Tuesday, April 22, 2014
Monday, April 21, 2014
39 năm nhìn lại - Nguyễn Quý Đại
39 năm nhìn lại
Nguyễn Quý Đại
Xuân về cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, rộn rã tiếng chim ca dưới bầu trời xanh với những áng mây bay như dải lụa trắng. Trên nền cỏ xanh mượt điểm những cánh hoa màu tím nhạt, hoa anh đào màu hồng nở rộ tăng thêm nét đẹp buổi bình minh, có nắng hanh vàng, nhưng không khí còn se lạnh. Mùa xuân về gợi chúng ta nhớ lại biến cố 39 năm trước chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn khốc liệt nhất. Ngày 14/3/1975 quân đội VNCH triệt thoái Cao Nguyên, máu của quân dân miền Nam đã đổ ra trên tỉnh lộ 7 về đến Nha Trang. Ðà Nẵng di tản chiến thuật ngày 29/3 hàng trăm ngàn người hãi hùng lên các tàu hải quân di tản hy vọng tìm được tự do… cho đến ngày 30/4 Việt Nam Cộng Hòa bị bức.
Chiến tranh Việt Nam kéo dài hơn 2 thập niên thực chất chỉ là cuộc tàn sát gần 4 triệu đồng bào ở cả hai miền Nam Bắc, do đảng cộng sản quốc tế hỗ trợ CSVN nhân danh “kháng chiến giành độc lập” và “giải phóng dân tộc “ “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam”. (theo kế hoạch của Mao: đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng để mở rộng đế quốc Tàu đỏ), Cố tổng bí thư Lê Duẩn (1907-†1986) tuyên bố, “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc“ cuộc chiến đã gây ra tang tóc lầm than khói lửa. CSVN áp dụng chủ thuyết Mác xít, các lãnh tụ độc tài như Stalin, Mao Zedong (1893-†1976) Lénin được tôn thờ. Bộ Chính trị đảng cộng sản giữ độc quyền “kinh thánh” Marxismus, trong sinh hoạt chính trị và kinh tế qua từng giai đoạn. Chủ trương của cộng sản là “chính trị đảng và xã hội không được phân biệt. Nhà nước là định chế duy nhất của xã hội”. Người công dân không có quyền nào ngoài bổn phận làm theo ý của đảng cầm quyền. Giai đoạn đầu chiếm Sài Gòn đảng CS mù quáng chủ trương “bài trừ văn hoá”, thư viện Quốc Gia kho tàng sách vở tài liệu quý giá của VNCH bị “cán bộ” đem bán giấy vụn. Văn hóa phẩm như nhạc, các tủ sách gia đình bị tịch thu giống như thời Tần Thủy Hoàng (246-209) kết thúc thời Chiến quốc, đốt sách chôn học trò, bài trừ Nho giáo.
Sau ngày 30/04/1975 cộng sản Việt Nam luôn tự hào “chiến thắng hai Ðế quốc lớn”, thi hành chính sách “tập trung cải tạo” những người làm việc với chế độ cũ. Ðảng chủ trương cướp đoạt tài sản miền Nam qua các cuộc “cải cách công thương nghiệp”, đổi tiền, đánh tư sản, đưa đi kinh tế mới…
Đổi tiền lần đầu người miền Nam dù có nhiều tiền cũng chỉ được phép đổi tối đa 200 đồng tiền mới “Hồ”, hối suất tính như sau: 500 đồng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam (VNCH) đổi lấy 1 đồng tiền Hồ, vào thời điểm đó 1.USD = 118 đồng VNCH. Nhiều người có tiền trong các trương mục Ngân hàng trước 1975 đều mất hết, nhà cầm quyền không cho họ lấy tiền ra, ngược lại nếu trước đó có nợ thì phải tiếp tục trả! Người buôn bán có tiền không đổi được trở thành trắng tay phải tự tử… Đổi tiền lần thứ 2 và “đánh tư sản”, “cán bộ” cộng sản tịch thu tài sản đuổi người đi kinh tế mới! thành phần “cán bộ” cộng sản bỗng dưng giàu hơn, có nhà có xe…
Ðời sống người dân miền Nam từ phồn thịnh đi xuống tận cùng khổ đau nghèo khó. Nhiều người bị “tập trung cải tạo” đã chết trong núi rừng khắc nghiệt miền Bắc, hoặc trong các trại tù. Hàng triệu người liều chết trên những chiếc thuyền con vượt biển Đông bất chấp phong ba bão tố, hải tặc cướp của, hảm hiếp, giết người, hay bất chấp gian khổ vượt thoát bằng đường bộ đi tìm cái sống trong cái chết, để đổi lấy hai chữ Tự Do. CSVN làm xã hội chậm tiến, không có Tự do, Dân chủ, Kinh tế không phát triển trong lúc các nước Á Châu vươn lên trên mọi lãnh vực vv.. Theo triết gia Kim Định:
”Ngày 30/4/1975 không chỉ là cái tang của người Việt Nam, mà còn có thể nói là cái tang chung của nhân loại ……”. Lời của cố T.T Ronald Reagan (1911-†2004) “ Ending a conflict is not so simple, not just calling it off and comming home. Because the price for that kind of peace could be a thousand years of darkness for generation's Viet Nam borned ” ... Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong, bởi vì cái giá phải trả cho loại hòa bình đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Viêt Nam về sau.”
“Thiên đường” cộng sản tại Nga cùng các nước Ðông Âu sụp đổ từ năm 1989. Việt Nam bang giao với khối cộng sản trở thành ngõ cụt, nên phải mở cửa “đổi mới” nghiêng về khối Tây phương để khỏi bị loại ra khỏi thế giới văn minh. Nhưng vẫn giữ chính sách cai trị đóng khung giáo điều của chủ thuyết cộng sản gian ác, lỗi thời.
Các tôn giáo đều bị đàn áp, CSVN thành lập Giáo Hội quốc doanh, bỏ tù các người yêu nước lên tiếng chỉ trích chế độ đòi hỏi tự do dân chủ và nhân quyền. Nhiều sách vở, bút ký viết về cuộc đổi đời sau năm 1975 trong hơn một phần ba Thế kỷ đủ để mọi người nhìn lại những thương đau còn in hằn trong tâm khảm của dân tộc Việt Nam!
Nhà cầm quyền CSVN từng kết án những người tỵ nạn cộng sản là “thành phần phản quốc, bỏ nước ra đi vì kinh tế, bọn làm tay sai…”. Nhưng rồi vì quyền lợi đối với khối người Việt tỵ nạn từ đó họ đổi cách gọi “Việt Kiều là những khúc ruột ngàn dặm”, khuyến khích hơn 3 triệu người Việt hải ngoại về thăm nhà, hàng năm gởi tiền tỷ về giúp gia đình bạn bè, làm từ thiện… Việt Nam có số ngoại tệ khổng lồ, chỉ cần in thêm tiền giấy không vàng bảo chứng để đổi lấy đô la.
Dù đất nước nối liền Nam-Bắc nhưng lòng người chưa được thống nhất! Chúng ta không muốn gợi lại lòng thù hận. Nhưng tôi nhắc lại những gì đáng quên và đáng nhớ để những người may mắn rời khỏi Việt Nam trước 75, hoặc những ai không sống tại miền Nam, chưa thấy được hoàn cảnh ngày đổi đời, nhất là các thế hệ con cháu sinh sau 1975 trong, cũng như ngoài nước biết bản chất, chính sách độc tài của chế độ cộng sản dù họ luôn tuyên truyền đánh bóng. Người Việt tỵ nạn trân quý cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, bởi vì cờ Vàng là linh hồn cho tự do, dân chủ của người Việt hải ngoại. Lá cờ này mãi vẫn là một biểu tượng của tự do và niềm hy vọng cho một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Tổ tiên chúng ta đã hy sinh biết bao xương máu để bảo vệ đất nước “tấc đất tấc vàng” mà nay đảng CSVN cắt lãnh hải, biên giới dâng cho Trung cộng, hành động bán nước qua các Hiệp ước giữa hai đảng cộng sản Việt-Hoa, che giấu không công báo cho Quốc dân biết.. Ải Nam Quan địa đầu tỉnh Lạng Sơn nhiều thế kỷ trước ngăn chận quân Tàu muốn tiến về phương nam, đều bị chận đứng nơi đây. Thác Bản Giốc ở Cao Bằng đẹp với cảnh thiên nhiên hùng vĩ, Tục Lãm nay đã mất một phần…. Trình trạng cho ngoại quốc thuê rừng, thuê đất, khai thác Bauxite làm ảnh hưởng môi sinh, thiệt hại đến an ninh quốc gia, nhà cầm quyền vay mượn nợ các quốc gia trên thế giới là gánh nặng cho con cháu không biết đến mấy đời mới trả xong ? Trong khi biển đảo, tài nguyên phong phú đã bị cán bộ CS bán chia nhau tiền đầy túi….
Nhìn lại Hiệp định Paris ký giữa Hà Nội và Ngoại trưởng Kissinger ngày 27/01/1973. Hoa Kỳ rút quân trong danh dự. Bắc Việt lợi dụng cơ hội xua quân xâm lăng và cưỡng chiếm miền Nam. Quốc Hội Hoa Kỳ cắt mọi viện trợ Quân sự và Kinh tế cho miền Nam (VNCH) tài khóa 1974-1975, trong lúc Bắc Việt nhận viện trợ vũ khí tối đa của khối cộng sản Nga-Tàu và Ðông Âu.
Việt Nam Cộng Hòa bị xóa tên khi tân T.T Dương Văn Minh (1916 -†2001) tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn lúc 11 giờ ngày 30.4.75. Ðường phố Sài Gòn u buồn, vắng lặng... tiếng đại bác 130 đã ngưng, trên đường phố còn xác chết rải rác qua các cuộc giao tranh hay những toán quân nhân tự tử vì phẩn uất khi nghe lệnh đầu hàng. Xe tăng T54, “bộ đội” CS được các thành phần nằm vùng, mặc thường phục, cổ đeo cờ xanh đỏ sao vàng hướng dẫn chạy về dinh Ðộc lập. Khắp nơi súng đạn, giày dép, quần áo, đủ màu sắc của quân đội VNCH cởi bỏ ngổn ngang... Họ uất hận những người chủ bại phản bội, bọn hèn tướng bỏ chạy trước mà còn lừa bịp ra lệnh “tử thủ chiến đấu đến giây phút cuối cùng”.
