Wednesday, April 23, 2014

China: “Violent Government Thugs”

Lo sợ bạo động tại Trung Cộng sẽ diễn ra tương tự như tại Việt Nam, báo chí phải lừa dối bạn đọc?

 Bạo động đã bùng phát ở Trung Cộng khi mà một người đàn ông quay phim lại việc đánh đập dã man của lực lượng trật tự thành phố đối với 1 phụ nữ bán hàng rong. 

 Khi bị phát hiện quay phim, những người của lực lượng này đã dùng búa tạ đánh hộc máu anh này, trên đường đi cấp cứu thì anh ta đã trút hơi thở cuối cùng.
Như giọt nước tràn ly bởi phải nhịn nhục và đè nén lâu nay, người dân đã phản ứng tiêu cực, dân chúng đã bao vây đánh chết tại chỗ 4 người của lực lượng này.

Hàng trăm công an tàu cộng đã được điều động đến để trấn áp, đã khiến tình hình càng bùng lên. Hàng ngàn người đã xuống đường biểu tình ở thị trấn Lingxi, thuộc tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc từ hôm 19-4 sau khi xuất hiện các tin tức về chuyện cán bộ Trung Cộngtuyet1voi10 đánh dân đến chết.

Báo chí tại VN khi đưa tin đã chỉ nói là có xô xát và dân chúng “manh động” và “tấn công cán bộ” – một kiểu đưa tin láo đã quen trong chế độ CS lâu nay. Sự dối trá vẫn bao trùm để giúp che đậy cho tội ác của chế độ quan thầy.

Theo tin tức từ Revolution News, Đã có 5 thành viên lực lượng quản lý đô thị bị thương sau khi bị người biểu tình trả đũa vì đánh đập người phụ nữ nghèo bán hàng rong và đánh chết người đàn ông bằng búa.

Nạn nhân, được biết là ông Huang (36 tuổi) bị hơn 10 cán bộ, cả mặc đồng phục và thường phục, vây đánh sau khi ông này từ chối giao nộp điện thoại đã quay cảnh xô xát cho họ. Họ đã đấm ông ta ngã xuống đất rồi đập vào đầu ông búa tạ, cho đến khi ông hộc máu.

Những người mặc thường phục sau đó bỏ đi trong lúc những người mặc đồng phục leo lên một chiếc xe để rời khỏi hiện trường. Dù vậy, nhiều người chứng kiến vụ việc đã nổi giận và bao vây chiếc xe. Một số người còn đốt cả bánh xe để ngăn họ bỏ đi. Những người khác đập cửa sổ chiếc xe, rồi lật ngược cả xe cấp cứu.

Cuộc biểu tình tại thị trấn Lingxi là lần mới nhất người dân Trung Cộng bày tỏ sự bất bình đối với lực lượng quản thành phố thị thường bị chỉ trích là sử dụng bạo lực thái quá. Trước đó, vào đầu tháng này, các cán bộ quản lý thành phốị tỉnh Phúc Kiến cũng đã đánh chết một cụ ông 70 tuổi, dẫn đến làn sóng chỉ trích mạnh mẽ trên mạng.

1
Riots in southeastern China after brutal police-inspector killed a man with a hammer in broad daylight. People smashed several police cars and were attacked with tear gas.

At least 4 Chengguan, the most hated police-inspectors in China, were beaten to death by angry people in Cangnan County of Wenzhou City, Zhejiang Province (located in the industrial southeast), after they killed a man with a hammer. The police-inspectors hit the man with a hammer until he started to vomit blood, because he was trying to take pictures of their violence towards a woman, a street vendor. The man was rushed to hospital, but died on the way.
Thousands of angry people took to the streets, surrounded the police-inspectors in their van, attacked them with stones, bats, and beat them to death. People were shouting that the police-inspectors be killed on the spot for what they did: “Kill them! Kill them!”

These police-inspectors are notoriously violent, are rarely investigated or punished for their crimes, and are terrorizing people making a living. The Chengguan, which are a special combination between regular police and state inspectors, are called “violent government thugs” in China, thousands of them are on the state payroll in at least 656 cities. In July 2013, they beat to death a man and almost killed his wife, for trying to sell watermelon they had grown on their land. The crime of the Chengguan police sparked riots in the province of Guizhou. 

It’s not clear what happened, though, but the responsibility for murdering the bystander taking pictures lays with the Chengguan. Among people there circulates a version of the events that claims that the police-inspectors hired some men to beat the bystander up after he tried to film them. The police-inspector ran so he could not be accused of being related to the murder. Apparently these Chengguan police proceed like this every time they meet people attempting to document or stop their violence.

Numerous police troops were deployed to disperse the crowds, but people kept protesting and demanded that media report what happened. Police used tear-gas and fired warning shots in the air, but could not control the angry crowds, which kept growing.

The images are very brutal. The woman lying on the street is the one abused by the Chengguan police. The dead men in the bus and beside it are the Chengguan police.  
Similar police violence against workers and street vendors led to at least two insurrections against the state back in 2011.
man killed by Chengguan april 19 2013
This man was killed by Chengguan for taking pictures of them abusing a street vendor.
murder weapon of Chengguan
This is the hammer with which the
Chengguan hit him until he vomited blood.
He died on the way to hospital.
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image

image
image
imageimage
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image


Tuesday, April 22, 2014

Gởi các anh Quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đang ảo tưởng - Lão Ngoan Đồng

Gởi các anh Quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đang ảo tưởng
Lão Ngoan Đồng

Trước tiên, tôi xin giải thích tại sao tôi dùng chữ các Anh để gọi, dù cho các anh đã có cấp bực tột cao hay thấp tận cùng, vì quân nhân chúng ta đều có một liên hệ mật thiết với “Tình Huynh Đệ Chi Binh”. Điều nầy tôi muốn tỏ một chút tình đồng đội với các anh, dù chúng ta có nhiều khác biệt trong suy nghĩ và hành động.

Các Anh mà tôi muốn đề cập tới, là những người đang có những hành động, dù vô tình hay cố ý, đang có những giọng điệu ru ngủ, hay đối nghịch lại với công cuộc “diệt cộng cứu nước” của người Quân Nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Suốt chiều dài 21 năm, từ 20 tháng 7 năm 1954 đến 30 tháng 4 năm 1975, tất cả quân nhân chúng ta, dù ít nhiều cũng đã góp bàn tay của mình, đã hy sinh một phần thân thể hay đã bỏ mình vị quốc vong thân, trong công cuộc diệt cộng để cứu và giữ nước, chống lại âm mưu nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam của bọn cộng sản quốc tế. Chúng ta đã cố gắng tạo cuộc sống an bình cho toàn dân Việt Nam Cộng hòa. Nhưng chúng ta đã bị rơi vào hoàn cảnh “lực bất tòng tâm” vì tham vọng của một vài nước trong khối tự do, đã đưa chúng ta vào một vũng đen của lịch sử: mất nước vào tay của bầy quỷ đỏ cộng sản.

Từ ngày đó đến nay, hầu hết chúng ta đều đã bị bọn việt cộng, tay sai của cộng sản quốc tế, cưỡng ép chúng ta vào tù mà chúng gọi là “trại cải tạo”. Thời gian bị cầm tù khổ sai tuỳ theo cấp bậc và chức vụ trong quân đội của chúng ta. Cái nhà tù cải tạo đó chính là môi trường của bọn việt cộng dùng để giết lần mòn những người đối nghịch với chúng: bỏ đói, làm việc khổ sai, mắng nhiếc nhục mạ, bệnh tật không chữa, chia cách với người thân cật ruột, gây cho chúng ta bại liệt cả tinh thần lẫn vật chất.

Trong cái gọi là trại cải tạo, chúng ta đã từng trải việc bị hành hạ như một con vật, bị ép buộc trước họng súng của bọn cai tù, làm những việc khổ sai mà con người bình thường khó có thể chịu đựng. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều không bị rơi vào âm mưu của chúng, không đầu hàng chúng để được hưởng ân huệ của kẻ cướp, bán đi linh hồn để đổi lấy vài ba chén cơm trộn cát, để tin tưởng vào những hứa hẹn không bao giờ có là “cải tạo tốt để sớm về xum họp với gia đình”. Hầu hết chúng ta đều có thể ngẩng cao đầu nhìn tổ tiên, nhìn đồng bào vì đã không làm nhục tinh thần xả thân vì tổ Quốc, vì đồng bào.

Trong thời gian từ ngày 30 tháng tư đen tối đó cho đến cả chục năm sau, có nhiều người đã chết vì sức khỏe bị mỏi mòn trong cơn bịnh không được chữa, có những người đã bị tử hình vì quyết liệt chống lại bọn quỷ việt cộng, cũng có những người đã liều chết vượt ngục. Và cuối cùng hầu hết chúng ta được quốc tế can thiệp, nên việt cộng bắt buộc phải thả ra. Sau khi được thả ra, rất nhiều người đã tìm đường vượt biên, và hầu hết đã được xuất ngoại trong chương trình ODP của Hoa Kỳ, được khởi xướng do lương tâm của họ cắn rứt vì đã phản bội lại đồng minh Việt Nam Cộng Hòa.

