÔ THANH HẢI !
Mi là tên phản bội khi cấu kết với CSVN, qua Nguyễn Thanh Sơn, âm mưu đổi NGÀY QUỐC HẬN thành ngày đi tìm TỰ DO.

Việc âm mưu đổi NGÀY 30/4 QUỐC HẬN đã có từ năm 2005 với FREEDOM MARCH (DIỄN HÀNH TỰ DO) tại Washington do Việt Tân chủ trương, rồi năm 2013 Gs Nguyễn Ngọc Bích cũng âm mưu thay đổi tên gọi ngày 30/4. Ngày nay, năm 2015, Ngô Thanh Hải, vì ngu đần, hèn hạ, hay có chủ ý, đã muốn gọi ngày 30/4 là ngày đi tìm TỰ DO. Ngày 30/4, CSVN ăn mừng “NGÀY GIẢI PHÓNG / JOUR DE LIBERATION), nghĩa là ngày mang TỰ DO đến cho Dân Miền Nam. Ngày 30/4, nếu tại Hải ngoại, thay thế Quốc Hận bằng hai chữ “TỰ DO“ dưới hình thức nào mặc lòng, thì hai chữ TỰ DO này cũng có nghĩa là GIẢI PHÓNG của CSVN. Đây là chủ ý của CSVN và đám bưng bô tại Hải ngoại muốn biến ngày 30/4 thành ngày TỰ DO, có nghĩa là GIẢI PHÓNG mà đảng CSVN muốn ca ngợi mình là đem toàn Dân Tộc đến TỰ DO vào ngày 30/4.

Đối với chúng tôi, Ngô Thanh Hải có muốn nịnh bợ Canada bằng một Dự Luật S219 cám ơn nước này như thế nào, hay Ngô Thanh Hải muốn bưng bô làm bồi kiếm thù lao từ CSVN ra sao, mà không đụng chạm đến NGÀY LỊCH SỬ QUỐC HẬN 30/4, đến sự LINH THIÊNG của ngày đó trong tâm hồn Dân Tộc, thì có lẽ chúng tôi không thèm để ý tới cho lắm. Nhưng chúng tôi mạnh mẽ đả kích việc làm này vì nó xâm phạm đến NGÀY LỊCH SỬ và LINH THIÊNG 30/4. Chính vì phạm đến ngày Lịch sử và Linh thiêng này mà chúng tôi gọi Ngô Thanh Hải là “TÊN PHẢN BỘI“ lại Dân Tộc Việt Nam vậy !

* NGÔ THANH HẢI !
Mi là tên tòng phạm với tội ác CSVN để kéo dài tội ác của chúng trên Quê Hương.

Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Ngoại giao, đặc trách Người Việt tỵ nạn tại Hải ngoại, đã tìm cách liên hệ với những nhóm chính khứa Hải ngoại, như nhóm Hoàng Duy Hùng tại Houston, nhóm Nguyễn Ngọc Bích “lang thang“, nhóm Ngô Thanh Hải tại Canada. Những hình ảnh giữa Ngô Thanh Hải và Nguyễn Thanh Sơn cho thấy sự liên hệ xậm xụi này. Người ta có quyền nghĩ rằng CSVN đã thuê Ngô Thanh Hải làm tay sai ở Hải ngoại trước hết là thực hiện âm mưu xóa bỏ NGÀY 30/4 QUỐC HẬN, sau đó để tiến tới Hòa Giải Hòa Hợp trá hình nhằm kéo dài Cơ chế CSVN trên Quê Hương. Kéo dài Cơ chế CSVN tức là kéo dài tội ác đã bao chục năm trường rồi và bịt lại những cơ hội thăng hóa Xã hội và phát triển Kinh tế. Chính vì điểm này mà chúng tôi gọi Ngô Thanh Hải là “TÊN TÒNG PHẠM VỚI TỘI ÁC CSVN“.