Những chiến sĩ vô danh tử trận không có quan tài chôn cất. Các thương binh của quân đội VN CH bị đuổi ra khỏi các quân y viện, lê lết trên đường phố vết thương còn rớm máu, nhìn họ lòng tôi chùng xuống, nước mắt lưng tròng, nỗi đau khó quên của người chiến bại và lo sợ như cảnh đấu tố trong đợt “cải cách ruộng đất” lại tiếp tục xảy ra! Người Sài Gòn ngỡ ngàng, nỗi lo âu dồn dập, ngổn ngang, tâm tư buồn bã trước nghịch cảnh đổi đời, lạnh lùng nhìn đoàn quân “chiến thắng” trên đường phố, với chiếc mũ cối và đôi dép râu xa lạ. Chỉ có đám “Cán bộ” nằm vùng xách động “hoan hô chiến thắng...
Sinh hoạt Sài Gòn trước 1975 với chế độ tự do, sinh viên, học sinh xuống đường biểu tình. Các cán bộ nằm vùng đội lốt tôn giáo lợi dụng tự do dân chủ để làm chính trị phản chiến. ”Thành phần thứ Ba Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, Ký giả ăn mày...” Tuổi trẻ vào thời đó bị ảnh hưởng thuyết hiện sinh của Heming Way, Fitgerald, nhất là của J. Paul Sartre (1905-†1980) và ảnh hưởng làng sóng phản chiến xuất phát từ đại học Harward Hoa Kỳ, các cuộc biểu tình tại Berlin Ðức. Sinh viên học sinh bị lôi cuốn vào “phong trào tranh đấu” xuống đường. Sài Gòn vui chơi hát nhạc phản chiến trong lúc ngoài chiến trường Quân đội chiến đấu gian khổ, bị thương hy sinh để bảo vệ hai chử Tự Do tại miền Nam! 39 năm nhìn lại Huế-Sài Gòn-Hà Nội có những cuộc xuống đường nào không? Một số người yêu nước biểu tình chống Trung Cộng đều bị nhà cầm quyền đàn áp, đánh đập không nương tay, bị kết án bỏ tù, ghép tội làm mất trật tự công cộng, hay âm mưu lật đổ chế độ, v vv
“Ni sư khất sĩ” Huỳnh Liên (Nguyễn thị Trừ 1923-†1987) “TT” Thích Trí Quang trụ trì Chùa Ấn Quang... từng xách động tôn giáo xuống đường biểu tình phản chiến. Sau ngày 30/4/75 họ không còn tự do để đứng lên đòi quyền sống cho người miền Nam, các Chùa, nhà Thờ bị phong tỏa, tài sản của Giáo Hội bị tịch thu, tòa soạn các báo bị đóng cửa không có Ký giả nào phản đối? hay đi ăn mày?
Chương trình giáo dục miền Nam tự do, nhân bản. Không có học thuyết nào gây hận thù. Học sinh, sinh viên, được hoản dịch theo học đại học. Tu sĩ, con độc nhất trong gia đình, được miễn thi hành quân dịch. Sinh viên du học đến các nước Tây phương nếu đủ điều kiện: tự túc, hay học bổng không phân biệt lý lịch. Các Giáo Hội mở các trường Ðại học tự trị, Ðại học Vạn Hạnh của Phật Giáo, Ðại học Tây Ninh của Cao Ðài, Ðại học Chính trị Kinh Doanh Ðà Lạt của Công giáo, Ðại học Hòa Hảo ở Long Xuyên. Còn một số Ðại học tư như: Ðại học Y khoa Minh Ðức, Tri Hành, Phương Nam vv. Nhìn chung các Ðại học được hưởng mọi quy chế như Ðại học công lập: Sài Gòn, Huế, Ðà Nẵng, chỉ khác nhau sinh viên học trường tư phải đóng tiền học phí.
Các đảng phái như Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Tân Ðại Việt, Dân Xã Ðảng, Ðảng Công Nông..vv sinh hoạt công khai đối lập chính quyền. Các Tôn giáo đều có đại diện Dân biểu, Nghị sĩ, tham gia chính quyền.
Trong lúc tại miền Bắc chỉ có một đảng cộng sản cai trị. Miền Nam không đói khổ như miền Bắc, nhưng CS tuyên truyền rằng: “miền Nam nghèo khổ bị bóc lột, hột gạo cắn làm tư chia cho miền Nam”. Các “Cán bộ tập kết” trở về xách theo quần áo cũ, chén đất về cho gia đình. Trên đường về Nam họ nhìn thấy sự thật! “đừng tin những gì CS nói..”
Trong lúc tại miền Bắc chỉ có một đảng cộng sản cai trị. Miền Nam không đói khổ như miền Bắc, nhưng CS tuyên truyền rằng: “miền Nam nghèo khổ bị bóc lột, hột gạo cắn làm tư chia cho miền Nam”. Các “Cán bộ tập kết” trở về xách theo quần áo cũ, chén đất về cho gia đình. Trên đường về Nam họ nhìn thấy sự thật! “đừng tin những gì CS nói..”
Thời chống Tây miền Nam có quan Ðại thần Phan thanh Giản (1796-†1867) tuyệt thực 17 ngày phản đối và uống thuốc độc tự tử vào ngày 04.08.1867 khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Thế hệ năm 1975 tướng Nguyễn Khoa Nam tại Cần thơ tự bắn vào đầu không chịu đầu hàng, tướng Trần văn Hai uống thuốc độc tại bộ chỉ huy căn cứ Ðồng Tâm, các tướng Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ cùng nhiều quân nhân đã tự tử không chấp nhận chế độ cộng sản... Hình ảnh xúc động nhất Trung tá Nguyễn Văn Long CSQG tự sát dưới bức tượng trước Quốc hội. Sài Gòn mất tên như nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết được phổ nhạc:
“Sài gòn ơi! ta mất người như người đã mất tên, mất từng con phố đổi tên đường, khi hẹn nhau đã lạc lối tìm.”
Miền Nam là vựa lúa, trái cây ngon nhưng dân Sài gòn phải ăn hột bo bo thức ăn dành cho ngựa vì đảng CS chiếm đoạt vơ vét trả nợ cho đảng CS anh em. Các bệnh viện sau 1975 cấp thuốc dân tộc, như loại cây Xuyên tam liên thay thế thuốc trụ sinh, các Y tá cách mạng lên làm bác sĩ Giám đốc, không biết dùng thuốcTây, nên ghi thuốc bào chế dân tộc. Chợ trời mọc lên như nấm, các chợ quần áo cũ, đồng hồ, quạt máy, Radio nhạc Cassette, Tivi, máy may, vàng, hột xoàn, đô la, tủ bàn ghế, xe đạp thuốc tây... Các loại hàng nầy nhiều gia đình không có tiền phải bán dần để sống. Con buôn mua về tân trang xi, sơn đánh bóng.. Khách hàng là những cán bộ, bộ đội miền Bắc. Trên quốc lộ I hàng trăm đoàn xe bộ đội, vận tải quốc doanh của CS chuyên chở đủ thứ vật dụng, hàng hóa từ Nam ra Bắc. Nhiều người đã nói “cướp đêm là giặc cướp ngày là quan” những tấn vàng và ngoại tệ trong Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam chở về Hà Nội, số vàng ấy đi về đâu?
Các công tử Hà nội (con ông cháu cha) đến chợ Vườn chuối trên đường Phan đình Phùng, tìm các thợ cán vàng lô, (lượng vàng có hai miếng rưởi đúng tiêu chuẩn 37,4 g vàng 24 K). Nhưng các chàng nầy mướn thợ làm vàng 2 da (phần trong hợp chất kim loại, ngoài bọc lớp mỏng bằng vàng thật 24) nếu khách hàng không rành khó có thể phân biệt được. Họ đem về đánh tráo vàng trong kho của nhà nước? Ðây là vụ biển thủ lớn có tổ chức, của những giai cấp quyền thế trung ương đảng CSVN.
Những tà áo dài thước tha của Sài Gòn biến mất, chỉ thấy toàn quần đen áo bà ba, đàn ông mặc áo bỏ ra ngoài đi xe đạp, xe gắn máy chỉ dành cho cán bộ họ có thẻ mua xăng. Người ta có thói quen gọi là ngày “giải phóng”. Ngày 30 tháng 4 là một biến cố lịch sử, ai giải phóng ai? Khi hàng triệu người miền Nam phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Đời sống xã hội bị đảo lộn không ai có thể đưa ra con số chính xác về số phụ nữ trẻ người Việt sang Campuchia làm nghề buôn phấn bán hoa là bao nhiêu, các tỉnh của xứ Chùa Tháp đều hiện diện gái mãi dâm người Việt, trong đó có nhiều em tuổi vị thành niên, đã gây ra những tranh cãi sôi nổi trong giới nhân viên xã hội tại Campuchia, những em này là nạn nhân của việc đưa lậu người qua biên giới. Phẩm giá đàn bà Việt Nam không được tôn trọng, các chợ rao tìm chồng ngoại quốc, các thiếu nữ ngồi chờ các anh chàng ngoại quốc: luống tuổi ế vợ, quê mùa ít học.. từ Ðài Loan, Ðại Hàn.. đến Việt Nam tìm vợ, họ chỉ cần bỏ vài ngàn đô la có được cô vợ trẻ đẹp đem về bản xứ phục vụ... đôi khi bị đánh đập phải nhảy lầu tự tử hay bị bán vào động cho các tú bà... nhưng nhà cầm quyền Việt Nam vẫn làm ngơ! xã hội ngày nay băng hoại có nhiều quán bia, cafe, các quán đèn mờ, hớt tóc... kinh doanh về tình dục, tuổi trẻ tự do luyến ái phá thai bừa bải, trong thời gian qua tại Singapor, Mã Lai… xuất hiện nhiều đàn bà Việt Nam lợi dụng là du lịch sang đó để buôn phấn bán hoa, đứng đường đón khách. Đến Nhật ăn cắp mỹ phẩm đắt tiền có nhiều shopping để bản cấm người Việt vào, đã làm xấu hổ cho cả dân tộc Việt Nam.
Bệnh Aids truyền nhiễm HIV , Xì ke ma tuý... Bộ Y tế Việt Nam báo động hiện tượng phá thai ngày càng nhiều ở lứa tuổi vị thành niên, chiếm hết một phần ba trong tổng số trên 400.000 trường hợp phá thai “được ghi nhận chính thức” ở Việt Nam hằng năm. Nhưng con số thật sẽ cao hơn nhiều vì đa số gái vị thành niên, chưa lập gia đình khi có thai thường giấu chuyện mang thai của mình và đi phá ở những cơ sở phá thai tư nhân.