Cũng từ ngày chúng ta may mắn đã thoát được ngục tù của việt cộng, dung thân nơi xứ người, thì lại trớ trêu thay, đã có một số người trong tập thể quân nhân VNCH bị biến thể. Và vì vậy, tôi mới có những lời nầy để gởi đến các anh bị biến thể đó.

Thưa các anh, tôi chẳng phải là một người học cao hiểu rộng, chẳng phải là một người chỉ huy cao cấp trong quá khứ, chẳng có tham vọng chính trường hay tiền tài danh vọng. Tôi chỉ là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, muốn gìn giữ lấy lời đã thề khi trở thành một người lính: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.

Kỳ vọng của tôi cũng giống như hầu hết Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa, dù giờ đây tuổi đã hoàng hôn, nhưng mong được góp phần vào việc giải phóng quê hương thoát khỏi cái ách nô lệ của bọn người cộng sản mang danh việt cộng.

Đã là người dân Việt Nam Cộng Hòa, ai mà không biết cái tàn ác, cái bản chất tự tôn tự đại và ngoan cố lật lọng của chế độ và con người cộng sản. Chúng ta là quân nhân, chúng ta lại còn biết tường tận hơn về cái dã tâm và lòng thù hận của việt cộng đối với người Việt Quốc Gia. Bằng chứng rõ ràng nhứt về lòng đố kỵ và thù hận của việt cộng, là con cháu của chúng ta, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có đứa nào không bị khó dễ trong trường học vì lý lịch ba đời là con cháu của “ngụy” ? Có đứa nào được vào đại học vì cha anh của chúng là “ngụy” ? Tìm công ăn việc làm để nuôi sống con em rất khó khăn, khi có thân nhân là “tù cải tạo” ?... Còn nhiều lắm, những điều mà vì đó, chúng ta không thể sống được trong quê hương xứ sở của mình, phải chấp nhận cuộc sống tha phương.

Đã có hiểu biết và kinh nghiệm sống trong xã hội của chế độ việt cộng, tại sao không lấy đó làm kim chỉ nam cho tư tưởng và hành động của mình ? Còn tự gạt mình, vấn vương với khẩu hiệu ru ngủ “hòa hợp và hòa giải” với việt cộng ?

Trong số các anh đã có người tàn tệ đến độ tự cho mình và đồng đội của mình là “ngụy”; Chấp nhận lối tuyên truyền xảo trá của việt cộng, cho Việt Nam Cộng Hòa là tay sai của đế quốc Mỹ, không có chánh nghĩa; Ngược lại cho rằng tên Hồ Chí Minh, tên tội đồ của dân tộc Việt Nam là có công, là lãnh tụ vĩ đại….

Cũng có một số người theo hùa với những tên hoạt đầu chánh trị, thành lập đảng phái ngụy danh là Quốc Gia, bợ đỡ bọn chúa trùm đảng cướp việt cộng, muốn giúp chúng kéo dài chế độ gian manh, bán nước cầu vinh, đem Tổ Quốc mình giao trọn cho bọn hán cẩu để có “một chút (xú) danh gì với núi sông”.

Các anh đã tự gạt mình để có một ảo vọng, cải sửa lại bọn người ngoan cố việt cộng, mong họ nghĩ lại mà chấp nhận và chia xẻ quyền cai trị nước với người không phải là đảng viên cộng sản, để đem quốc gia tiến đến tự do dân chủ. Các anh đã quên rằng, bất cứ tên cộng sản nào cũng cho rằng đảng của chúng là quang vinh trường trị, là đỉnh cao của trí tuệ loài người, thì làm sao chúng chấp nhận người không thuộc đảng của chúng. Hơn nữa có quyền lực trong tay, chúng có ưu tiên đè đầu cởi cổ thiên hạ, có độc quyền vinh thân phì gia, dể gì chúng chịu san xẻ cho ai.

Có một nhóm người tự đề cao mình đã từng là thượng cấp trong quân đội, muốn muôn người phải nghe theo lịnh của họ, bày vẽ những chủ thuyết tham gia cùng với địch để lung lạc chúng, uốn nắn chúng theo mình mà sửa đổi chế độ, từ độc quyền độc đảng thành đa nguyên đa đảng. Đối với đảng cộng sản, hơn nữa là đảng việt cộng, cái chủ thuyết nầy xem ra là ngu ngơ khờ dại. Nhóm người nầy không biết học lịch sử của đảng và chế độ cộng sản. Đối với chúng chỉ có một trường họp: Bị lật đổ bởi lòng dân, hay còn tiếp tục dùng bạo lực gây tội ác, để đi đến chủ nghĩa xã hội, mà chúng không thể biết hoặc thấy đựợc, và cuối cùng cũng bị tiêu diệt mà thôi.

Cộng sản không thể nào thay đổi hay thỏa hiệp với người không cộng sản. Bằng chứng nhản tiền là chế độ cộng sản nơi xứ sở sản sinh ra nó đã lần hồi bị triệt tiêu, kéo theo sự sụp đổ của các nước cộng sản chư hầu. Nay chỉ còn lại 4 nước cũng đang dãy dụa trong cơn hấp hối.

Và còn có một số trong các anh, đã quên đi thân phận của một người, vì chế độ của việt cộng mà phải sống kiếp tha phương, lại thường xuyên trở về nước, với lý do cưỡng cầu, là thăm lại người thân, thăm lại quê hương. Tại sao các anh không chịu hiểu rằng, khi trở về nước, là các anh đã mặc nhiên chấp nhận cái chế độ hiện thời. Các anh đã quên đi tại sao các anh đã bị bọn chúng bắt bỏ tù cải tạo, lý do gì mà các anh được mang danh là người tỵ nạn cộng sản. Các anh đã đánh mất tư cách của một quân nhân, đã phản bội lại lời thề của mình, vì các anh sau khi đã về nước trở ra hải ngoại, đã có những lời nói, tiếp tay cho luận điệu tuyên truyền xảo trá của việt cộng, là quê hương mình bây giờ tiến bộ lắm, đi du lịch vui lắm, phố xá, chợ búa bây giờ tân tiến lắm, vân vân… Các anh vì một lúc hứng chí nào đó, đã tự bịt mắt bịt tai mình, không chịu nhìn rõ tận tường thật tế đời sống cùng khổ nghèo nàn mất tự do của đa số người dân Việt Nam. Các anh chỉ tìm đến những nơi ăn chơi sang trọng, các anh nào có thấy được nếp sống của nông dân, của những người buôn gánh bán bưng, của giới thợ thuyền bị chèn ép…, mà đã vội nói những câu nói không giống những điều trung thực của người quân nhân khi quan sát, trong bài học “lính gác giặc” khi mới bước chân vào quân ngũ. Các anh có người khi về Việt Nam, vì một chút lợi lộc nào đó, hay vì phạm một lỗi lầm tày trời nào đó, đã bị việt cộng ép buộc hoặc dụ dỗ, các anh phải làm tay sai cho chúng khi trở ra hải ngoại. Các anh đã có những hành động, những lời nói nối giáo cho giặc, làm phương hại đến công cuộc diệt cộng cứu nước của người Việt Nam.

Tóm lại, các anh trong những nhóm người đã kể ở trên, đã có những lời phát ngôn, những hành động “đâm sau lưng anh em đồng đội”, đã đánh mất đi dũng khí của một người quân nhân. Các anh không còn xứng đáng mang danh là người Quân Nhân Việt Nam Cộng Hòa.

Qua những lời nói nầy, có thể tôi sẽ bị các anh sỉ vả, nguyền rủa, và cho rằng tôi là một tên vô danh tiểu tốt, dám dạy đời các anh. Nhưng không hề gì, bởi vì tôi coi những lời chửi rủa đó, giống như những lời của những tên việt cộng đã từng chửi bới anh em quân nhân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, từ ngày chúng tôi bị ép uổng phải bại trận, phải bị giam cầm khi chúng vừa cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa.

Những lời trên đây, không phải tôi mong muốn các anh sửa đổi, bởi vì nói theo lối bình dân: các anh đã hết thuốc chửa rồi ! Tôi chỉ mong sao các anh hãy dừng lại, hãy nghĩ đến sĩ diện và danh dự của các con cháu các anh sau nầy, đừng để chúng phải mang tiếng là con cháu của kẻ phản bội anh em đồng đội, phản bội Tổ Quốc, tội nghiệp cho chúng phải gánh lấy món nợ mất danh dự của cha ông.