* NGÔ THANH HẢI !
Mi cấu kết với quyền lợi ngoại lai để áp đặt một giải quyết chính trị không tôn trọng Ý chí độc lập của Dân Tộc Việt Nam

Trước tình trạng băng hoại Xã hội và phá sản Kinh tế quốc dân, Cơ chế CSVN như chiếc xe cũ kỹ đang đi xuống vực thẳm. CSVN đang sơ quần chúng NỔI DẬY chôn vúi mình. Chúng đang ao ước một giải pháp Hòa Giải Hòa Hợp trá hình để trước hết một số Lãnh đạo đã ăn cướp được nhiều tiền có thể hạ cánh an toàn, đồng thời sau đó với sự tham dự “làm kiểng“ của đám chính khứa cơ hội và một số trí thức trí ngủ Hải ngoại vào Hòa Hợp Hòa Giải để chúng kéo dài thêm Cơ chế hiện hành và xin xỏ được phía nước ngoài, như Mỹ chẳng hạn, viện trợ tiền bạc cho.

Những năm gần đây, đám chính khứa cơ hội và một số trí thức trí ngủ tại Hải ngoại đã lo liệu cho một số những tên “phản tỉnh mà vẫn tôn thờ Hồ Chính Minh” như trường hợp Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cầy…, từ Việt Nam sang Hoa kỳ. Đám chính khứa cơ hội và một số trí thức trí ngủ Hải ngoại đưa đón hầu hạ những tên phản tỉnh này, mở những cuộc họp báo để giới thiêu tung hô như những lãnh tụ tương lai, giới thiệu với những Dân biểu, Nghị sĩ Mỹ để họ hỗ trợ cho một giải pháp Hòa Giải Hòa Hợp trá hình tương lai. Việc Cù Huy Hà Vũ làm rùm beng khi mới sang đây như một Tổng Thống tương lai Việt Nam cho thấy lòi cái đuôi âm mưu Hòa Giải Hòa Hợp trá hình ra.

Ngô Thanh Hải làm theo hướng này, đó là sự cấu kết với quyền lợi ngoại lai và không tôn trọng Ý CHÍ ĐỘC LẬP CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM là phải dứt bỏ hẳn Cơ chế CSVN vì quyền lợi và tương lai của Dân Tộc.

Gs Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế


Người Tỵ Nạn và Việt Kiều - Gs Lâm Văn Bé

Người Tỵ Nạn và Việt Kiều

Gs. Lâm văn Bé

Sau năm 1975, người Việt Nam bỏ nước ra đi t nạn đã bị Cộng Sản gọi bằng những danh từ khác nhau. Những danh từ nầy mang những hậu ý chính trị gian xảo, do đó việc tìm hiểu ý nghĩa chính xác những danh từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong từng trường hợp.


Người tỵ nạn.

Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam, Cộng Sản đã gọi tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vượt biển, vượt biên để xin t nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ thô tục để điểm mặt người tỵ nạn.

Trước tiên, trong một hội nghị với các cán bộ tại Hà nội năm 1975, Trần Phương, Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Xã hội đã ví von một cách tục tĩu dân miền Nam là những con điếm cho Mỹ làm tình để đổi lấy viện trợ một bọn ma-cô, đĩ điếm Phạm văn Đồng chửi người ra đi là bọn phản quốc và các nhà báo nhà văn cộng sản, kể cả bọn cộng sản 30 cũng chửi hùa theo «là những đồ rác rưởi trôi dạt khắp năm châu bốn bể. cặn bả xã hội, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sửa cặn». Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế còn hằn học hơn khi tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm 1993 tại Amsterdam: Những người di tản đáng bị chặt đầu.

Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên hình là bọn gian manh. Năm 1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tỵ nạn gởi về, bọn đĩ điếm được cộng sản «nâng cấp» lên là Việt kiều, và ân tình hơn, Đỗ Mười tuyên bố Việt Kiều là những khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc.

Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rõ thâm ý của Cộng Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác được dùng làm tĩnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống ở ngoài lãnh thổ mà người đó đã được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước».