Các quốc gia trên thế giới xuất cảng các loại hàng tiểu, công thương nghiệp, nhưng ngược lại Việt Nam xuất cảng người đi lao động, trình trạng mua bán nô lệ mới ngày nay được áp dụng tại Việt Nam! dù Tổng Thống thứ 16 của Hoa Kỳ ông Lincoln Abraham (1809-†1865) giải phóng chế độ nô lệ từ năm 1862. Hiện tượng chất xám bị mua, các nước Tây Phương cấp học bổng cho một số sinh viên giỏi tại các Ðại học Việt Nam ra nước ngoài làm luận án cao học hay tiến sĩ, cũng như những sinh viên du học tại các nước Ðông Âu, khi xong học trình mấy ai về nước phục vụ! Bởi vì họ thấy đời sống Tây phương tiến bộ tự do, ai giỏi thì có việc tốt không cần phải vào đảng CS để có việc làm. Theo thống kê của Bộ Khoa học - Công nghệ (KH-CN), cả nước có trên 24.000 tiến sĩ, hơn 100.000 thạc sĩ. Số giáo sư, tiến sĩ VN nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có trường ĐH Việt Nam nào được đứng trong bảng xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới. Lý do các trường đại học VN đào tạo sinh viên không đúng tiêu chuẩn và trình độ chuyên môn, có nhiều trường hợp bằng giả, bằng dỏm, mua bán bằng cấp “hữu danh vô thực”. Trình độ giáo dục chênh lệt, một số cán bộ đảng cộng sản có nhiều bằng đại học cử nhân, tiến sĩ nhờ học bổ túc văn hóa. Người ta nói “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”.. Thế hệ trẻ lớn lên mỗi ngày mất hy vọng thiếu tự tin, dù học giỏi ra trường không thế lực, không có tiền hối lộ sẽ không có việc làm! không biết tương lai sẽ đi về đâu? Bằng cấp, cũng giống như tiền của ngân hàng VN phát hành chỉ sử dụng trong nước ra nước ngoài không có giá trị.
Việt Nam thiếu chuyên viên kỹ thuật trầm trọng! Thời chiến quốc Lưu Bị muốn khôi phục nhà Hán phải nhiều lần đến mời Khổng Minh Gia Các Lượng ra giúp nước. Nhà cầm quyền Việt Nam không biết trọng dụng trí thức, khoa học kỹ thuật để họ phục vụ đất nước, chỉ biết kết bè phái đưa thân nhân, gia đình vào giữ những chức vụ quan trọng để vinh thân phì gia … Nhà cầm quyền không xây dựng thêm bệnh viện công để phục vụ cho dân, hay những trường Trung và Ðại học công lập đúng tiêu chuẩn, mở rộng hệ thống giáo dục theo các nước tiên tiến của thế giới, ngược lại phát triển những khu ăn chơi hưởng thụ, lãng phí tài nguyên quốc gia. Nạn lạm phát gia tăng hàng năm từ 10% đến 20%, vật giá leo thang đời sống người dân nghèo càng khốn khổ hơn. Thức ăn, nước uống độc hại do các hóa chất từ Tàu tràn ngập thị trường, bọn lái buôn Tàu phá hoại kinh tế Việt Nam như các trường hợp lường gạt: mua rể tiêu, dây khoai lang, mua chân trâu, đuôi bò, nuôi đỉa, ốc bưu vàng… Người nông dân không ý thức ham tiền bị lừa. Nhà cầm quyền không có hành động ngăn ngừa thủ đoạn đê hèn của bọn lái buôn đó. Công an không kiểm soát, bắt trục xuất là một hành động đồng lõa ngậm miệng ăn tiền của gian thương.
Tại Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc họp ở Genèva Thụy Sĩ bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ phổ biến bản phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền trên thế giới, nói rằng CSVN vẫn là một trong những nước ở Đông Nam Á, tiếp tục đàn áp nhân quyền nghiêm trọng, không có tự do báo chí… Việt Nam là nước ngăn chận tự do báo chí đứng thứ 174 / 179 các quốc gia còn độc tài. Những người bất đồng chính kiến đấu tranh bất bạo động cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền đều bị cầm tù. Trên lý thuyết việc bảo vệ các quyền tự do công dân về mặt luật pháp của Việt Nam. Điều 25 của Hiến Pháp 2013 của Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin, tôn trọng những quyền hội họp, lập hội, biểu tình. Trên thực tế, công dân Việt Nam không có những quyền tự do trên. Vì vi phạm nhân quyền VN khó gia nhập theo Hiệp ước thương mại Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP).
Chúng ta may mắn vượt thoát khỏi địa ngục có thật sau 30/4/75. Thời gian trôi qua 39 năm xã hội Việt Nam vẫn sống dưới chế độ độc tài, tham nhũng đảng viên càng ngày càng giàu hơn, gởi con cháu đi du học sung sướng họ không quan tâm tới người khác, sống ích kỷ, thủ lợi xem trọng vật chất, không cần để ý đến phát triển đất nước, “Thượng bất chính hạ tất loạn” mạnh ai nấy sống, có tiền đầy túi là được, luân lý, đạo đức xã hội suy đồi…. Cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới lên tiếng ủng hộ những nhà dân chủ cũng như người dân oan trong nước bị áp bức, bị chiếm đoạt tài sản, phải đi khiếu kiện nhiều năm không được giải quyết còn bị đánh đập đàn áp. Phần lớn người Việt bỏ nước ra đi có cuộc sống ổn định, an cư lạc nghiệp, con cái có địa vị công việc như người bản xứ. Nhiều người về hưu hưởng tiền hưu có bảo hiểm xã hội đời sống an nhàng, không ai nuôi tham vọng trở về nước tranh giành địa vị. CSVN không biết canh tân đất nước mà luôn lo sợ rêu rao “diễn biến hòa bình hay thế lực thù địch…”
Nhiều người về thăm lại quê hương, mỗi người một hoàn cảnh riêng. Nhưng nên nhìn lại những ngày khó quên của 30/4/1975 , tại sao chúng ta rời Việt Nam làm kiếp người lưu vong? Dù ngày nay Việt Nam có đổi mới, nhưng địa ngục vẫn còn đó, nếu cờ đỏ sao vàng còn tung bay trên vùng trời Việt Nam! Là còn cảnh chậm tiến, lạc hậu do một đảng CS độc quyền cai trị “cán bộ” thiếu văn hóa bất lực, chỉ biết tham nhũng và hưởng thụ… “Việt Nam bây giờ cần ngay chính những công dân đang sinh sống trong nước lên tiếng và tranh đấu cho lẽ phải. Bởi lẽ bên ngoài dù có ủng hộ hay hoạt động đến đâu cũng không mấy tạo được sự thay đổi bằng chính những người trong nước.”
Sự sụp đổ của chế độ CS Đông Âu là bài học cho người dân nhiều nước còn bị cai trị dưới chế độ độc tài chậm tiến, trong đó có Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Quý Đại
Khánh Ly một kiếp cầm ca
![]() |
| Bộ mặt phản bội, bà già 7 bó Khánh Ly sẽ đi Việt Nam hát cho Việt Cộng nghe vào tháng 5 tới tại Hà Nội. |
Khánh Ly là nghệ danh được ghép từ tên của hai nhân vật lừng lẫy trong truyện “Đông Chu Liệt Quốc”: Khánh Kỵ và Yêu Ly. Nhưng xem ra, cách sống và xử sự của Khánh Ly chẳng giống chút nào với hai con người khí khái này.
Chào đời tại Hà Nội vào năm đói Ất Dậu (1945), tên cúng cơm của Khánh Ly là Nguyễn Thị Lệ Mai, bạn bè thương gọi là “Mai Đen”. Được trời ban cho một chất giọng đặc biệt, 9 tuổi Khánh Ly đã bước lên sân khấu tham gia một cuộc thi ca hát với ca khúc “Ngây thơ”, nhưng chẳng nhận được một thứ hạng đáng kể nào cả. Năm 1956, sau khi theo gia đình vào định cư tại Đà Lạt, Khánh Ly đã tham gia cuộc thi hát nhi đồng, do Đài phát thanh Pháp Á tổ chức tại Sài Gòn. Với nhạc phẩm “Ngày trở về” của Phạm Duy, Khánh Ly đoạt được giải nhì. Mãi đến năm 1962, Khánh Ly mới thật sự bước vào đời ca hát chuyên nghiệp tại phòng trà Anh Vũ trên đường Bùi Viện, Sài Gòn. Chưa có tiếng tăm gì, khó cạnh tranh, chỉ một thời gian ngắn, Khánh Ly phải quay về Đà Lại hát cho một vài hộp đêm tại đó.
Mãi đến năm 1967, Khánh Ly mới thật sự nổi tiếng. Cô nhanh chóng chinh phục được người nghe bằng dòng nhạc của Trịnh Công Sơn, trở thành một trong ba giọng ca nữ hàng đầu của Sài Gòn thời đó, theo thứ tự là Thái Thanh – Lệ Thu – Khánh Ly. Năm 1968, cô đứng ra thành lập hội quán Cây Tre ở số 2bis Đinh Tiên Hoàng, Đakao, thu hút đông đảo văn nghệ sĩ và thanh niên, sinh viên, học sinh tìm đến.
Hội quán Cây Tre tuy rất nổi tiếng nhưng không có hiệu quả về kinh tế. Đến năm 1972, Khánh Ly trở thành bà chủ phòng trà cùng tên (Khánh Ly) tại số 12 – 14 đường Tự Do (Đồng Khởi). Nhưng tiền của kiếm được bao nhiêu, hầu như Khánh Ly đều nướng sạch vào những canh bạc thâu đêm suốt sáng, thường xuyên tổ chức tại phòng trà cũng là nơi ở của mình. Tại địa chỉ này, Khánh Ly còn tập họp một số “bằng hữu” toàn là những tay anh chị khét tiếng trong đám sĩ quan người nhái, có mặt hằng đêm, như: Phong Nhái, Chánh Râu, Chất Lựu Đạn… Đám giang hồ áo lính này coi phòng trà Khánh Ly như trụ sở, từ đó bung ra đi thu tiền bảo kê hầu hết các vũ trường, snack bar, night club khắp trung tâm Sài Gòn, rồi quay về “trụ sở Khánh Ly” chia chác chiến lợi phẩm. Hai món cờ bạc mà Khánh Ly say mê nhất là xì phé và xập xám. Dường như câu nói cửa miệng của dân đổ bác: “Tiền xâu, đánh đâu, thua đó” đã hoàn toàn ứng nghiệm vào cuộc đỏ đen của Khánh Ly.