Trân trọng.
Lão Ngoan Đồng

39 NĂM QUỐC HẬN 30-04-1975-2014





Monday, April 21, 2014

39 năm nhìn lại - Nguyễn Quý Đại

39 năm nhìn lại
Nguyễn Quý Đại

Xuân về cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, rộn rã tiếng chim ca dưới bầu trời xanh với những áng mây bay như dải lụa trắng. Trên nền cỏ xanh mượt điểm những cánh hoa màu tím nhạt, hoa anh đào màu hồng nở rộ tăng thêm nét đẹp buổi bình minh, có nắng hanh vàng, nhưng không khí còn se lạnh. Mùa xuân về gợi chúng ta nhớ lại biến cố 39 năm trước chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn khốc liệt nhất. Ngày 14/3/1975 quân đội VNCH triệt thoái Cao Nguyên, máu của quân dân miền Nam đã đổ ra trên tỉnh lộ 7 về đến Nha Trang. Ðà Nẵng di tản chiến thuật ngày 29/3 hàng trăm ngàn người hãi hùng lên các tàu hải quân di tản hy vọng tìm được tự do… cho đến ngày 30/4 Việt Nam Cộng Hòa bị bức.

Chiến tranh Việt Nam kéo dài hơn 2 thập niên thực chất chỉ là cuộc tàn sát gần 4 triệu đồng bào ở cả hai miền Nam Bắc, do đảng cộng sản quốc tế hỗ trợ CSVN nhân danh “kháng chiến giành độc lập” và “giải phóng dân tộc “ “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam”. (theo kế hoạch của Mao: đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng để mở rộng đế quốc Tàu đỏ), Cố tổng bí thư Lê Duẩn (1907-†1986) tuyên bố, “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc“ cuộc chiến đã gây ra tang tóc lầm than khói lửa. CSVN áp dụng chủ thuyết Mác xít, các lãnh tụ độc tài như Stalin, Mao Zedong (1893-†1976) Lénin được tôn thờ. Bộ Chính trị đảng cộng sản giữ độc quyền “kinh thánh” Marxismus, trong sinh hoạt chính trị và kinh tế qua từng giai đoạn. Chủ trương của cộng sản là “chính trị đảng và xã hội không được phân biệt. Nhà nước là định chế duy nhất của xã hội”. Người công dân không có quyền nào ngoài bổn phận làm theo ý của đảng cầm quyền. Giai đoạn đầu chiếm Sài Gòn đảng CS mù quáng chủ trương “bài trừ văn hoá”, thư viện Quốc Gia kho tàng sách vở tài liệu quý giá của VNCH bị “cán bộ” đem bán giấy vụn. Văn hóa phẩm như nhạc, các tủ sách gia đình bị tịch thu giống như thời Tần Thủy Hoàng (246-209) kết thúc thời Chiến quốc, đốt sách chôn học trò, bài trừ Nho giáo.

Sau ngày 30/04/1975 cộng sản Việt Nam luôn tự hào “chiến thắng hai Ðế quốc lớn”, thi hành chính sách “tập trung cải tạo” những người làm việc với chế độ cũ. Ðảng chủ trương cướp đoạt tài sản miền Nam qua các cuộc “cải cách công thương nghiệp”, đổi tiền, đánh tư sản, đưa đi kinh tế mới…

Đổi tiền lần đầu người miền Nam dù có nhiều tiền cũng chỉ được phép đổi tối đa 200 đồng tiền mới “Hồ”, hối suất tính như sau: 500 đồng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam (VNCH) đổi lấy 1 đồng tiền Hồ, vào thời điểm đó 1.USD = 118 đồng VNCH. Nhiều người có tiền trong các trương mục Ngân hàng trước 1975 đều mất hết, nhà cầm quyền không cho họ lấy tiền ra, ngược lại nếu trước đó có nợ thì phải tiếp tục trả! Người buôn bán có tiền không đổi được trở thành trắng tay phải tự tử… Đổi tiền lần thứ 2 và “đánh tư sản”, “cán bộ” cộng sản tịch thu tài sản đuổi người đi kinh tế mới! thành phần “cán bộ” cộng sản bỗng dưng giàu hơn, có nhà có xe…

Ðời sống người dân miền Nam từ phồn thịnh đi xuống tận cùng khổ đau nghèo khó. Nhiều người bị “tập trung cải tạo” đã chết trong núi rừng khắc nghiệt miền Bắc, hoặc trong các trại tù. Hàng triệu người liều chết trên những chiếc thuyền con vượt biển Đông bất chấp phong ba bão tố, hải tặc cướp của, hảm hiếp, giết người, hay bất chấp gian khổ vượt thoát bằng đường bộ đi tìm cái sống trong cái chết, để đổi lấy hai chữ Tự Do. CSVN làm xã hội chậm tiến, không có Tự do, Dân chủ, Kinh tế không phát triển trong lúc các nước Á Châu vươn lên trên mọi lãnh vực vv.. Theo triết gia Kim Định:

”Ngày 30/4/1975 không chỉ là cái tang của người Việt Nam, mà còn có thể nói là cái tang chung của nhân loại ……”. Lời của cố T.T Ronald Reagan (1911-†2004) “ Ending a conflict is not so simple, not just calling it off and comming home. Because the price for that kind of peace could be a thousand years of darkness for generation's Viet Nam borned ” ... Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong, bởi vì cái giá phải trả cho loại hòa bình đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Viêt Nam về sau.”

“Thiên đường” cộng sản tại Nga cùng các nước Ðông Âu sụp đổ từ năm 1989. Việt Nam bang giao với khối cộng sản trở thành ngõ cụt, nên phải mở cửa “đổi mới” nghiêng về khối Tây phương để khỏi bị loại ra khỏi thế giới văn minh. Nhưng vẫn giữ chính sách cai trị đóng khung giáo điều của chủ thuyết cộng sản gian ác, lỗi thời.

Các tôn giáo đều bị đàn áp, CSVN thành lập Giáo Hội quốc doanh, bỏ tù các người yêu nước lên tiếng chỉ trích chế độ đòi hỏi tự do dân chủ và nhân quyền. Nhiều sách vở, bút ký viết về cuộc đổi đời sau năm 1975 trong hơn một phần ba Thế kỷ đủ để mọi người nhìn lại những thương đau còn in hằn trong tâm khảm của dân tộc Việt Nam!

Nhà cầm quyền CSVN từng kết án những người tỵ nạn cộng sản là “thành phần phản quốc, bỏ nước ra đi vì kinh tế, bọn làm tay sai…”. Nhưng rồi vì quyền lợi đối với khối người Việt tỵ nạn từ đó họ đổi cách gọi “Việt Kiều là những khúc ruột ngàn dặm”, khuyến khích hơn 3 triệu người Việt hải ngoại về thăm nhà, hàng năm gởi tiền tỷ về giúp gia đình bạn bè, làm từ thiện… Việt Nam có số ngoại tệ khổng lồ, chỉ cần in thêm tiền giấy không vàng bảo chứng để đổi lấy đô la.

Dù đất nước nối liền Nam-Bắc nhưng lòng người chưa được thống nhất! Chúng ta không muốn gợi lại lòng thù hận. Nhưng tôi nhắc lại những gì đáng quên và đáng nhớ để những người may mắn rời khỏi Việt Nam trước 75, hoặc những ai không sống tại miền Nam, chưa thấy được hoàn cảnh ngày đổi đời, nhất là các thế hệ con cháu sinh sau 1975 trong, cũng như ngoài nước biết bản chất, chính sách độc tài của chế độ cộng sản dù họ luôn tuyên truyền đánh bóng. Người Việt tỵ nạn trân quý cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, bởi vì cờ Vàng là linh hồn cho tự do, dân chủ của người Việt hải ngoại. Lá cờ này mãi vẫn là một biểu tượng của tự do và niềm hy vọng cho một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn.

Tổ tiên chúng ta đã hy sinh biết bao xương máu để bảo vệ đất nước “tấc đất tấc vàng” mà nay đảng CSVN cắt lãnh hải, biên giới dâng cho Trung cộng, hành động bán nước qua các Hiệp ước giữa hai đảng cộng sản Việt-Hoa, che giấu không công báo cho Quốc dân biết.. Ải Nam Quan địa đầu tỉnh Lạng Sơn nhiều thế kỷ trước ngăn chận quân Tàu muốn tiến về phương nam, đều bị chận đứng nơi đây. Thác Bản Giốc ở Cao Bằng đẹp với cảnh thiên nhiên hùng vĩ, Tục Lãm nay đã mất một phần…. Trình trạng cho ngoại quốc thuê rừng, thuê đất, khai thác Bauxite làm ảnh hưởng môi sinh, thiệt hại đến an ninh quốc gia, nhà cầm quyền vay mượn nợ các quốc gia trên thế giới là gánh nặng cho con cháu không biết đến mấy đời mới trả xong ? Trong khi biển đảo, tài nguyên phong phú đã bị cán bộ CS bán chia nhau tiền đầy túi….