Người Việt bỏ xứ ra đi tỵ nạn không phảiViệt kiều, kiều bào, vì những người nầy đã không chấp nhận chế độ Cộng Sản, đã sinh cơ lập nghiệp vĩnh viễn trên một quốc gia khác, đã có quốc tịch của một quốc gia khác. Gọi người tỵ nạn là Việt kiều, Cộng Sản có gian ý là muốn «tóm thâu» cái khối chất xám nầy là «con dân» của họ, còn đặt dưới quyền sinh sát của họ. Nghị định số 78/2009/NĐ ngày 22/09/2009 về luật quốc tịch xác định rõ quan niệm nầy, theo đó bao giờ người mang quốc tịch VN chưa được chính phủ VNcho phép từ bỏ quốc tịch, người ấy vẫn còn quốc tịch VN dù rằng người ấy đã có quốc tịch Mỹ, Canada, Úc … Càng lộng ngôn và ngang ngược hơn, với con cháu của người Việt tỵ nạn, dù sinh ra và lớn lên tại các quốc gia của ông cha họ đã định cư, cộng sản cũng xem những người nầy vẫn có quốc tịch Việt Nam nếu chưa phép làm đơn xin bỏ quốc tịch và chưa được chính phủ VN chấp thuận.
Về điểm nầy, chúng ta thấy rõ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008, «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của chính phủ VN tại nước ngoài để đăng ký xin giữ quốc tịch, nếu không, sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch».

Sau 5 năm, chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái với dự tính vì số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Nguyễn Tấn Dũng ký luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019.

Ngôn từ Cộng Sản thật lươn lẹo, lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019, người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn còn quốc tịch VN, vẫn bị chi phối bởi Luật quốc tịch VN giải thích «rộng rãi» theo luật rừng. Chính bà Nguyễn Thị Bình, người lãnh tụ của Phong Trào Giải Phóng Miền Nam còn sống sót, đã ví von: Việt Nam có một rừng luật và áp dụng luật rừng.

Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn còn khư khư giữ quan niệm cha chú nầy với người Việt tỵ nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước ngoài đã nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết, ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt 20 năm trước như sau: «Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền nhân ra đi đa số là vì mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản. Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai. (Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014).

Đối với những Việt Kiều yêu nước, Cộng Sản muốn gọi tên gì thì cứ gọi và sai bảo điều gì thì cứ làm. Nhưng đối với người Việt tỵ nạn Cộng Sản, họ không phải là Việt kiều mà là người Mỹ, người Canadiens, người Pháp, người Úc, người Đức gốc Việt… Phải gọi chính danh như vậy và phải tôn trọng quyền chọn lựa của họ là không chấp nhận chế độ cộng sản.

Việt Kiều và Nghị Quyết 36.

Không người Việt tỵ nạn nào ngu xuẩn tự xưng mình là Việt kiều, nếu có, đó là những Việt kiều yêu nước. Tưởng cần biết qua lai lịch của những Việt kiều yêu nước nầy.

Đa số những Việt Kiều nầy là những sinh viên xuất ngoại du học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc gia Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước vì sợ đi quân dịch, nên tìm cách ở lại tại các quốc gia đã du học một cách bất hợp pháp. Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong trào sinh viên phản chiến ở Pháp, Mỹ, Canada để chống chiến tranh Việt Nam mà theo họ là do Mỹ và chế độ quân phiệt miền Nam chủ động. Họ được cộng sản lợi dụng để tuyên truyền và được phong danh hiệu là Việt kiều yêu nước. Sau 1975, nhiều đám sinh viên phản chiến phản quốc nầy từ Nhựt, Âu châu, Mỹ chạy sang Canada xin tỵ nạn cùng lúc với thân nhân của họ vừa di tản đến. Họ trương cờ đỏ sao vàng ở những tụ điểm của họ, một số xin về nước để lấy uy với bạn bè, nhưng chính phủ cộng sản lạnh lùng với họ, có khi còn bắt họ bởi lẽ cộng sản dư biết những Việt kiều yêu nước nầy chỉ là bọn hèn, theo đóm ăn tàn.

Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già, nguyên gốc là HO, có học và vô học, vì không hội nhập được vào xã hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xã hội của quốc gia định cư, một số khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc, làm ăn buôn bán. Để đạt được ý định, họ lập công với cộng sản bằng những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá. Nghị Quyết 36 nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy.