Tài danh có thừa, nhưng đời ca hát của Khánh Ly không chỉ toàn vinh quang, mà cũng có khi lắm nỗi nhục nhằn. Năm 1973, Khánh Ly tổ chức một chương trình ca nhạc tại Đà Lạt. Nhiều ngày trước đó, người ta thấy trên những băng rôn quảng cáo có nhiều tên tuổi ca sĩ nổi tiếng. Thế là khán giả nô nức đến xem, vé đã được bán sạch sành sanh. Vậy mà xuyên suốt chương trình, chỉ có Khánh Ly và Ngọc Minh thay nhau bao hết. Ngoài ra không có một ca sĩ nào khác. Cho là mình bị lừa, khán giả bắt đầu la ó, rồi tràn lên sân khấu đập phá. Khánh Ly phải chui ván sàn thoát thân. Ngày hôm sau, một tờ nhật báo tại Sài Gòn đã đưa tin với tựa đề giựt gân “Khánh Ly chui lỗ chó chạy trốn tại Đà Lạt”. Khánh Ly cay lắm, nhưng đành ngậm bồ hòn.
Dân văn nghệ Sài Gòn trước năm 1975, thảy đều biết rằng Khánh Ly rất kỵ Lệ Thu, chỉ vì con gà ganh nhau tiếng gáy. Dạo đó nhiều bầu sô và người làm chương trình đến mời Khánh Ly tham gia, đều bị hỏi một câu: “Có Lệ Thu không? Có bà ấy là không có tôi!”. Một lần, nhân dịp họp mặt khóa 10 trường Võ bị Đà Lạt được tổ chức tại hồ nước trong khuôn viên Tiểu đoàn 61 Pháo binh, tại Gò Vấp (nay là UBND quận Gò Vấp), người làm chương trình cố tình sắp xếp cho Lệ Thu hát mở màn và Khánh Ly hát phần sau để tránh cho hai người gặp nhau. Chẳng may, sau khi hát xong, thay vì về sớm thì Lệ Thu lại được tướng Lê Minh Đảo mời ngồi lại đến mãn tiệc. Khi đến nơi, thoáng thấy Lệ Thu, Khánh Ly lập tức bỏ hát quay về. Người làm chương trình hết lòng nài nỉ, nhưng Khánh Ly vẫn không đổi ý: “Anh nói với tôi là không có Lệ Thu, tôi mới nhận lời. Tôi đã nói trước với anh rồi, có Lệ Thu là không có tôi”.
Có một dạo, dư luận xã hội đồn ầm lên rằng, chất giọng được mệnh danh là “giọng hát ma túy” của Khánh Ly có được là do chơi thuốc phiện. Kỳ tình “Mai Đen” không hề dính líu tới ả phù dung. Nhưng một lần, Khánh Ly đi từ Sài Gòn lên Thủ Đức trên một xe du lịch với một ông cò Cảnh sát. Khi đi ngang qua lãnh địa của một ông cò khác, thuộc phe đối nghịch, xe bị chặn lại khám xét. Mở cốp xe ra thì thấy một bàn đèn để hút thuốc phiện. Tuyệt nhiên, thuốc phiện thì không thấy. Khánh Ly nhận là của mình, nhưng cho đó chỉ là vật trang trí. Vậy là hôm sau, đi đâu cũng nghe người ta bàn tán việc Khánh Ly hút xách một cách sôi nổi với những tình tiết được thêm mắm, thêm muối thật hấp dẫn.
Khánh Ly có vóc dáng mình hạc xương mai, phảng phất nét liêu trai chí dị. Khuôn mặt dễ nhìn, không thuộc loại “hồng nhan”, nhưng đường tình ái cũng rất “đa truân!”. Thuở mới thành danh, Khánh Ly gá nghĩa vợ chồng với một tay chơi, có cái biệt danh kèm theo tên cúng cơm rất ấn tượng: “Minh Đĩ”. Anh chàng này vốn con nhà giàu, có bà chị lấy chồng là một đại tá không quân. Nhờ vào tiền của và thế lực của ông anh rể, Minh Đĩ chui vào làm lính kiểng với cấp hàm trung sĩ, thuộc binh chủng không quân, để tránh ra trận. Được hai mặt con thì Khánh Ly và Minh Đĩ ca bài chia tay. Chẳng bao lâu, Khánh Ly lấy Mai Bá Trác, một Đại úy biệt kích, khi ông ta đang làm trưởng trại Lực lượng đặc biệt (LLĐB) Thiện Ngôn ở biên giới Tây Ninh. Thời đó mà được làm trưởng trại LLĐB là coi như trúng số. Dưới quyền, có từ 4 đến 5 Đại đội biệt kích quân, phần lớn là người Miên và dân tộc thiểu số. Thứ lính này không có số quân, do Mỹ trang bị và trả lương. Mỗi đại đội chỉ cần vài chục lính ma, lính kiểng là mỗi tháng, sau khi chia chác cho đàn em, trưởng trại dễ dàng đút túi cả chục cây vàng. Cứ tưởng tượng, lúc bấy giờ ông Trác đã sắm xe du lịch Mustang, để sẵn ở Sài Gòn thì đủ biết. Tháng nào, ông ta cũng về ăn chơi xả láng, tiêu tiền như nước, nên dễ dàng chinh phục được Khánh Ly.
Sống với Mai Bá Trác có một mặt con thì năm 1972, nhân một chuyến đi hát tiền đồn để úy lạo binh sĩ, Khánh Ly gặp Đỗ Hữu Tùng, Trung tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy quân lục chiến. Bị ngay một tiếng sét ái tình, dù trai đã có vợ, gái đã có chồng, họ vẫn rất say đắm nhau. Tuy là mối tình “ngoài luồng” nhưng hầu hết những ai quen biết hai người trong cuộc đều xác nhận đây là một đôi nhân tình rất xứng đôi, vừa lứa về mọi mặt. Bây giờ, Tùng đã thành người thiên cổ. Ông ta tử trận tại bãi biển Đà Nẵng năm 1975, nhưng Khánh Ly vẫn tâm sự với bạn bè thân thiết, rằng Tùng là người mà Khánh Ly yêu thương nhất đời.
Sau tháng 1975, trên bước đường di tản, định mệnh đã xui khiến Khánh Ly gặp Nguyễn Hoàng Đoan, người chồng đang sống với Khánh Ly từ đó cho đến nay. Nhiều người đã tỏ ra tiếc cho Khánh Ly, vì có một người bạn (cuối cùng) đời thuộc loại văn dốt, võ dát dù ông ta mang danh là một nhà báo của làng báo Sài Gòn cũ. Nguyễn Hoàng Đoan chỉ thật sự được nhiều người biết đến từ khi sang Mỹ và trở thành “ông Khánh Ly”.
Từ năm 1972 cho đến ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, Nguyễn Hoàng Đoan thất nghiệp. Không một tờ báo nào nhận ông ta vì khả năng viết lách thì yếu kém nhưng lại giỏi ăn tạp. Ông ta đã có vợ và 2 con gái, nhưng Nguyễn Hoàng Đoan lại sống vô trách nhiệm. Chính xác, Đoan lo thân mình còn chưa xong, lấy đâu ra để lo cho vợ con. Không chu toàn được cơm áo, Đoan cũng chẳng là chỗ dựa tinh thần cho con cái. Suốt ngày, ông ta thường xuyên có mặt chầu rìa tại sòng bài Ba Hóa ở khu vực nhà thờ Huyện Sĩ. Dần dà, ông ta tán tỉnh được cô con gái của chủ sòng bài khét tiếng này, để trở thành một “đấng trai bao”! Thời gian rảnh, Đoan thường xuyên có mặt tại hai động chứa gái hạng sang. Một ở trên đường Huỳnh Tịnh Của và một tại villa số 11, đường Đặng Đức Siêu (nay là Nam Quốc Cang) để kiếm ăn và chơi lụi.
Sang Mỹ, chẳng có nghề ngỗng gì, nên Đoan phải bám váy Khánh Ly. Việc hát xướng của Khánh Ly tại hải ngoại cũng không đều đặn, thu nhập cũng chẳng là bao, đời sống cũng khá chật vật. Nguyễn Hoàng Đoan đã “tham mưu” cho Khánh Ly cách làm mình, làm mẩy và lật lọng với các bầu show. Ai mời đi hát ở đâu đó, dù rỗi rảnh, Khánh Ly vẫn hô hoán: “Chết rồi, chị trót nhận lời hát cho một người quen, lỡ nhận tiền trước rồi!”. Nếu như đối tác tiếp tục năn nỉ, Khánh Ly sẽ dở chiêu đòi tăng giá vào giờ chót, lật bài ngửa: “Vậy thì em trả thêm cho chị chút đỉnh!”. Cô thường đồng ý tham gia chương trình để bầu show quảng cáo tên tuổi ì xèo. Kề ngày diễn, Khánh Ly đột ngột đòi tăng giá từ 3.000 lên 5.000 USD mới có mặt. Thế là bầu show phải đắng cay ngậm quả bồ hòn. Giới bầu show hải ngoại đã đặt cho Khánh Ly hai biệt hiệu rất lẫy lừng: “nữ hoàng nâng giá”, và “ca sĩ xù show”. Ngay cả nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng không được Khánh Ly nể mặt. Cay đắng đến độ, trước khi qua đời, người nhạc sĩ tài hoa này đã trăn trối với vợ con: Cấm cửa, không cho Khánh Ly đến viếng!
Tháng 5/2000, Khánh Ly có về Việt Nam thăm gia đình. Quay lại Mỹ, Nguyễn Hoàng Đoan và Khánh Ly, kẻ xướng, người họa, nửa úp, nửa mở: “Việt Nam mời tôi về hát với catse 2 triệu USD. Nhưng chắc không có chuyện đó với tôi”. Chẳng cần truy cứu hư thực, mới nghe ai cũng đã phì cười, bởi sự bịa đặt hết sức ấu trĩ của “nữ hoàng nâng giá”.
Đúng là nồi nào úp vung nấy. Đáng tiếc cho danh ca của một thời.
"Nhà cách mạng lão thành" có xưng không ? - Lão ngoan Đồng
“NHÀ CÁCH MẠNG LÃO THÀNH” CÓ XỨNG KHÔNG ?
Lão Ngoan Đồng
Trên các trang mạng, chúng ta thường gặp danh từ dài lê thê: “những nhà cách mạng lão thành”, để chỉ một số nhân vật tên tuổi nào đó, đã tận lực góp công với tên Hồ chí Minh và bầy đàn, nhân danh chủ nghĩa cộng sản, lợi dụng tình thế hỗn loạn lúc đồng minh giải giới Nhật Bổn, đã có kinh nghiệm làm “cách mạng cướp chánh quyền” năm 1945 và sau nầy, đã cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa ngày 30 tháng tư năm 1975, đẩy đất nước Việt Nam rơi xuống vực sâu hố thẳm của nghèo đói khốn cùng, sau khi đã tàn sát không thương tiếc sinh mạng của những người Việt Nam không chấp nhận chúng, không hùa theo chúng, trong đó gồm cả những trẻ thơ vô tội, những nhân tài của đất nước, những người yêu nước đã ủng hộ, đã chia cơm xẻ áo, ẩn dấu bọn chúng khi chúng gập nguy nan, trong những chiến dịch diệt cộng của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, vì lầm tin chúng trong tuyên truyền láo khoét “giải phóng dân tộc”, “giải phóng miền Nam”.