Nhìn lại Hiệp định Paris ký giữa Hà Nội và Ngoại trưởng Kissinger ngày 27/01/1973. Hoa Kỳ rút quân trong danh dự. Bắc Việt lợi dụng cơ hội xua quân xâm lăng và cưỡng chiếm miền Nam. Quốc Hội Hoa Kỳ cắt mọi viện trợ Quân sự và Kinh tế cho miền Nam (VNCH) tài khóa 1974-1975, trong lúc Bắc Việt nhận viện trợ vũ khí tối đa của khối cộng sản Nga-Tàu và Ðông Âu.

Việt Nam Cộng Hòa bị xóa tên khi tân T.T Dương Văn Minh (1916 -†2001) tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn lúc 11 giờ ngày 30.4.75. Ðường phố Sài Gòn u buồn, vắng lặng... tiếng đại bác 130 đã ngưng, trên đường phố còn xác chết rải rác qua các cuộc giao tranh hay những toán quân nhân tự tử vì phẩn uất khi nghe lệnh đầu hàng. Xe tăng T54, “bộ đội” CS được các thành phần nằm vùng, mặc thường phục, cổ đeo cờ xanh đỏ sao vàng hướng dẫn chạy về dinh Ðộc lập. Khắp nơi súng đạn, giày dép, quần áo, đủ màu sắc của quân đội VNCH cởi bỏ ngổn ngang... Họ uất hận những người chủ bại phản bội, bọn hèn tướng bỏ chạy trước mà còn lừa bịp ra lệnh “tử thủ chiến đấu đến giây phút cuối cùng”.

Những chiến sĩ vô danh tử trận không có quan tài chôn cất. Các thương binh của quân đội VN CH bị đuổi ra khỏi các quân y viện, lê lết trên đường phố vết thương còn rớm máu, nhìn họ lòng tôi chùng xuống, nước mắt lưng tròng, nỗi đau khó quên của người chiến bại và lo sợ như cảnh đấu tố trong đợt “cải cách ruộng đất” lại tiếp tục xảy ra! Người Sài Gòn ngỡ ngàng, nỗi lo âu dồn dập, ngổn ngang, tâm tư buồn bã trước nghịch cảnh đổi đời, lạnh lùng nhìn đoàn quân “chiến thắng” trên đường phố, với chiếc mũ cối và đôi dép râu xa lạ. Chỉ có đám “Cán bộ” nằm vùng xách động “hoan hô chiến thắng...

Sinh hoạt Sài Gòn trước 1975 với chế độ tự do, sinh viên, học sinh xuống đường biểu tình. Các cán bộ nằm vùng đội lốt tôn giáo lợi dụng tự do dân chủ để làm chính trị phản chiến. ”Thành phần thứ Ba Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, Ký giả ăn mày...” Tuổi trẻ vào thời đó bị ảnh hưởng thuyết hiện sinh của Heming Way, Fitgerald, nhất là của J. Paul Sartre (1905-†1980) và ảnh hưởng làng sóng phản chiến xuất phát từ đại học Harward Hoa Kỳ, các cuộc biểu tình tại Berlin Ðức. Sinh viên học sinh bị lôi cuốn vào “phong trào tranh đấu” xuống đường. Sài Gòn vui chơi hát nhạc phản chiến trong lúc ngoài chiến trường Quân đội chiến đấu gian khổ, bị thương hy sinh để bảo vệ hai chử Tự Do tại miền Nam! 39 năm nhìn lại Huế-Sài Gòn-Hà Nội có những cuộc xuống đường nào không? Một số người yêu nước biểu tình chống Trung Cộng đều bị nhà cầm quyền đàn áp, đánh đập không nương tay, bị kết án bỏ tù, ghép tội làm mất trật tự công cộng, hay âm mưu lật đổ chế độ, v vv

“Ni sư khất sĩ” Huỳnh Liên (Nguyễn thị Trừ 1923-†1987) “TT” Thích Trí Quang trụ trì Chùa Ấn Quang... từng xách động tôn giáo xuống đường biểu tình phản chiến. Sau ngày 30/4/75 họ không còn tự do để đứng lên đòi quyền sống cho người miền Nam, các Chùa, nhà Thờ bị phong tỏa, tài sản của Giáo Hội bị tịch thu, tòa soạn các báo bị đóng cửa không có Ký giả nào phản đối? hay đi ăn mày?

Chương trình giáo dục miền Nam tự do, nhân bản. Không có học thuyết nào gây hận thù. Học sinh, sinh viên, được hoản dịch theo học đại học. Tu sĩ, con độc nhất trong gia đình, được miễn thi hành quân dịch. Sinh viên du học đến các nước Tây phương nếu đủ điều kiện: tự túc, hay học bổng không phân biệt lý lịch. Các Giáo Hội mở các trường Ðại học tự trị, Ðại học Vạn Hạnh của Phật Giáo, Ðại học Tây Ninh của Cao Ðài, Ðại học Chính trị Kinh Doanh Ðà Lạt của Công giáo, Ðại học Hòa Hảo ở Long Xuyên. Còn một số Ðại học tư như: Ðại học Y khoa Minh Ðức, Tri Hành, Phương Nam vv. Nhìn chung các Ðại học được hưởng mọi quy chế như Ðại học công lập: Sài Gòn, Huế, Ðà Nẵng, chỉ khác nhau sinh viên học trường tư phải đóng tiền học phí.

Các đảng phái như Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Tân Ðại Việt, Dân Xã Ðảng, Ðảng Công Nông..vv sinh hoạt công khai đối lập chính quyền. Các Tôn giáo đều có đại diện Dân biểu, Nghị sĩ, tham gia chính quyền.
Trong lúc tại miền Bắc chỉ có một đảng cộng sản cai trị. Miền Nam không đói khổ như miền Bắc, nhưng CS tuyên truyền rằng: “miền Nam nghèo khổ bị bóc lột, hột gạo cắn làm tư chia cho miền Nam”. Các “Cán bộ tập kết” trở về xách theo quần áo cũ, chén đất về cho gia đình. Trên đường về Nam họ nhìn thấy sự thật! “đừng tin những gì CS nói..”

Thời chống Tây miền Nam có quan Ðại thần Phan thanh Giản (1796-†1867) tuyệt thực 17 ngày phản đối và uống thuốc độc tự tử vào ngày 04.08.1867 khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Thế hệ năm 1975 tướng Nguyễn Khoa Nam tại Cần thơ tự bắn vào đầu không chịu đầu hàng, tướng Trần văn Hai uống thuốc độc tại bộ chỉ huy căn cứ Ðồng Tâm, các tướng Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ cùng nhiều quân nhân đã tự tử không chấp nhận chế độ cộng sản... Hình ảnh xúc động nhất Trung tá Nguyễn Văn Long CSQG tự sát dưới bức tượng trước Quốc hội. Sài Gòn mất tên như nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết được phổ nhạc:

“Sài gòn ơi! ta mất người như người đã mất tên, mất từng con phố đổi tên đường, khi hẹn nhau đã lạc lối tìm.”

Miền Nam là vựa lúa, trái cây ngon nhưng dân Sài gòn phải ăn hột bo bo thức ăn dành cho ngựa vì đảng CS chiếm đoạt vơ vét trả nợ cho đảng CS anh em. Các bệnh viện sau 1975 cấp thuốc dân tộc, như loại cây Xuyên tam liên thay thế thuốc trụ sinh, các Y tá cách mạng lên làm bác sĩ Giám đốc, không biết dùng thuốcTây, nên ghi thuốc bào chế dân tộc. Chợ trời mọc lên như nấm, các chợ quần áo cũ, đồng hồ, quạt máy, Radio nhạc Cassette, Tivi, máy may, vàng, hột xoàn, đô la, tủ bàn ghế, xe đạp thuốc tây... Các loại hàng nầy nhiều gia đình không có tiền phải bán dần để sống. Con buôn mua về tân trang xi, sơn đánh bóng.. Khách hàng là những cán bộ, bộ đội miền Bắc. Trên quốc lộ I hàng trăm đoàn xe bộ đội, vận tải quốc doanh của CS chuyên chở đủ thứ vật dụng, hàng hóa từ Nam ra Bắc. Nhiều người đã nói “cướp đêm là giặc cướp ngày là quan” những tấn vàng và ngoại tệ trong Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam chở về Hà Nội, số vàng ấy đi về đâu?

Các công tử Hà nội (con ông cháu cha) đến chợ Vườn chuối trên đường Phan đình Phùng, tìm các thợ cán vàng lô, (lượng vàng có hai miếng rưởi đúng tiêu chuẩn 37,4 g vàng 24 K). Nhưng các chàng nầy mướn thợ làm vàng 2 da (phần trong hợp chất kim loại, ngoài bọc lớp mỏng bằng vàng thật 24) nếu khách hàng không rành khó có thể phân biệt được. Họ đem về đánh tráo vàng trong kho của nhà nước? Ðây là vụ biển thủ lớn có tổ chức, của những giai cấp quyền thế trung ương đảng CSVN.