Nhiều người Việt tỵ nạn không biết hay xem thường những tác hại của Nghị Quyết 36 viện lẽ không làm chính trị. Ban hành vào tháng 3 năm 2004, Nghị Quyết 36 nhằm mục đích chiêu dụ người Việt ở hải ngoại về nước và đem tài sản về nước để gọi là đầu tư, đồng thời tìm cách khống chế lực lượng người Việt ngoài nước. Nói chung, Nghị Quyết 36 có thể tóm lược trong 5 điểm:
    - Giúp người tỵ nạn trong việc sinh sống.
    - Giúp người tỵ nạn đoàn kết lẫn nhau.
    - Thu góp tiền bạc và chất xám.
    - Biện pháp đối với các thành phần chống lại chánh phủ và Đảng ở hải ngoại.
    - Tổ chức văn hóa vận và tình báo ở hải ngoại.
Nhận định từng điểm, NQ 36 mang bản chất gian xảo, trịch thượng. Làm sao CS có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong cuộc sinh sống trong khi họ đã đẩy đa số người dân trong nước đến chỗ bần cùng và mất cả đạo lý, và càng tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của họ đi qua, làm xấu xa dân tộc. Tại Nhật, Mã Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo bảng hiệu: Cảnh cáo Ăn cắp vặt,No dogs, no Vietnamese.

Họ nói giúp người tỵ nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ, đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản thì quá rõ, từ việc gởi tiền đến Việt kiều du lịch mang về nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản 12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại.

Một số tác hại của NQ 36 đã thấy rõ trong một số công tác chiến lược như sau :

- Trường dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là lò huấn luyện, tuyên truyền.

Tại những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay hợp tác với các đoàn thể, tư nhân mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách báo từ VN sang, hay soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng sản. Những buổi sinh hoạt tập thể là những cơ hội thuận lợi để cán bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn những măng non theo tư tưởng cộng sản. Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách văn hóa vận nầy tạo một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công cuộc chống cộng.

Trong đại hội «Tổng kết 10 năm thực hiện NQ36 và công tác đối với người Việt nước ngoài» ngày 22 tháng 5, 2014, Thứ Trưởng Giáo Dục Trần Quang Huy đã có chỉ thị rõ rệt «… Cần sớm có quy chế về việc dạy tiếng Việt cho người Việt nước ngoài, đặc biệt thế hệ thứ ba, thứ tư để việc kết nối giao lưu được thuận lợi… »

- Xâm nhập các cơ quan truyền thông

Cộng Sản đã tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua chuộc các cơ sở truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản linh tinh, nhưng thỉnh thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận động chính trị chiến lược có lợi cho cộng sản. Trong bản tổng kết Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ hai từ ngày 27-29 tháng 09 năm 2012 ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã nói rõ chương trình hành động: «Tăng cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triễn lãm tranh ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt các nhóm trong cộng đồng người Việt hải ngoại…».

Khuynh đảo, lừa gạt, xảo trá là sở trường của Cộng Sản. Chúng áp dụng kỹ chiến thuật tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin Tuyên truyển của Đức Quốc Xã): Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc không đúng sự thật, ban đầu người ta không tin, lần lần người ta bán tin bán nghi sau cùng người ta tin là sự thật. Internet và báo chí là những phương tiện hữu hiệu dể chúng bôi lọ những người quốc gia tranh đấu chân chính, làm yếu đi lực lượng chống cộng. để từ đó chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ chức tranh đấu chính trị đã bị chẻ làm đôi, làm ba và khi các cộng đồng hay tổ chức này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ thì chúng dùng tiền để mua chuộc đám Việt kiều - Việt gian nhảy ra làm bình phong cho chúng hoạt động. Mặc dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng vẫn không thành công lắm trong công tác vận động quần chúng ở Bắc Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu.

Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau: dịu ngọt và bạo lực.

Tạp chí Cộng Sản gần đây đã viết: «… Tính đến nay, có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người VN ở hải ngoại đang nuôi chí phục thù nhằm thực hiện ý đồ đen tối phục quốc. Cầm đầu các hội, các nhóm trên là những phần tử cực đoan, từng là ngụy quân ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc nối, cấu kết chặt ch với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống phá cách mạng nước ta …» (TCCS. Phát huy vai trò của Cộng đồng http://tapchicongsan.org.vn ngày 28/05/2013)

Chánh sách vừa chiêu dụ vừa khủng bố của Cộng Sản đã có tác dụng phần nào trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông Âu, nơi có đông đảo người lao động xuất khẩu, di dân bất hợp pháp và du sinh. Trong thập niên qua, các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng sản đã nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36: « …Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động thì chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế lực thù địch… ».

Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là: 4 tại các quốc gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar, Angola, 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – (chú thích: tại Thụy Sĩ còn có một cộng đồng chống Cộng của người Việt tỵ nạn). Các chủ tịch các cộng đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nhìn, việc điều khiển Cộng Đồng do sứ quán hay tòa lãnh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm 2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50.

Ngày 18 tháng 8, 2014, Trung ương đảng đã tổ chức một cuộc «mạn đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) quy tụ những nhân vật cao cấp của Bộ Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng»

- Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện.

Chùa là nơi gia đình người Việt tỵ nạn gặp nhau để lễ Phật, niệm kinh, và còn là nơi sinh hoạt xã hội, văn hóa. Biết như vậy, Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã ký kết với Hòa Thượng Thích Thanh Tứ (Tứ chớ không phải Thích Thanh Từ) Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo VN ngày 16 /07/2009 một văn kiện nhằm «phối hợp cộng tác phât sự ở nước ngoài, mở rộng quan hệ, hoạt động của giáo hội sang các nước có đông kiều bào sinh sống». Từ mươi năm nay, tại hải ngoại có nhiều chùa, tu viện được thành lập, mà sinh hoạt chùa không theo truyền thống tôn nghiêm của Phật pháp. Những ngôi chùa nầy tổ chức đại nhạc hội, du lịch, thi hoa hậu và nhiều sinh hoạt của đời thường. Một số thầy chùa, sư nữ gốc là công an, tác phong không phù hợp với người tu hành, làm người phật tử chân chính chán ngán. Ngôi chùa trở nên cơ sở kinh tài cho cá nhân và đảng, sư quốc doanh làm công tác báo cáo, tuyên truyền cho chế độ. Nghị Quyết 36 đã làm tổn hại rất nhiều đời sống tâm linh của người tỵ nạn.

Người Việt ở hải ngoại.


Ngoài ra, chúng ta thường có thói quen gọi chúng ta thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại (diaspora) mà Cộng Sản gọi là người Việt nước ngoài. Nếu từ ngữ nầy đúng với tất cả các sắc tộc khác nhưng đối với người Việt, có khi không đúng hẳn bởi lẽ trong số người Việt hải ngoại lại có thêm những người không phải là người t nạn. Đó là những người xuất khẩu lao động, di dân kinh tế hợp pháp và bất hợp pháp, các du học sinh thân cộng hay theo Cộng. Hiểu như vậy, sự chính xác của từ ngữ sử dụng cần phân biệt theo nội dung và hoàn cảnh.

Bảng 1 - Tổng số người Việt t nạn Cộng Sản ở hải ngoại.
Quốc gia Số người Nguồn
Hoa Kỳ 1 548 450 US Census 2010
Úc 233.390 Census Explorer 2011
Canada 220.420 Canada Census 2011
Pháp 200.000 Các nhà biên khảo ở Pháp
Đức 125.000 Wikipedia và một số nguồn liệu
Anh 65.000 UK Census 2011& phỏng định
Tây/Bắc Âu 100.000 Các nguồn từ địa phương
Tổng cộng 2.492.260
Nguồn: Lâm Vĩnh Bình. Giá Tự Do

Bảng 2 - Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư hợp pháp và bất hợp pháp tại hải ngoại. (Việt Kiều)

Đông Âu Số người Á Châu Số người
Nga 46.000 Đài Loan 180.000
Tiệp Khắc 50.000 Hàn Quốc120.000
Ba Lan 20.000 Mã Lai 85.000
UKraine 10.000
Trung Quốc 30.000
Slovakia 5.000
Nhựt 38.000
Áo 5.000
Cambốt 600.000
Hungary 4.000
Thái Lan 100.000
Azerbeijan 10.000


Trung Đông 10.000
Lào 20.000
Angola 40.000
Bangladesh 27.000
Cộng 200.000
Cộng 1.200.000
Tổng cộng : 1.400 000
Nguồn : - Người Việt ờ nước ngoài ww.vietkieu.info;

- Wikipedia,
- Migration Policy Institute.
- World Facts Book


Chú thích:
Bảng thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ là những con số ước lượng gồm có:

- 700.000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch. Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. Theo Wikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600.00 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodiatrình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc online).

Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động: Cambot: 37.000, Lào: 11.000, Thái Lan : 6000.

- 700.000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu, Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau:

- Một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy.

- Một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.

Như vậy tổng số người Việt ở hải ngoại là:

- Người tỵ nạn Cộng sản: 2.500.000 người (số tròn) Bảng 1
- Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp: 1.400.000 người. Bảng 2

Tổng cộng số người Việt ở hải ngoại: 3.900.000 người.

Một cách dễ nhớ: 4 triệu người.

Nguồn: Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do.

Về tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết, ngay cả những nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch đại con số, bởi lẽ thay vì sử dụng thống kê chính thức của các quốc gia sở tại, họ lại sử dụng những thống kê của Cục Người Việt nước ngoài của Cộng Sản mà bản chất là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể như luận án tiến sĩ: Mobiliser les Vietnamiens de l’étranger: enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme transnational của Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du Sud-Est contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở hải ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu (thay vì 1.5 triệu) và ở Canada là 250.000 (thay vì 220.000). «Le RSVN estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à l’étranger. La communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la plus nombreuse avec 2.2M de personnes. Environ 250.000 Viet Kieu vivent au Canada, 120.000 en Allemagne et 60.000 en Russie…(p. 13).

Kết luận

Chúng tôi vừa phân tích hai từ ngữ người tỵ nạnViệt kiều để phân biệt hoàn cảnh lúc ra đi và vị trí chính trị đối với chế độ cộng sản. Tuy nhiên, khi phải nhắc đến một từ ngữ khác có chữ kiều là kiều hối (mà cộng sản dùng thay cho danh từ ngoại tệ), cái biên giới giữa người tỵ nạn và Việt Kiều như không còn nữa bởi cả hai đều dùng kiều hối để nuôi dưỡng và củng cố chế độ trong nước.

Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tỵ nạn về nước ào ạt vì đủ thứ lý do, thăm gia đình, du lịch, du hí … Thật là khó hiểu khi nhiều người đã ra đi tìm cái sống trong cái chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay bị lao tù, và trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu, họ lại quay trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ công an, cán bộ phường xã, những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang gì ?

Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi người mang về VN để chi tiêu trung bình khoảng 4000 mỹ kim, như vậy Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai tháng. Ngoài ra, việc để nói là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính số kiều hối khổng lồ nầy đã nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy trì một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác gì những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng ?

Theo Viện Nghiên cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (Central Institute for Economic Management CIEM), «tính từ năm 1991 đến 2013, lượng kiều hối gởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất (57% trong tổng số kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng 9%), Canada (8%), Đức (6%), Pháp (4%). Kiều hối là nguồn vốn thứ hai tại VN sau FDI (chú thích của người viết: Foreign Direct Investment là tiền ngoại quốc đem vào VN đầu tư) giúp tăng tiết kiệm, đầu tư, giảm nợ, cải tiến bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, giúp ổn định tỷ giá, cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại hối. Tóm lại, kiều hối dùng để trả sinh hoạt hằng ngày, đầu tư vào sản xuất kinh doanh và trả nợ». (Cứu tinh của nền kinh tế VN /Alan Phan - ngày 18/12/2014.)

Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu não của cộng sản đã cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay nói chung những Việt kiều thân Cộng đã gởi tiền về nước để nuôi chế độ mà chính đa số là người tỵ nạn. Chỉ tại 5 quốc gia có đông đảo người tỵ nạn, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã đóng góp hàng năm cho cộng sản VN 84% ngoại tệ.

Có gì phi lý hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Tây Đức là thành trì chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là đại ngân hàng tài trợ cho Việt Cộng.

Giải quyết cái phi lý nầy phải là chuyện số một phải làm, tuy đã muộn màng lắm rồi, trước khi nói đến những chuyện tranh đấu khác.

Lâm Văn Bé