Đa số những người được, hay tự gọi là nhà cách mạng lão thành, là những người đã dầy công với đảng nhưng hết khả năng lợi dụng bị cho về vườn, hoặc vì kế hoạch của phe nầy nhóm kia, đã bị “hạ từng công tác”. Có một số trong những ông hay bà cách mạng lão thành hiện nay, đời sống vật chất tuy không đến nỗi nào, vì còn được hưởng cái “sổ hưu”, nhưng họ không cam lòng, vẫn còn muốn được tôn vinh, vẫn còn hám danh lợi, quyền thế.
Muốn vậy nhưng chẳng được vậy, cho nên để đạt được tham vọng, họ kêu gào chế độ hiện hành phải sửa sai chút ít như là cho dân góp ý, cho mấy ông cách mạng lão thành lập đảng mới…, để có thể còn chen chân vào chính trường trở lại. Bởi vậy mới có hiện tượng chê trách chế độ đã đi sai đường lối của “bác hồ đã dạy”. Tuy họ bài xích đường lối của bọn lãnh đạo đảng và nhà nước hiện tại, nhưng trong lòng họ vẫn tôn vinh tên đồ tể Hồ Chí Minh và chủ thuyết cộng sản của Karl-Marx, tư tưởng của Lenin, của Mao Trạch Đông. Họ chống đối và chỉ trích chế độ hiện nay vì đã không còn “như đảng hồi trước nữa”, chớ thật ra, họ chẳng phải vì nguyện vọng của người dân là muốn Tự Do, Nhân Quyền và Tự Chủ mà chống đối đảng, chẳng phải họ muốn xoá bỏ cái chế độ độc tài, độc đảng, khát máu cộng sản đang hành hạ dân, mà họ đã từng toàn tâm toàn ý dựng lên.
Muốn được gọi là nhà cách mạng lão thành phải như các Ông Phan Chu Trinh, Phạm Hồng Thái, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, v,v…vì những vị tiền bối nầy thật tâm vì nền độc lập của nước nhà, vì tiền đồ Tự Do, Dân Chủ, Ấm No cho toàn dân, chớ họ không vì một cá nhân, một đảng phái, một chủ thuyết ngoại lai không tưởng mà dấn thân tranh đấu. Tuy những việc làm, những phong trào của các vị ấy lập nên đã bị thất bại, nhưng tên tuổi và danh dự của họ gắn liền với núi sông, được mọi người dân đương thời ca tụng, được mọi người dân đời sau mãi mãi tôn thờ, và hiện đang có rất nhiều người, cả trong lẫn ngoài nước, đang theo bước chân của họ để làm cách mạng lật đổ bạo quyền việt cộng.
Vậy còn các người hiện nay gọi là cách mạng lão thành đã làm được gì, đã phục vụ cho lý tưởng gì, phục vụ cho ai ?
Hầu hết những người gọi là nhà cách mạng lão thành đều là đảng viên kỳ cựu, công thần của đảng Lao Động ngày trước, bây giờ là đảng cộng sản Việt Nam. Họ phục vụ cho lãnh tụ của họ là tên gián điệp của cộng sản quốc tế Hồ Chí Minh, họ phục vụ cho chế độ bán nước cầu vinh, đem Tổ Quốc dâng cho cộng sản quốc tế, làm bàn đạp để thực hiện kế hoạch nhuộm đỏ Đông Nam Á Châu, thực hiện mộng bá chủ hoàn cầu của chủ nghĩa cộng sản. Họ đã tiếp tay cướp chính quyền của một chính phủ Quốc Gia mới thành hình sau đệ nhị thế chiến của dân tộc Việt Nam. Và rồi, sau khi đoạt được một nửa nước Việt Nam, họ đã công khai tư cách làm tay sai cho hai tên cộng sản đệ tam Nga và Tàu, bằng cái câu nói nhục mạ tổ tiên, nhục mạ giống nòi của tên Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam là Lê Duẩn: “Ta đánh đây là đánh cho Liên Sô và Trung Quốc, đánh cho chủ nghĩa cộng sản quang vinh”, và câu nói đó, ngày nay vẫn còn được lập lại trên tấm bảng màu đỏ, trước mả của tên nghịch tặc Lê Duẩn.
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, bọn họ đã tiếp tay cho cái chế độ tay sai ngoại bang đó, cưỡng chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa xong, họ thay đổi chế độ Độc Lập, Tự Do, Nhân Bản, phồn vinh bằng một chế độ tay sai, độc tài, tam vô, nghèo đói. Như vậy là làm cách mạng đó hay sao ? Cách mạng gì mà tất cả nhân sự của đảng và nhà nước đều ra tay mặc tình giết người, cướp của dân đủ cách đủ kiểu, diễn đủ trò bêu rếu dân tộc, sau khi cướp được chánh quyền ?
Thời gian gần đây, có một số người vì bị coi là già, hoặc vì đã hết khả năng lợi dụng, vì nhu cầu chia bè kết đảng, vì tranh quyền tranh ăn, đã bị cho về vườn, bị hạ tầng công tác, chỉ còn hưởng được cái sổ hưu, cho nên đã bất mãn, đâm ra bực tức, thù hằn cái bọn cầm đầu đã không cho họ tiếp tục xía phần ăn chia.
Hiện tượng đó đã xuất hiện trên báo chí, truyền thông mạng qua những thư ngỏ, thư thỉnh cầu, thư đề nghị thay đổi nhân sự, thay đổi chủ trương, thay đổi lề lối làm việc…, và những bài viết chỉ trích bọn tham quan (đã tham nhũng quá nhiều mà không chia chác) đã đi chệch đường lối và chủ trương của “bác và đảng”.
Thái độ uốn éo theo chiều gió nầy có phải là thái độ của người làm cách mạng hay không ?
Dẫu cho họ có những lời chê bai bọn chóp bu trong bộ máy cai trị hiện nay, nhưng chẳng có người nào xác minh rằng đảng cộng sản và tên Hồ Chí Minh là nguồn gốc gây nên tình trạng đang mất nước dần vào tay tên cường đồ trung cộng, tình cảnh thê thảm của đất nước, xã hội băng hoại, dân tình lầm than khốn khổ bởi trộm đạo, cướp giựt của các cấp cầm quyền từ trên xuống dưới.
Nếu thật tâm quay đầu vì đã thấy sự lầm lỗi của mình, muốn quay về nẽo chánh, thì phải biết bổn phận và nhiệm vụ của một người làm cách mạng phải làm gì?.
Với tình hình nổi dậy của mọi giới trong nước, mỗi ngày càng nhiều, càng cương quyết hơn. Nhưng sau nhiều năm vẫn chưa có nhiều kết quả khả quan, vì mỗi nhóm trong mọi giới dân chúng, đang còn tranh đấu riêng lẻ, chưa kết hợp được mọi lực lượng, dễ bị bọn cầm quyền thao túng, đàn áp, chưa thể sớm đưa cuộc cách mạng toàn diện đến thành công.
Muốn chuộc lại những tội lỗi đã làm vì ngu muội cả tin bọn lừa đảo cộng sản, con đường duy nhất để mọi người xá tội cho là phải làm một cuộc cách mạng đúng nghĩa, vì dân vì nước, dù có hy sinh bản thân thì cái danh nhà cách mạng lão thành đó mới chính danh, không ngượng ngùng, không xấu hổ.
Con đường duy nhất đó là cùng đi với đồng bào, cùng gánh chịu và cùng chống trả lại đàn áp của bọn cường quyền như đồng bào, cho đến khi cuộc cách mạng lật đổ cái chế độ phản dân hại nước, cái chế độ độc tài đảng trị, đem lại tư do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân hoàn thành, chớ không phải ngồi mát ăn bát vàng bằng thái độ xin cho, bằng tuyên ngôn thùng rỗng kêu to, bằng danh xưng hão là nhà cách mạng lão thành.
Không những chỉ tham gia cùng với dân trong các cuộc tập hợp phản đối bọn cầm quyền, mà phải đem tất cả kinh nghiệm và hiểu biết của bản thân về các yếu điểm, các ngón nghề gian manh của bọn cầm đầu chế độ, để giúp dân mau đạt được thành quả của cách mạng diệt cộng của toàn dân. Các người tự gọi hay được gọi là những nhà cách mạng lão thành, là những cựu bộ trưởng, là những cựu tướng tá, là những cựu nhân vật cao cấp trong bộ máy cầm quyền của việt cộng, đã từng ở trong chăn có rận với cộng sản, biết rõ hơn ai hết đường đi nước bước của chúng, biết tất cả chiến lược, chiến thuật dối dân, cướp của và đàn áp dân của chúng với mục đích kéo dài cái chế độ độc tài độc đảng toàn trị, và cũng chính họ là những người biết rõ hơn ai hết, cách chống trả lại mánh mung của bọn cầm quyền. Nếu thật tâm quay đầu cùng với toàn dân vận động, quy tụ các nhóm tranh đấu riêng lẻ thành một khối, như vậy mới là thật lòng hối cải, mới là một vốn quý cho cuộc cách mạng toàn dân.
Nếu không thật tâm quay đầu lại với toàn dân, mà chỉ vì danh xưng hão, vì tham vọng quyền thế tiền tài, thì hãy thôi đi, đừng xưng là “cách mạng lão thành” nữa, vì danh đó chỉ là ngụy danh, khi phát thanh ra, nó có mùi xú uế bao trùm cả trời đất.
Mong rằng tất cả những ai đang hiên ngang đấu tranh chống lại bạo quyền việt cộng, đừng tôn vinh những “nhà cách mạng lão thành” xin cho, đừng lấy chúng làm gương, đừng nghe theo những lời lẽ phản đối cuội, của những tên không biết hối cải nầy, có vài tên có thể là cò mồi của chế độ, sẽ phá nát ý chí vùng lên, sẽ làm mất tinh hoa chính nghĩa của cuộc cách mạng dân tộc mà toàn dân đang mong muốn và theo đuổi.