Những tà áo dài thước tha của Sài Gòn biến mất, chỉ thấy toàn quần đen áo bà ba, đàn ông mặc áo bỏ ra ngoài đi xe đạp, xe gắn máy chỉ dành cho cán bộ họ có thẻ mua xăng. Người ta có thói quen gọi là ngày “giải phóng”. Ngày 30 tháng 4 là một biến cố lịch sử, ai giải phóng ai? Khi hàng triệu người miền Nam phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Đời sống xã hội bị đảo lộn không ai có thể đưa ra con số chính xác về số phụ nữ trẻ người Việt sang Campuchia làm nghề buôn phấn bán hoa là bao nhiêu, các tỉnh của xứ Chùa Tháp đều hiện diện gái mãi dâm người Việt, trong đó có nhiều em tuổi vị thành niên, đã gây ra những tranh cãi sôi nổi trong giới nhân viên xã hội tại Campuchia, những em này là nạn nhân của việc đưa lậu người qua biên giới. Phẩm giá đàn bà Việt Nam không được tôn trọng, các chợ rao tìm chồng ngoại quốc, các thiếu nữ ngồi chờ các anh chàng ngoại quốc: luống tuổi ế vợ, quê mùa ít học.. từ Ðài Loan, Ðại Hàn.. đến Việt Nam tìm vợ, họ chỉ cần bỏ vài ngàn đô la có được cô vợ trẻ đẹp đem về bản xứ phục vụ... đôi khi bị đánh đập phải nhảy lầu tự tử hay bị bán vào động cho các tú bà... nhưng nhà cầm quyền Việt Nam vẫn làm ngơ! xã hội ngày nay băng hoại có nhiều quán bia, cafe, các quán đèn mờ, hớt tóc... kinh doanh về tình dục, tuổi trẻ tự do luyến ái phá thai bừa bải, trong thời gian qua tại Singapor, Mã Lai… xuất hiện nhiều đàn bà Việt Nam lợi dụng là du lịch sang đó để buôn phấn bán hoa, đứng đường đón khách. Đến Nhật ăn cắp mỹ phẩm đắt tiền có nhiều shopping để bản cấm người Việt vào, đã làm xấu hổ cho cả dân tộc Việt Nam.

Bệnh Aids truyền nhiễm HIV , Xì ke ma tuý... Bộ Y tế Việt Nam báo động hiện tượng phá thai ngày càng nhiều ở lứa tuổi vị thành niên, chiếm hết một phần ba trong tổng số trên 400.000 trường hợp phá thai “được ghi nhận chính thức” ở Việt Nam hằng năm. Nhưng con số thật sẽ cao hơn nhiều vì đa số gái vị thành niên, chưa lập gia đình khi có thai thường giấu chuyện mang thai của mình và đi phá ở những cơ sở phá thai tư nhân.

Các quốc gia trên thế giới xuất cảng các loại hàng tiểu, công thương nghiệp, nhưng ngược lại Việt Nam xuất cảng người đi lao động, trình trạng mua bán nô lệ mới ngày nay được áp dụng tại Việt Nam! dù Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ ông Lincoln Abraham (1809-†1865) giải phóng chế độ nô lệ từ năm 1862. Hiện tượng chất xám bị mua, các nước Tây Phương cấp học bổng cho một số sinh viên giỏi tại các Ðại học Việt Nam ra nước ngoài làm luận án cao học hay tiến sĩ, cũng như những sinh viên du học tại các nước Ðông Âu, khi xong học trình mấy ai về nước phục vụ! Bởi vì họ thấy đời sống Tây phương tiến bộ tự do, ai giỏi thì có việc tốt không cần phải vào đảng CS để có việc làm. Theo thống kê của Bộ Khoa học - Công nghệ (KH-CN), cả nước có trên 24.000 tiến sĩ, hơn 100.000 thạc sĩ. Số giáo sư, tiến sĩ VN nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có trường ĐH Việt Nam nào được đứng trong bảng xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới. Lý do các trường đại học VN đào tạo sinh viên không đúng tiêu chuẩn và trình độ chuyên môn, có nhiều trường hợp bằng giả, bằng dỏm, mua bán bằng cấp “hữu danh vô thực”. Trình độ giáo dục chênh lệt, một số cán bộ đảng cộng sản có nhiều bằng đại học cử nhân, tiến sĩ nhờ học bổ túc văn hóa. Người ta nói “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”.. Thế hệ trẻ lớn lên mỗi ngày mất hy vọng thiếu tự tin, dù học giỏi ra trường không thế lực, không có tiền hối lộ sẽ không có việc làm! không biết tương lai sẽ đi về đâu? Bằng cấp, cũng giống như tiền của ngân hàng VN phát hành chỉ sử dụng trong nước ra nước ngoài không có giá trị.

Việt Nam thiếu chuyên viên kỹ thuật trầm trọng! Thời chiến quốc Lưu Bị muốn khôi phục nhà Hán phải nhiều lần đến mời Khổng Minh Gia Các Lượng ra giúp nước. Nhà cầm quyền Việt Nam không biết trọng dụng trí thức, khoa học kỹ thuật để họ phục vụ đất nước, chỉ biết kết bè phái đưa thân nhân, gia đình vào giữ những chức vụ quan trọng để vinh thân phì gia … Nhà cầm quyền không xây dựng thêm bệnh viện công để phục vụ cho dân, hay những trường Trung và Ðại học công lập đúng tiêu chuẩn, mở rộng hệ thống giáo dục theo các nước tiên tiến của thế giới, ngược lại phát triển những khu ăn chơi hưởng thụ, lãng phí tài nguyên quốc gia. Nạn lạm phát gia tăng hàng năm từ 10% đến 20%, vật giá leo thang đời sống người dân nghèo càng khốn khổ hơn. Thức ăn, nước uống độc hại do các hóa chất từ Tàu tràn ngập thị trường, bọn lái buôn Tàu phá hoại kinh tế Việt Nam như các trường hợp lường gạt: mua rể tiêu, dây khoai lang, mua chân trâu, đuôi bò, nuôi đỉa, ốc bưu vàng… Người nông dân không ý thức ham tiền bị lừa. Nhà cầm quyền không có hành động ngăn ngừa thủ đoạn đê hèn của bọn lái buôn đó. Công an không kiểm soát, bắt trục xuất là một hành động đồng lõa ngậm miệng ăn tiền của gian thương.

Tại Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc họp ở Genèva Thụy Sĩ bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ phổ biến bản phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền trên thế giới, nói rằng CSVN vẫn là một trong những nước ở Đông Nam Á, tiếp tục đàn áp nhân quyền nghiêm trọng, không có tự do báo chí… Việt Nam là nước ngăn chận tự do báo chí đứng thứ 174 / 179 các quốc gia còn độc tài. Những người bất đồng chính kiến đấu tranh bất bạo động cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền đều bị cầm tù. Trên lý thuyết việc bảo vệ các quyền tự do công dân về mặt luật pháp của Việt Nam. Điều 25 của Hiến Pháp 2013 của Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin, tôn trọng những quyền hội họp, lập hội, biểu tình. Trên thực tế, công dân Việt Nam không có những quyền tự do trên. Vì vi phạm nhân quyền VN khó gia nhập theo Hiệp ước thương mại Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP).

Chúng ta may mắn vượt thoát khỏi địa ngục có thật sau 30/4/75. Thời gian trôi qua 39 năm xã hội Việt Nam vẫn sống dưới chế độ độc tài, tham nhũng đảng viên càng ngày càng giàu hơn, gởi con cháu đi du học sung sướng họ không quan tâm tới người khác, sống ích kỷ, thủ lợi xem trọng vật chất, không cần để ý đến phát triển đất nước, “Thượng bất chính hạ tất loạn” mạnh ai nấy sống, có tiền đầy túi là được, luân lý, đạo đức xã hội suy đồi…. Cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới lên tiếng ủng hộ những nhà dân chủ cũng như người dân oan trong nước bị áp bức, bị chiếm đoạt tài sản, phải đi khiếu kiện nhiều năm không được giải quyết còn bị đánh đập đàn áp. Phần lớn người Việt bỏ nước ra đi có cuộc sống ổn định, an cư lạc nghiệp, con cái có địa vị công việc như người bản xứ. Nhiều người về hưu hưởng tiền hưu có bảo hiểm xã hội đời sống an nhàng, không ai nuôi tham vọng trở về nước tranh giành địa vị. CSVN không biết canh tân đất nước mà luôn lo sợ rêu rao “diễn biến hòa bình hay thế lực thù địch…”

Nhiều người về thăm lại quê hương, mỗi người một hoàn cảnh riêng. Nhưng nên nhìn lại những ngày khó quên của 30/4/1975 , tại sao chúng ta rời Việt Nam làm kiếp người lưu vong? Dù ngày nay Việt Nam có đổi mới, nhưng địa ngục vẫn còn đó, nếu cờ đỏ sao vàng còn tung bay trên vùng trời Việt Nam! Là còn cảnh chậm tiến, lạc hậu do một đảng CS độc quyền cai trị “cán bộ” thiếu văn hóa bất lực, chỉ biết tham nhũng và hưởng thụ… Việt Nam bây giờ cần ngay chính những công dân đang sinh sống trong nước lên tiếng và tranh đấu cho lẽ phải. Bởi lẽ bên ngoài dù có ủng hộ hay hoạt động đến đâu cũng không mấy tạo được sự thay đổi bằng chính những người trong nước.”