Lão Ngoan Đồng
HẠN CHẾ DU LỊCH & GỞI TIỀN VỀ VIỆT NAM - Tiến sĩ Nguyễn văn Lương
Tiến sĩ Nguyễn văn Lương
Chuyên gia điện toán và kinh tế tài chánh
Chuyên ngành quản trị thương mại quốc tế
Download sound click: here
Click: listen online
_______________________________
Hải ngoại ngày 2 tháng 2, 2013
Kính thưa Đồng Bào:
Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý vị,
Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta có nhiều ưu điểm:
Kính thưa quý vị,
Chúng ta phải làm những gì?
Bởi vì:
Chuyên gia điện toán và kinh tế tài chánh
Chuyên ngành quản trị thương mại quốc tế
Download sound click: here
Click: listen online
_______________________________
Hải ngoại ngày 2 tháng 2, 2013
TÂM THƯ GỬI ĐỒNG BÀO
Kính thưa Đồng Bào:
Là người Việt hải ngoại, chúng tôi rất mong nước Việt Nam được tự do dân chủ thực sự, để chúng tôi có dịp đóng góp tích cực, đưa Việt Nam thân yêu của chúng ta trở thành một quốc gia phú cường, thịnh vượng hàng đầu của Đông Nam Á Châu.
Kính thưa quý vị,
Là người Việt Nam, chúng ta cần phải nhận thức rằng, chúng ta đã bị CSVN lừa đảo quá nhiều rồi và đã tốn nhiều thời gian chờ đợi vì những sự lừa đảo đó, hết thủ đoạn này đến đường lối khác. Họ tuyên truyền dối trá để xâm chiếm miền Nam. Họ dùng MTGPMN làm công cụ đánh phá miền Nam. Sau khi chiếm miền Nam, họ xây nhà tù mà bảo là trại học tập để giam người miền Nam có khả năng chỉ huy lãnh đạo. Họ không cai trị được người miền Nam bất khuất, nên đã thay đổi hệ thống lãnh đạo bằng cách dùng người miền Nam, để người miền Nam mơ tưởng là có sự cởi mở.
Rồi bây giờ, họ dùng gia đình Nguyễn Tấn Dũng để tạo sự mơ tưởng đây là một chính phủ thân Mỹ nên có những sự “yên ổn” và kéo dài chờ đợi trong dân chúng rằng, Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam. Họ bày đặt nói chủ quyền với Trung Cộng, để kêu gọi người Việt hải ngoại hợp tác, nhưng sự thực, bè lũ CSVN không ngừng bắt bớ, giam cầm người trong nước đấu tranh đòi hải đảo, đòi đất đai mà VC đã dâng hiến cho Trung cộng. Và sự thật quá rõ ràng là họ đã hoàn toàn thất bại.
Năm nay, họ đang bày trò thanh trừng, dùng người tham nhũng để chống tham nhũng. Họ bày trò đổi Hiến Pháp, cải tổ chính trị trở thành đa đảng, để lừa đối người dân VN thêm một lần nữa.
Kính thưa quý vị,
Chúng ta cũng biết rằng, Trung cộng sẽ gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn sắp tới. Không đấu tranh, CSVN cũng phải tự thay đổi, vì quan thầy của chúng đang suy xụp.
Nhưng, sự kéo dài chờ đợi của người dân Việt Nam trong giai đoạn này sẽ không có lợi cho đất nước chúng ta. Cũng như, sự chờ đợi cho đến ngày Trung cộng sụp đổ để thay đổi Việt Nam, thì e rằng quá trễ, vì những lý do sau đây:
1. Những sự chờ đợi khiến Hoa Kỳ và ngoại quốc hiểu lầm là người dân trong nước hài lòng vối chế độ hiện tại, và chấp nhận những gì đang có.
2. Tài nguyên bị tịch thu bán cho ngoại quốc để trục lợi cho bè nhóm chế độ hiện hữu, cang ngay cang gia tang. Đã không biết bao nhiêu mẫu đất từ Bắc xuống Nam của người dân bị tịch thu bán cho ngoại quốc… Tuy người dân trong nước có chống đối nhưng không hiệu quả.
3. Sự nô lệ Trung cộng càng ngày càng trầm trọng, không lối thoát, sẽ đưa đến sự đồng hóa nhanh chóng của Trung cộng, vì tình trạng di dân của khối đàn ông Tàu đến Việt Nam gia tăng trong thời gian gần đây.
4. Sự thiếu khả năng, thiếu sức mạnh của một quốc gia, khiến Việt Nam mất dần tài nguyên ngoài khơi, và hải sản. Những kẻ lãnh đạo không ngừng buôn bán ăn chia những đất đai, tài nguyên cho ngoại quốc khai thác, giống như những nhà lãnh đạo của các quốc gia độc tài khác ở Lybia, Trung Đông…
5. Ở quốc nội, sự thiếu dinh dưỡng, do thức ăn nguy hiểm từ Trung Quốc, khiến dân Việt Nam thiếu thốn các điều kiện căn bản cho đời sống. Việt Nam trở thành một quốc gia lạc hậu, chỉ biết có ăn để mà sống. Yếu tố này trực tiếp gây ra nhiều khó khăn cho sự tiến bộ của Đất Nước, sự khoẻ mạnh của xã hội. Người dân Việt chết dần mòn theo thời gian, mà không có năng xuất.
6. Ở hải ngoại, nhân tài Việt Nam già yếu, hoặc dần dần qua đời. Việt Nam sẽ mất đi những khả năng chuyên môn, tiền của, trong công cuộc tái thiết Việt Nam. Đặc biệt là mat di những gạch nối, móc nối tốt giữa người Việt hải ngoại với các quốc gia văn minh nơi họ cư ngụ.
Do đó, tất cả người Việt Nam chúng ta phải nghĩ đến những gì chính yếu, những gì chúng ta làm được, để thay đổi Việt Nam càng sớm càng tốt!! Chỉ có như thế, chúng ta mới hãnh diện với những gì chúng ta đang có đã có ! Và chúng ta cùng bắt đầu cải thiện Đất Nước, đưa đời sống người dân Việt Nam lên cao, và để đưa Việt Nam trở lại vị trí “hòn ngọc của Viễn Đông”, đưa Việt Nam trở về vị trí số 1 của Đông Nam Á Châu.
Kính thưa quý vị,
Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta có nhiều ưu điểm:
1. Hoa-Kỳ hiện diện trong vùng Đông Nam Á. Đây là một điểm rất thuận lợi. Nhìn trên bản đồ thế giới, từ Âu Châu đến Á Châu, sự hiện diện của Hoa Kỳ giúp tạo ra sự ổn định. Sự ổn định đã mang lại sự dễ dàng phát triển quốc gia. Đó là chưa kể đến sự tái phối trí, lưu động, hiện hữu dài hạn của quân đội Hoa Kỳ tai vùng này!
2. Người dân từ Bắc xuống Nam bất mãn, đói khổ lầm than, họ rất mong Hoa Kỳ trở lại Việt Nam, mơ ước một sự thay đổi cho Việt Nam.
3. Hệ thống tài chánh Việt Nam gặp trở ngại một cách khá trầm trọng, sẽ bị sụp đổ bất cứ lúc nào. Tiền Việt Nam không được công nhận tại những nước ngoài. Không có Dollars, không trả được tiền lời cho những món nợ ngoại quốc, sẽ bị những quốc gia này tuyên bố Việt Nam bị phá sản, và chế độ Việt Nam phải sụp đổ như đã xảy ra cho Liên Bang Sô Viết vào đầu thập niên 1990s.
4. Chúng ta có một khối chuyên viên hùng hậu trên thế giới, có thể nói là chỉ thua nước Hoa Kỳ. Kinh nghiệm của những chuyên viên này, hấp thụ từ Đông sang Tây, từ quân sự đến dân sự, từ văn phòng đến hầm mỏ, từ tài chánh đến kỹ thuật… Họ không những chỉ có tài, mà có tiền nữa! Cộng thêm một giá trị vô giá là có sự móc nối với khối chuyên gia của dân bản xứ ! Chính vì thế, nếu đồng lòng, không có gì là chúng ta không làm được!
5. Nước Việt Nam tự do sẽ có một bộ “Ngoại Giao” vững chắc ở hải ngoại, nhờ sự hiện diện của khối người tị nạn tại những nơi họ cư ngụ, làm gạch nối với chính quyền địa phương, làm hậu thuẫn cho một Cộng Đồng Việt-Nam lớn và mạnh tại Hải Ngoại.
Chúng ta phải làm những gì?
Chế độ CSVN hiện tại chỉ còn một lợi điểm duy nhất đó là nguồn lợi tức gửi về Việt Nam gồm có: du lịch và tiền của người dân tị nạn, tiền lao động, và kinh tài thương mại tại những thành phố đông người Việt cư ngụ. Nếu không có nguồn lợi này, chế độ Việt Nam sẽ đối diện với sự sụp đổ không thể tránh khỏi.
Bởi vì:
1. Nền thương mại giả tạo có được tại Việt Nam hiện nay là kết quả luân lưu của tiền người Việt gửi về. Nó sẽ bị bế tắc như Trung cộng hiện tại vì không có mãi lực
2. Việt Nam sẽ không có sự giao thương với quốc gia lân cận một cách mạnh mẽ: Nếu không có Dollars, những quốc gia này không mang hàng hoá thừa thãi để bán rẻ cho Việt Nam (thay vì phế thải...). Việt Nam sẽ bị cô lập!
3. Việc cấm xử dụng Dollars và vàng (áp dụng từ 25 tháng 5 năm 2012) trên thị trường sẽ giúp chế độ CSN kìm chế được sự lạm phát giả tạo trong nước. Nhưng trên thực tế, CSVN đang cố thu tóm đồng bạc Dollars để dùng vào việc trả các khoản tiền lời, đẻ ra từ những số tiền lớn mà CSVN đang nợ ngoại quốc. Bởi vì tiền Việt Nam không được công nhận tại những quốc gia khác trên thế giới. Nếu không có dollars để trả tiền lời cho những món nợ này, thì CSVN sẽ bị sụp đổ như Liên bang Sô Viết trước đây.
Do đó, Người Việt hải ngoại và người dân đang sống cực khổ tại Việt Nam, cần phải hợp tác với nhau, và phải có kế hoạch vô hiệu hóa những nguồn lợi tức gửi về Việt Nam.