Sự sụp đổ của chế độ CS Đông Âu là bài học cho người dân nhiều nước còn bị cai trị dưới chế độ độc tài chậm tiến, trong đó có Cộng sản Việt Nam

Nguyễn Quý Đại


Khánh Ly một kiếp cầm ca

Dưới đây là bài đăng lại từ báo CAND

Bộ mặt phản bội, bà già 7 bó Khánh Ly
sẽ đi Việt Nam hát cho Việt Cộng nghe
vào tháng 5 tới tại Hà Nội.
Khánh Ly hát hay, Khánh Ly nổi tiếng, nhưng cuộc đời thì sao? Câu trả lời là: Tài hoa cũng lắm, đa đoan cũng nhiều! Tài hoa thì do thiên phú. Còn đa đoan thì hầu như do Khánh Ly chọn lựa.
Khánh Ly là nghệ danh được ghép từ tên của hai nhân vật lừng lẫy trong truyện “Đông Chu Liệt Quốc”: Khánh Kỵ và Yêu Ly. Nhưng xem ra, cách sống và xử sự của Khánh Ly chẳng giống chút nào với hai con người khí khái này.

Chào đời tại Hà Nội vào năm đói Ất Dậu (1945), tên cúng cơm của Khánh Ly là Nguyễn Thị Lệ Mai, bạn bè thương gọi là “Mai Đen”. Được trời ban cho một chất giọng đặc biệt, 9 tuổi Khánh Ly đã bước lên sân khấu tham gia một cuộc thi ca hát với ca khúc “Ngây thơ”, nhưng chẳng nhận được một thứ hạng đáng kể nào cả. Năm 1956, sau khi theo gia đình vào định cư tại Đà Lạt, Khánh Ly đã tham gia cuộc thi hát nhi đồng, do Đài phát thanh Pháp Á tổ chức tại Sài Gòn. Với nhạc phẩm “Ngày trở về” của Phạm Duy, Khánh Ly đoạt được giải nhì. Mãi đến năm 1962, Khánh Ly mới thật sự bước vào đời ca hát chuyên nghiệp tại phòng trà Anh Vũ trên đường Bùi Viện, Sài Gòn. Chưa có tiếng tăm gì, khó cạnh tranh, chỉ một thời gian ngắn, Khánh Ly phải quay về Đà Lại hát cho một vài hộp đêm tại đó.

Mãi đến năm 1967, Khánh Ly mới thật sự nổi tiếng. Cô nhanh chóng chinh phục được người nghe bằng dòng nhạc của Trịnh Công Sơn, trở thành một trong ba giọng ca nữ hàng đầu của Sài Gòn thời đó, theo thứ tự là Thái Thanh – Lệ Thu – Khánh Ly. Năm 1968, cô đứng ra thành lập hội quán Cây Tre ở số 2bis Đinh Tiên Hoàng, Đakao, thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và thanh niên, sinh viên, học sinh tìm đến.

Hội quán Cây Tre tuy rất nổi tiếng nhưng không có hiệu quả về kinh tế. Đến năm 1972, Khánh Ly trở thành bà chủ phòng trà cùng tên (Khánh Ly) tại số 12 – 14 đường Tự Do (Đồng Khởi). Nhưng tiền của kiếm được bao nhiêu, hầu như Khánh Ly đều nướng sạch vào những canh bạc thâu đêm suốt sáng, thường xuyên tổ chức tại phòng trà cũng là nơi ở của mình. Tại địa chỉ này, Khánh Ly còn tập họp một số “bằng hữu” toàn là những tay anh chị khét tiếng trong đám sĩ quan người nhái, có mặt hằng đêm, như: Phong Nhái, Chánh Râu, Chất Lựu Đạn… Đám giang hồ áo lính này coi phòng trà Khánh Ly như trụ sở, từ đó bung ra đi thu tiền bảo kê hầu hết các vũ trường, snack bar, night club khắp trung tâm Sài Gòn, rồi quay về “trụ sở Khánh Ly” chia chác chiến lợi phẩm. Hai món cờ bạc mà Khánh Ly say mê nhất là xì phé và xập xám. Dường như câu nói cửa miệng của dân đổ bác: “Tiền xâu, đánh đâu, thua đó” đã hoàn toàn ứng nghiệm vào cuộc đỏ đen của Khánh Ly.

Tài danh có thừa, nhưng đời ca hát của Khánh Ly không chỉ toàn vinh quang, mà cũng có khi lắm nỗi nhục nhằn. Năm 1973, Khánh Ly tổ chức một chương trình ca nhạc tại Đà Lạt. Nhiều ngày trước đó, người ta thấy trên những băng rôn quảng cáo có nhiều tên tuổi ca sĩ nổi tiếng. Thế là khán giả nô nức đến xem, vé đã được bán sạch sành sanh. Vậy mà xuyên suốt chương trình, chỉ có Khánh Ly và Ngọc Minh thay nhau bao hết. Ngoài ra không có một ca sĩ nào khác. Cho là mình bị lừa, khán giả bắt đầu la ó, rồi tràn lên sân khấu đập phá. Khánh Ly phải chui ván sàn thoát thân. Ngày hôm sau, một tờ nhật báo tại Sài Gòn đã đưa tin với tựa đề giựt gân “Khánh Ly chui lỗ chó chạy trốn tại Đà Lạt”. Khánh Ly cay lắm, nhưng đành ngậm bồ hòn.

Dân văn nghệ Sài Gòn trước năm 1975, thảy đều biết rằng Khánh Ly rất kỵ Lệ Thu, chỉ vì con gà ganh nhau tiếng gáy. Dạo đó nhiều bầu sô và người làm chương trình đến mời Khánh Ly tham gia, đều bị hỏi một câu: “Có Lệ Thu không? Có bà ấy là không có tôi!”. Một lần, nhân dịp họp mặt khóa 10 trường Võ bị Đà Lạt được tổ chức tại hồ nước trong khuôn viên Tiểu đoàn 61 Pháo binh, tại Gò Vấp (nay là UBND quận Gò Vấp), người làm chương trình cố tình sắp xếp cho Lệ Thu hát mở màn và Khánh Ly hát phần sau để tránh cho hai người gặp nhau. Chẳng may, sau khi hát xong, thay vì về sớm thì Lệ Thu lại được tướng Lê Minh Đảo mời ngồi lại đến mãn tiệc. Khi đến nơi, thoáng thấy Lệ Thu, Khánh Ly lập tức bỏ hát quay về. Người làm chương trình hết lòng nài nỉ, nhưng Khánh Ly vẫn không đổi ý: “Anh nói với tôi là không có Lệ Thu, tôi mới nhận lời. Tôi đã nói trước với anh rồi, có Lệ Thu là không có tôi”.

Có một dạo, dư luận xã hội đồn ầm lên rằng, chất giọng được mệnh danh là “giọng hát ma túy” của Khánh Ly có được là do chơi thuốc phiện. Kỳ tình “Mai Đen” không hề dính líu tới ả phù dung. Nhưng một lần, Khánh Ly đi từ Sài Gòn lên Thủ Đức trên một xe du lịch với một ông cò Cảnh sát. Khi đi ngang qua lãnh địa của một ông cò khác, thuộc phe đối nghịch, xe bị chặn lại khám xét. Mở cốp xe ra thì thấy một bàn đèn để hút thuốc phiện. Tuyệt nhiên, thuốc phiện thì không thấy. Khánh Ly nhận là của mình, nhưng cho đó chỉ là vật trang trí. Vậy là hôm sau, đi đâu cũng nghe người ta bàn tán việc Khánh Ly hút xách một cách sôi nổi với những tình tiết được thêm mắm, thêm muối thật hấp dẫn.

Khánh Ly có vóc dáng mình hạc xương mai, phảng phất nét liêu trai chí dị. Khuôn mặt dễ nhìn, không thuộc loại “hồng nhan”, nhưng đường tình ái cũng rất “đa truân!”. Thuở mới thành danh, Khánh Ly gá nghĩa vợ chồng với một tay chơi, có cái biệt danh kèm theo tên cúng cơm rất ấn tượng: “Minh Đĩ”. Anh chàng này vốn con nhà giàu, có bà chị lấy chồng là một đại tá không quân. Nhờ vào tiền của và thế lực của ông anh rể, Minh Đĩ chui vào làm lính kiểng với cấp hàm trung sĩ, thuộc binh chủng không quân, để tránh ra trận. Được hai mặt con thì Khánh Ly và Minh Đĩ ca bài chia tay. Chẳng bao lâu, Khánh Ly lấy Mai Bá Trác, một Đại úy biệt kích, khi ông ta đang làm trưởng trại Lực lượng đặc biệt (LLĐB) Thiện Ngôn ở biên giới Tây Ninh. Thời đó mà được làm trưởng trại LLĐB là coi như trúng số. Dưới quyền, có từ 4 đến 5 Đại đội biệt kích quân, phần lớn là người Miên và dân tộc thiểu số. Thứ lính này không có số quân, do Mỹ trang bị và trả lương. Mỗi đại đội chỉ cần vài chục lính ma, lính kiểng là mỗi tháng, sau khi chia chác cho đàn em, trưởng trại dễ dàng đút túi cả chục cây vàng. Cứ tưởng tượng, lúc bấy giờ ông Trác đã sắm xe du lịch Mustang, để sẵn ở Sài Gòn thì đủ biết. Tháng nào, ông ta cũng về ăn chơi xả láng, tiêu tiền như nước, nên dễ dàng chinh phục được Khánh Ly.

Sống với Mai Bá Trác có một mặt con thì năm 1972, nhân một chuyến đi hát tiền đồn để úy lạo binh sĩ, Khánh Ly gặp Đỗ Hữu Tùng, Trung tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy quân lục chiến. Bị ngay một tiếng sét ái tình, dù trai đã có vợ, gái đã có chồng, họ vẫn rất say đắm nhau. Tuy là mối tình “ngoài luồng” nhưng hầu hết những ai quen biết hai người trong cuộc đều xác nhận đây là một đôi nhân tình rất xứng đôi, vừa lứa về mọi mặt. Bây giờ, Tùng đã thành người thiên cổ. Ông ta tử trận tại bãi biển Đà Nẵng năm 1975, nhưng Khánh Ly vẫn tâm sự với bạn bè thân thiết, rằng Tùng là người mà Khánh Ly yêu thương nhất đời.

Sau tháng 1975, trên bước đường di tản, định mệnh đã xui khiến Khánh Ly gặp Nguyễn Hoàng Đoan, người chồng đang sống với Khánh Ly từ đó cho đến nay. Nhiều người đã tỏ ra tiếc cho Khánh Ly, vì có một người bạn (cuối cùng) đời thuộc loại văn dốt, võ dát dù ông ta mang danh là một nhà báo của làng báo Sài Gòn cũ. Nguyễn Hoàng Đoan chỉ thật sự được nhiều người biết đến từ khi sang Mỹ và trở thành “ông Khánh Ly”.

Từ năm 1972 cho đến ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, Nguyễn Hoàng Đoan thất nghiệp. Không một tờ báo nào nhận ông ta vì khả năng viết lách thì yếu kém nhưng lại giỏi ăn tạp. Ông ta đã có vợ và 2 con gái, nhưng Nguyễn Hoàng Đoan lại sống vô trách nhiệm. Chính xác, Đoan lo thân mình còn chưa xong, lấy đâu ra để lo cho vợ con. Không chu toàn được cơm áo, Đoan cũng chẳng là chỗ dựa tinh thần cho con cái. Suốt ngày, ông ta thường xuyên có mặt chầu rìa tại sòng bài Ba Hóa ở khu vực nhà thờ Huyện Sĩ. Dần dà, ông ta tán tỉnh được cô con gái của chủ sòng bài khét tiếng này, để trở thành một “đấng trai bao”! Thời gian rảnh, Đoan thường xuyên có mặt tại hai động chứa gái hạng sang. Một ở trên đường Huỳnh Tịnh Của và một tại villa số 11, đường Đặng Đức Siêu (nay là Nam Quốc Cang) để kiếm ăn và chơi lụi.

Sang Mỹ, chẳng có nghề ngỗng gì, nên Đoan phải bám váy Khánh Ly. Việc hát xướng của Khánh Ly tại hải ngoại cũng không đều đặn, thu nhập cũng chẳng là bao, đời sống cũng khá chật vật. Nguyễn Hoàng Đoan đã “tham mưu” cho Khánh Ly cách làm mình, làm mẩy và lật lọng với các bầu show. Ai mời đi hát ở đâu đó, dù rỗi rảnh, Khánh Ly vẫn hô hoán: “Chết rồi, chị trót nhận lời hát cho một người quen, lỡ nhận tiền trước rồi!”. Nếu như đối tác tiếp tục năn nỉ, Khánh Ly sẽ dở chiêu đòi tăng giá vào giờ chót, lật bài ngửa: “Vậy thì em trả thêm cho chị chút đỉnh!”. Cô thường đồng ý tham gia chương trình để bầu show quảng cáo tên tuổi ì xèo. Kề ngày diễn, Khánh Ly đột ngột đòi tăng giá từ 3.000 lên 5.000 USD mới có mặt. Thế là bầu show phải đắng cay ngậm quả bồ hòn. Giới bầu show hải ngoại đã đặt cho Khánh Ly hai biệt hiệu rất lẫy lừng: “nữ hoàng nâng giá”, và “ca sĩ xù show”. Ngay cả nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng không được Khánh Ly nể mặt. Cay đắng đến độ, trước khi qua đời, người nhạc sĩ tài hoa này đã trăn trối với vợ con: Cấm cửa, không cho Khánh Ly đến viếng!

Tháng 5/2000, Khánh Ly có về Việt Nam thăm gia đình. Quay lại Mỹ, Nguyễn Hoàng Đoan và Khánh Ly, kẻ xướng, người họa, nửa úp, nửa mở: “Việt Nam mời tôi về hát với catse 2 triệu USD. Nhưng chắc không có chuyện đó với tôi”. Chẳng cần truy cứu hư thực, mới nghe ai cũng đã phì cười, bởi sự bịa đặt hết sức ấu trĩ của “nữ hoàng nâng giá”.

Đúng là nồi nào úp vung nấy. Đáng tiếc cho danh ca của một thời.



"Nhà cách mạng lão thành" có xưng không ? - Lão ngoan Đồng


“NHÀ CÁCH MẠNG LÃO THÀNH” CÓ XỨNG KHÔNG ?

Lão Ngoan Đồng

Trên các trang mạng, chúng ta thường gặp danh từ dài lê thê: “những nhà cách mạng lão thành”, để chỉ một số nhân vật tên tuổi nào đó, đã tận lực góp công với tên Hồ chí Minh và bầy đàn, nhân danh chủ nghĩa cộng sản, lợi dụng tình thế hỗn loạn lúc đồng minh giải giới Nhật Bổn, đã có kinh nghiệm làm “cách mạng cướp chánh quyền” năm 1945 và sau nầy, đã cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa ngày 30 tháng tư năm 1975, đẩy đất nước Việt Nam rơi xuống vực sâu hố thẳm của nghèo đói khốn cùng, sau khi đã tàn sát không thương tiếc sinh mạng của những người Việt Nam không chấp nhận chúng, không hùa theo chúng, trong đó gồm cả những trẻ thơ vô tội, những nhân tài của đất nước, những người yêu nước đã ủng hộ, đã chia cơm xẻ áo, ẩn dấu bọn chúng khi chúng gập nguy nan, trong những chiến dịch diệt cộng của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, vì lầm tin chúng trong tuyên truyền láo khoét “giải phóng dân tộc”, “giải phóng miền Nam”.

Đa số những người được, hay tự gọi là nhà cách mạng lão thành, là những người đã dầy công với đảng nhưng hết khả năng lợi dụng bị cho về vườn, hoặc vì kế hoạch của phe nầy nhóm kia, đã bị “hạ từng công tác”. Có một số trong những ông hay bà cách mạng lão thành hiện nay, đời sống vật chất tuy không đến nỗi nào, vì còn được hưởng cái “sổ hưu”, nhưng họ không cam lòng, vẫn còn muốn được tôn vinh, vẫn còn hám danh lợi, quyền thế.