1. Hoa Kỳ có kế hoạch để người dân không xử dụng hàng hóa Trung cộng, Người Việt hải ngoại phải hành động tương tự, tẩy chay hàng hóa xuất cảng từ Việt Nam.2. Vì danh dự của người dân Việt Nam, nếu chúng ta còn hãnh diện về quá khứ, còn ngẩng mặt lên ngạo nghễ khi Việt Nam thay đổi, thì ngay từ bây giờ, chúng ta cần làm những điều sau đây:a. Không du lịch Việt Nam như người Cuba đã và đang còn áp dụng cho đất nước của họ
b. Không gửi tiền về Việt Nam… Năm 1954, chúng ta còn nhớ, hàng triệu người miền Bắc di cư vào Nam không có sự trợ giúp nào nhưng vẫn sinh sống được; và ngược lại, sau khi ổn định tại miền Nam, người di cư không gửi tiền về thân nhân, mà họ vẫn sống được… Kể từ năm 2004, người tị nạn Cuba đã thi hành đạo luật cấm gửi tiền về Cuba, đến năm 2009, chế độ CS Cuba phải thay đổi cơ chế pháp trị…
c. Không ủng hộ, không quyên góp cho những tổ chức từ thiện, tôn giáo, hay những tổ chức có danh nghiã từ Việt Nam. Tẩy chay hàng hóa xuất cảng từ Việt Nam.3. Người dân trong nước phải hy sinh, để thay đổi chế độ CSVN một cách nhanh chóng hơn, bằng cách không nhận tiền của người Việt hải ngoại, hoặc khuyên người hải ngoại không gửi tiền về.
Thật là mâu thuẫn, khi chúng ta có những thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ địa phương không trợ cấp, không viện trợ không quà tặng chế độ VC... mà chính chúng ta lại trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển về Việt Nam hàng tỉ dollars. Số tiền này chiếm khoảng 1/3 ngân khoản tài chánh CSVN hàng năm. Do do, sự tự nguyện không gửi tiền, không du lịch Việt Nam sẽ làm chế độ đang cầm quyền khốn đốn từ quốc nội (vì không có mãi lực), đến đối ngoại (vì không có hối đoái)…
Kính thưa quý vị:
Cộng đồng tị nạn Cuba giúp thay đổi nước Cuba được, vì họ đã quyết định không gửi tiền về Cuba, áp dụng từ năm 2004, đến năm 2009, CS Cuba đang thay đổi. Nếu chúng ta đồng lòng. Chúng ta sẽ thay đổi thể chế tại Việt Nam nhanh hơn thế nữa, với sự tiếp tay của những công ty ngoại quốc cho Việt Nam vay nợ. Trước kia, những kế hoạch cấm vận, không viện trợ, phong tỏa kinh tế,... không có hiệu quả, vì CSVN chỉ cực khổ mà không bị nợ nần… Ngày nay, CSVN nợ nần quá nhiều, mà không trả được tiền lời hàng tháng cho những số nợ này.
Chúng ta phải tự hỏi, Cộng đồng Cuba làm được, tại sao người Việt tỵ nạn chúng ta không làm được? Hoặc là, Chúng ta phải tự hỏi, chúng ta muốn thân nhân chúng ta sung sướng sau khi cộng sản Việt Nam sụp đổ, hay chúng ta muốn thân nhân của chúng ta, dân Việt trong nước chúng ta chết dần chết mòn trong nỗi chờ đợi như bây giờ?
Chúng ta phải suy nghĩ và tìm hướng đi cho Việt Nam của chúng ta! Muốn chế độ CSVN phải sụp đổ sớm, điều phải làm ngay từ bây giờ là người Việt tại hải ngoại không mua hàng hóa của Việt Nam, không du lịch, và không gửi tiền về Viêt-Nam! Người Việt trong nước cũng khẳng định lập trường với thân nhân của mình, không nhận tiền từ nước ngoài gửi về dù nhiều hay ít!
Tôi tin chắc chắn rằng, với sự hợp tác của người Việt trong và ngoài nước, chỉ trong một tương lai gần, rất gần… nước Việt Nam sẽ được giải thoát khỏi ách cộng sản!. Và với sự đóng góp của người Việt hải ngoại cho một nước Việt Nam không cộng sản! Nước Việt Nam sẽ được kính phục khắp năm châu, trong đó có cả kẻ thù của chúng ta tại phương Bắc: Trung Cộng.
Xin kính chào quý vị trong tinh thần cương quyết giải thể chế độ cộng sản tại Việt Nam, để quang phục Quê Hương, đưa Việt Nam đến sự phú cường thịnh vượng nhất tại Đông Nam Á Châu!
Tiến Sĩ Nguyễn Văn Lương
Hoa Kỳ, tháng Giêng 2013
San Jose: Họp báo đề tài "Giảm kiều hối hải ngoại về VN" 12/4/2013
Saturday, April 19, 2014
The dirty secret on Capitol Hill
- Every member of US Congress gets free Hustler magazine every month
News Corp Australia

Dirty little secret ... every US politician has a free subscription to “Hustler”, whether they want it or not.Source: News Corp Australia
THE 535 members of the US Congress have had an unusual pornography problem for more than three decades.
Since 1983, Hustler founder Larry Flynt has provided free subscriptions of his pornographic publication to each and every politician, the National Journal reported on Friday.
The magazine arrives each month in a plain envelope with the rest of the mail, which is then opened by assistants or interns, some of whom are not always prepared to find themselves confronted with a hardcore porn magazine.
Members of Congress walk down the steps of the House of Representatives on Capitol Hill in Washington. Source:AP
“I ‘forget’ to mention it to interns and wait to watch the look of horror on their face when they open it in a congressional office,” one staffer told the magazine.
Members of Congress tried to block delivery of the magazine in 1984, but federal court ruled that Mr Flynt had a constitutional right to petition the government.
For his part, Mr Flynt told the Hill newspaper in 2011: “Moses freed the Jews, Lincoln freed the slaves, and I just wanted to free all the neurotics,” according to the article.
Hòa giải hòa hợp với Cộng sản - Đinh Lâm Thanh
Thư không niêm gởi thành phần cò mồi đang vận động vấn đề Hòa giải hòa hợp với Cộng sản
Đinh Lâm Thanh
Đinh Lâm Thanh
Từ nhiều năm qua, thành phần nằm vùng đã công khai ra mặt kêu gọi người Việt hải ngoại bắt tay với cộng sản. Cũng cách đây không lâu, một người xuất hiện trong giới truyền thông để tung ra bài viết đầu tiên trên diễn đàn với một tựa đề thật hấp dẫn, ‘Hòa giải là một nhu cầu có thật của dân tộc Việt Nam’… như một quả bóng tung ra thăm dò dư luận qua nội dung ba điểm. Con người cộng sản đã thay đổi. Bối cảnh Việt Nam đã thay đổi. Nhu cầu tự giải cứu của cộng sản có thật. Cuối cùng tác giả bài viết kêu gọi ‘phải đại thức tỉnh để hòa giải là một nhu cầu có thật của dân tộc Việt Nam’. Tóm lại tất cả hành động trên của nhóm chủ trương hòa giải hòa hợp cũng như những người cò mồi không ngoài mục đích cổ võ cho thủ đoạn thôn tính cộng đồng người Việt hải ngoại của cộng sản Hà Nội.
Và mới đây, một tên Phó Thủ Tướng công du Bắc Mỹ Châu, không ngoài mục đích đi đêm với vài thành phần thiếu lập trường chính trị, không ngoài mục đích kêu gọi ‘hòa giải hòa hợp’. Nhưng mục đích kêu gọi là gì ? Kêu gọi hòa giải hòa hợp với ai ? Với người trong nước ?
Một câu hỏi tôi muốn đặt ra trước tiên với thành phần cò mồi giải hòa hợp cũng như tất cả những ai đang hùa theo chiêu bài nầy. Các ông bà kêu gào người Việt Quốc Gia bỏ qua quá khứ, bắt tay với cộng sản để xây dựng đất nước, đó là quyền tự do ngôn luận của ông bà trong một xứ tự do!. Nhưng các ông bà có dám nói thẳng với Hà Nội là kẻ có lỗi phải tỏ thiện chí trước bằng cách nhận tất cả tội ác tày trời của họ đã gây ra cho dân tộc Việt Nam (nói chung) cũng như nhân dân miền Nam (nói riêng) từ ngày chúng đem búa liềm từ Liên sô và Tàu cộng về gỏ đầu siết cổ dân tộc Việt Nam?. Có dám lên tiếng yêu cầu Hà Nội phá bỏ những nơi ‘trưng bày tội ác Mỹ-Ngụy’ trên toàn lãnh thổ Việt Nam?. Bỏ ngay các chương trình nhồi sọ trẻ em căm thù chế độ cũ qua tuyên truyền cũng như trong sách giáo khoa?. Các ông bà có dám đòi hỏi cộng sản phải trả lại đất đai tài sản đã cướp của đất nước cũng như của dân chúng Miền Nam đồng thời ngưng ngay việc rút tỉa tài nguyên quốc gia và đòi lại các phần đất-biển đã hiến cho Tàu cộng?. Các ông bà có cam đảm đề nghị bỏ chương trình kiều vận đầu độc và phá hoại cộng đồng người Việt tự do hải ngoại v..v… Nếu các ông bà là những người yêu nước thật sự, có cái cam đảm của một người làm chính trị và một chút liêm sỉ của con người để có thể tự hào ngửa mặt lên, thì làm hãy mạnh dạn đòi hỏi cộng sản phải thực hiện những gì tôi đề nghị trên đây trước khi mở lời vận động lá bài hòa giải hòa hợp với cộng đồng người Việt Tự Do hải ngoại.
Tôi hoàn toàn đồng ý rằng, là người Việt da vàng máu đỏ, cùng một bọc trứng chui ra thì giận hờn nào cũng phải nguôi, căm thù nào cũng có thể xóa bỏ sau 39 năm chấm dứt chiến tranh. Nhưng hành động nầy chỉ xảy ra khi hai bên đều phải tỏ thiện chí xóa bỏ quá khứ, thành tâm nhận lỗi, sám hối, kẻ có tội phải chuộc lỗi bằng hành động chứ không phải là những lời kêu gọi suông, bịp bợm và giả dối. Đối với đảng cộng sản, một mặt chúng tha thiết kêu gọi bỏ qua quá khứ, xích lại gần nhau để xây dựng đất nước nhưng mặt khác chúng đã làm gì ? Tôi thiết nghĩ, không những dân chúng Việt Nam mà toàn thế giới đều nhận ra mối căm thù sâu đậm và những hành động bỉ ổi của cộng sản đối với chế độ cũ. Từ việc dùng áp lực ngoại giao để đục bỏ bia tưởng niệm thuyền nhân trên các quốc gia Mã Lai và Nam Dương, san bằng đào xới các mộ bia anh hùng tử sĩ Miền Nam, trưng bày ‘tội ác của Mỹ-Ngụy’, đầu độc nhồi sọ trẻ con căm thù chế độ cũ và hàng năm tổ chức ăn mừng chiến thắng trên xương cốt của hàng ngàn người dân vô tội trong biến cố mậu Thân 1968. Ngoài ra chúng còn cướp hằng tỷ Mỹ Kim từ trong nước đưa ra phá hoại cộng đồng người Việt nước ngoài…. thì đây có phải là thiện chí của cộng sản muốn bỏ quá khứ để mở đầu chương trình hòa giải hòa hợp hay càng gây thêm thù oán ?. Muốn bắt tay nói chuyện hòa giải mà miệng ngậm nọc độc, tay để trên cò súng, vai vác mìn, túi lận lựu đạn ! Như vậy, bàn chuyện hòa giải thì con nít cũng thấy ngay cái trò hề của bọn rừng rú, say máu, hung hăng ngồi xe tăng nhưng lại đội lốt ngoại giao để đi cầu viện hòa giải với người Việt nước ngoài là thành phần mà chúng (vc) xem là kẻ thù truyền kiếp !