Muốn vậy nhưng chẳng được vậy, cho nên để đạt được tham vọng, họ kêu gào chế độ hiện hành phải sửa sai chút ít như là cho dân góp ý, cho mấy ông cách mạng lão thành lập đảng mới…, để có thể còn chen chân vào chính trường trở lại. Bởi vậy mới có hiện tượng chê trách chế độ đã đi sai đường lối của “bác hồ đã dạy”. Tuy họ bài xích đường lối của bọn lãnh đạo đảng và nhà nước hiện tại, nhưng trong lòng họ vẫn tôn vinh tên đồ tể Hồ Chí Minh và chủ thuyết cộng sản của Karl-Marx, tư tưởng của Lenin, của Mao Trạch Đông. Họ chống đối và chỉ trích chế độ hiện nay vì đã không còn “như đảng hồi trước nữa”, chớ thật ra, họ chẳng phải vì nguyện vọng của người dân là muốn Tự Do, Nhân Quyền và Tự Chủ mà chống đối đảng, chẳng phải họ muốn xoá bỏ cái chế độ độc tài, độc đảng, khát máu cộng sản đang hành hạ dân, mà họ đã từng toàn tâm toàn ý dựng lên.

Muốn được gọi là nhà cách mạng lão thành phải như các Ông Phan Chu Trinh, Phạm Hồng Thái, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, v,v…vì những vị tiền bối nầy thật tâm vì nền độc lập của nước nhà, vì tiền đồ Tự Do, Dân Chủ, Ấm No cho toàn dân, chớ họ không vì một cá nhân, một đảng phái, một chủ thuyết ngoại lai không tưởng mà dấn thân tranh đấu. Tuy những việc làm, những phong trào của các vị ấy lập nên đã bị thất bại, nhưng tên tuổi và danh dự của họ gắn liền với núi sông, được mọi người dân đương thời ca tụng, được mọi người dân đời sau mãi mãi tôn thờ, và hiện đang có rất nhiều người, cả trong lẫn ngoài nước, đang theo bước chân của họ để làm cách mạng lật đổ bạo quyền việt cộng.

Vậy còn các người hiện nay gọi là cách mạng lão thành đã làm được gì, đã phục vụ cho lý tưởng gì, phục vụ cho ai ?

Hầu hết những người gọi là nhà cách mạng lão thành đều là đảng viên kỳ cựu, công thần của đảng Lao Động ngày trước, bây giờ là đảng cộng sản Việt Nam. Họ phục vụ cho lãnh tụ của họ là tên gián điệp của cộng sản quốc tế Hồ Chí Minh, họ phục vụ cho chế độ bán nước cầu vinh, đem Tổ Quốc dâng cho cộng sản quốc tế, làm bàn đạp để thực hiện kế hoạch nhuộm đỏ Đông Nam Á Châu, thực hiện mộng bá chủ hoàn cầu của chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tiếp tay cướp chính quyền của một chính phủ Quốc Gia mới thành hình sau đệ nhị thế chiến của dân tộc Việt Nam. Và rồi, sau khi đoạt được một nửa nước Việt Nam, họ đã công khai tư cách làm tay sai cho hai tên cộng sản đệ tam Nga và Tàu, bằng cái câu nói nhục mạ tổ tiên, nhục mạ giống nòi của tên Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam là Lê Duẩn: “Ta đánh đây là đánh cho Liên Sô và Trung Quốc, đánh cho chủ nghĩa cộng sản quang vinh”, và câu nói đó, ngày nay vẫn còn được lập lại trên tấm bảng màu đỏ, trước mả của tên nghịch tặc Lê Duẩn.

Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, bọn họ đã tiếp tay cho cái chế độ tay sai ngoại bang đó, cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa xong, họ thay đổi chế độ Độc Lập, Tự Do, Nhân Bản, phồn vinh bằng một chế độ tay sai, độc tài, tam vô, nghèo đói. Như vậy là làm cách mạng đó hay sao ? Cách mạng gì mà tất cả nhân sự của đảng và nhà nước đều ra tay mặc tình giết người, cướp của dân đủ cách đủ kiểu, diễn đủ trò bêu rếu dân tộc, sau khi cướp được chánh quyền ?

Thời gian gần đây, có một số người vì bị coi là già, hoặc vì đã hết khả năng lợi dụng, vì nhu cầu chia bè kết đảng, vì tranh quyền tranh ăn, đã bị cho về vườn, bị hạ tầng công tác, chỉ còn hưởng được cái sổ hưu, cho nên đã bất mãn, đâm ra bực tức, thù hằn cái bọn cầm đầu đã không cho họ tiếp tục xía phần ăn chia.

Hiện tượng đó đã xuất hiện trên báo chí, truyền thông mạng qua những thư ngỏ, thư thỉnh cầu, thư đề nghị thay đổi nhân sự, thay đổi chủ trương, thay đổi lề lối làm việc…, và những bài viết chỉ trích bọn tham quan (đã tham nhũng quá nhiều mà không chia chác) đã đi chệch đường lối và chủ trương của “bác và đảng”.

Thái độ uốn éo theo chiều gió nầy có phải là thái độ của người làm cách mạng hay không ?

Dẫu cho họ có những lời chê bai bọn chóp bu trong bộ máy cai trị hiện nay, nhưng chẳng có người nào xác minh rằng đảng cộng sản và tên Hồ Chí Minh là nguồn gốc gây nên tình trạng đang mất nước dần vào tay tên cường đồ trung cộng, tình cảnh thê thảm của đất nước, xã hội băng hoại, dân tình lầm than khốn khổ bởi trộm đạo, cướp giựt của các cấp cầm quyền từ trên xuống dưới.

Nếu thật tâm quay đầu vì đã thấy sự lầm lỗi của mình, muốn quay về nẽo chánh, thì phải biết bổn phận và nhiệm vụ của một người làm cách mạng phải làm gì?.

Với tình hình nổi dậy của mọi giới trong nước, mỗi ngày càng nhiều, càng cương quyết hơn. Nhưng sau nhiều năm vẫn chưa có nhiều kết quả khả quan, vì mỗi nhóm trong mọi giới dân chúng, đang còn tranh đấu riêng lẻ, chưa kết hợp được mọi lực lượng, dễ bị bọn cầm quyền thao túng, đàn áp, chưa thể sớm đưa cuộc cách mạng toàn diện đến thành công.

Muốn chuộc lại những tội lỗi đã làm vì ngu muội cả tin bọn lừa đảo cộng sản, con đường duy nhất để mọi người xá tội cho là phải làm một cuộc cách mạng đúng nghĩa, vì dân vì nước, dù có hy sinh bản thân thì cái danh nhà cách mạng lão thành đó mới chính danh, không ngượng ngùng, không xấu hổ.

Con đường duy nhất đó là cùng đi với đồng bào, cùng gánh chịu và cùng chống trả lại đàn áp của bọn cường quyền như đồng bào, cho đến khi cuộc cách mạng lật đổ cái chế độ phản dân hại nước, cái chế độ độc tài đảng trị, đem lại tư do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân hoàn thành, chớ không phải ngồi mát ăn bát vàng bằng thái độ xin cho, bằng tuyên ngôn thùng rỗng kêu to, bằng danh xưng hão là nhà cách mạng lão thành.

Không những chỉ tham gia cùng với dân trong các cuộc tập hợp phản đối bọn cầm quyền, mà phải đem tất cả kinh nghiệm và hiểu biết của bản thân về các yếu điểm, các ngón nghề gian manh của bọn cầm đầu chế độ, để giúp dân mau đạt được thành quả của cách mạng diệt cộng của toàn dân. Các người tự gọi hay được gọi là những nhà cách mạng lão thành, là những cựu bộ trưởng, là những cựu tướng tá, là những cựu nhân vật cao cấp trong bộ máy cầm quyền của việt cộng, đã từng ở trong chăn có rận với cộng sản, biết rõ hơn ai hết đường đi nước bước của chúng, biết tất cả chiến lược, chiến thuật dối dân, cướp của và đàn áp dân của chúng với mục đích kéo dài cái chế độ độc tài độc đảng toàn trị, và cũng chính họ là những người biết rõ hơn ai hết, cách chống trả lại mánh mung của bọn cầm quyền. Nếu thật tâm quay đầu cùng với toàn dân vận động, quy tụ các nhóm tranh đấu riêng lẻ thành một khối, như vậy mới là thật lòng hối cải, mới là một vốn quý cho cuộc cách mạng toàn dân.

Nếu không thật tâm quay đầu lại với toàn dân, mà chỉ vì danh xưng hão, vì tham vọng quyền thế tiền tài, thì hãy thôi đi, đừng xưng là “cách mạng lão thành” nữa, vì danh đó chỉ là ngụy danh, khi phát thanh ra, nó có mùi xú uế bao trùm cả trời đất.

Mong rằng tất cả những ai đang hiên ngang đấu tranh chống lại bạo quyền việt cộng, đừng tôn vinh những “nhà cách mạng lão thành” xin cho, đừng lấy chúng làm gương, đừng nghe theo những lời lẽ phản đối cuội, của những tên không biết hối cải nầy, có vài tên có thể là cò mồi của chế độ, sẽ phá nát ý chí vùng lên, sẽ làm mất tinh hoa chính nghĩa của cuộc cách mạng dân tộc mà toàn dân đang mong muốn và theo đuổi.

Lão Ngoan Đồng