Lịch sử chưa bao giờ xảy ra vấn đề bắt tay hòa giải hòa hợp giữa Tự Do với cộng sản, mà giữa hai đối thủ chỉ có một mất một còn. Nhưng nếu ai cho rằng Việt Nam ở vào trường hợp ngoại lệ thì tôi xin nhắc một điều căn bản cần phải có, để làm nền tảng mở đầu bằng một sự cảm thông trước khi gặp gở, đàm thoại, thương thuyết, rồi mới nói đến chuyện bắt tay hòa giải: đó là cộng sản Việt Nam phải thành tâm ăn năn sám hối những tội ác do mình gây ra đồng thời phải tỏ thiện chí bằng hành động đúng theo các điều kiện tôi đưa ra ở phần trên. Đây là điểm then chốt bắt buộc phải có trước khi đề cập các giai đoạn tiếp theo.
Xin nhắc lại, cộng sản Việt Nam là một đảng lì lợm, không liêm sỉ, láo khoét, tráo trở thì chắc chắn chúng không bao giờ ăn năn sám hối mà còn có thái độ trịch trượng, cao ngạo chiến thắng của một đám cướp núi vô học vừa ‘đổi đời’, vậy tại sao một số người ở hải ngoại vẫn kêu gào người Việt Tự Do bỏ qua quá khứ bắt tay hòa giải ? Đây chính là điểm quan trọng mà tôi có thể khẳng định rằng vấn đề hòa giải hòa hợp với cộng sản sẽ không bao giờ xảy ra. Vậy các tổ chức và những ai thường hô hào hòa giải hòa hợp với cộng sản, nếu thấy xã hội chủ nghĩa là thiên đường lý tưởng thì nên trở về Việt Nam chung sống với chúng nó, đừng lợi dụng lòng bao dung của cộng đồng người Việt để vinh thân phì gia rồi tuyên truyền thay cho cộng sản.
Như tôi đã trình bày nhiều lần, không bao giờ có vấn đề hòa giải hòa hợp giữa Tự Do và cộng sản, nghĩa là bắt tay giữa trắng với đen, giữa nước với lửa và giữa thiên thần với ác quỷ. Cộng sản cũng biết vậy nhưng tại sao chúng vẫn xúi giục nhóm cò mồi đón gió ngày đêm hô hào cổ võ, vì đây là một vấn đề sinh tử của đảng cộng sản. Chúng muốn mượn chiếc dù người Việt hải ngoại để chống đỡ chế độ thêm một thời gian trước những biến cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với Việt Nam. Cộng sản chỉ biết thương tiền của Việt kiều, chúng căm thù cộng đồng hải ngoại thì làm cách nào để chúng có thể liều mạng mở rộng vòng tay ôm những người mà chúng vừa đố kỵ vừa lo sợ vào lòng ! Nhưng chế độ cộng sản hiện đang đứng trước vực thẳm, chỉ có con đường dùng xảo quyệt, tung hỏa mù bắt tay với cộng đồng hải ngoại để hy vọng kéo dài những ngày cuối cùng của chúng. Thật vậy, cộng sản Việt Nam đang bị sức ép giữa hai thế lực, một bên là quan thầy ‘xì thẩu đỏ’ đang lấy thịt đè người, lăm le ăn tươi nuốt sống thằng đàn em dễ bảo. Không biết lúc nào con cháu ‘bác Mao’ kéo qua để ‘dạy cho Việt Nam’ thêm một bài học, nếu chuyện nầy xảy ra thì lúc đó cơ nghiệp của đảng cộng sản chỉ còn cháo trắng với hột vịt muối. Một bên là ông bạn đồng minh ‘tư bản trắng’ với trò đểu cây gậy và củ cà rốt, nhân danh nhân quyền để thị oai và hứa hẹn lung tung làm cho nội bộ đảng nghi kỵ, chia rẽ, chia phe đấm đá và thanh toán lẫn nhau, thì giải pháp bắt tay với cộng đồng hải ngoại, dù là bịp bợm, nhưng sẽ đạt được những mục đích quan trọng. Tại sao đến giờ nầy vẫn còn những người hô hào hòa giải hoà hợp ? Tôi có thể khẳng định rằng, nhóm người nầy nếu không phải là cộng sản nằm vùng thì đích thực là hạng người cò mồi đón gió đang vung vít chường mặt ra, không ngoài mục đích đầu tư chính trị để tìm cách lọt vào mắt ‘đỏ’ của Hà Nội. Chúng hy vọng một mai kia, nếu có chút ít gì thay đổi do cộng sản giật dây, thì cũng kiếm được chút cơm thừa do Hà Nội vãi ra. Gọi chúng là thành phần ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản thì thật chính xác.
Nhưng xin những ai đó đừng lầm, đây chỉ là cái bánh vẽ đưa ra để lừa người nào còn mê ngủ. Cộng sản không tin bất cứ một ai, dù là đảng viên trung kiên cùng nằm gai nếm mật, chung mâm chung chiếu, họp hành ăn nhậu với nhau hằng ngày… nhưng một khi vì một chút quyền lợi nào đó chúng trở mặt xâu xé ám hại lẫn nhau như trường hợp hiện nay giữa hai tên thủ tướng và chủ tịch nước ! Huống gì thành phần hòa giải mà người Việt tự do hải ngoại xem như loại ‘cá lòng tong’, gồm những người bất nhất, tham lam địa vị, ham ăn, mê tiền, phản thầy lừa bạn, lại học được những cái ma giáo của tư bản thì không bao giờ gây được lòng tin của bọn ‘tào tháo’ cộng sản ! Chẳng qua chúng dùng cò mồi hải ngoại không ngoài hai mục đích : đánh bóng chế độ và phá hoại cộng đồng.
Tôi ngạc nhiên trong vụ ồn ào trên các diễn đàn điện tử vừa qua được nhiều người xuất hiện góp ý về vấn đề hòa giải hòa hợp, ngoài những tay chuyên nghiệp thường nhảy vào xưng tên xưng tuổi còn có nhiều trí thức ởm ờ quay chiều ủng hộ. Thành thật xin lỗi để nói rằng những vị nầy cũng chỉ là loại ‘cá lòng tong’ dưới mắt của Hà Nội không hơn không kém, thì nên xét lại cho thân phận của mình để khỏi mai một sau khi hai bàn tay đã bị dính chàm !
Tóm lại xin ghi nhận nằm lòng 4 điểm:
1. Hòa giải hòa hợp với cộng sản là ủng hộ một chế độ ‘đảng bóc lột người’, bao che kẻ thù đã dùng kẽm gai súng đạn để cai trị trên 80 triệu dân Việt Nam từ trên nửa thế kỷ nay. Hành động hòa giải chính là một hình thức pháp lý để hợp thức hóa sự tồn tại của tập đoàn khát máu cộng sản trên đất nước Việt Nam.
2. Hòa giải hòa hợp với cộng sản là mặc nhiên đồng lõa vấn đề tham nhũng của chế độ Hà Nội, có nghĩa là hợp thức hóa tất cả những gì mà cộng sản đã ăn cướp từ Tổ Quốc đến vơ vét của người dân kể từ ngày chúng cướp chính quyền miền Bắc (1945) và xua quân vào cưỡng chiếm miền Nam (1975).
3. Hòa giải hòa hợp với cộng sản là một hành động phá hoại trực tiếp, bóp chết các phong trào tranh đấu, làm mất niềm tin của những người đã và đang xả thân hy sinh mạng sống đứng lên đòi tự do dân chủ trong nước, đồng thời chính là ngọn giáo đâm thẳng vào cộng đồng người Việt tự do hải ngoại.
4. Hòa giải hòa hợp với cộng sản là phản bội lại Tổ Quốc, Dân Tộc, chính thể Việt Nam Cộng Hòa và tất cả những người đã nằm xuống trong cuộc chiến chống quân xâm lăng cộng sản, là phản bội những người đã chết cho Tự Do trong trại tù cải tạo cũng như trên các ngả đường trốn chạy cộng sản. Chính những hy sinh xương máu của những người chết bởi bàn tay cộng sản đã thức tỉnh lương tâm nhân loại cũng như đầu tư tình cảm thế giới tự do để họ mở rộng vòng tay đón tiếp và nuôi dưỡng những người mất tổ quốc, trong đó có thành phần mà ngày nay đang cổ võ hô hào hòa giải hòa hợp cho cộng sản.
Như vậy, dù dưới góc cạnh nào, hòa giải hòa hợp với cộng sản chính là thi hành mệnh lệnh nghị quyết 36 của cộng sản Việt Nam trong chương trình kiều vận, mua chuộc, nhuộm đỏ và phá hoại của kẻ thù đang nhắm vào tâp thể người Việt hải ngoại.
Tôi đưa vấn đề nầy ra công khai và hoàn toàn chịu trách nhiệm của một người cầm bút. Đây là một vấn đề quan trọng trước hiện tình đất nước mà cộng đồng người Việt Quốc Gia cần quan tâm, phải đưa lên hàng đầu trong chương trình tranh đấu. Với một vài ý nghĩ nêu trên, tôi xin trở lại vấn đề nầy một lần nữa và ước mong được hợp tác với những người đồng quan điểm chống vấn để hòa giải hòa hợp, cũng như sẵn sàng đối diện thảo luận công khai với những ai đón gió trở cờ, cổ võ cho chương trình kiều vận của cộng sản…
Để kết thúc bài viết, một câu hỏi xin phép đặt ra cho cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại. Chúng ta chống tay sai cộng sản đội lốt tôn giáo, văn hóa, ngoại giao, du học do cộng sản đưa ra xứ ngoài vận động xóa bỏ hận thù, tẩy chay cờ Quốc Gia, xin tiền vắt sữa đồng bào và con chiên tín đồ Phật tử…thì tại sao chúng ta không có thái độ quyết liệt với những người đang có mặt ở hải ngoại, chúng vinh thân phì gia nhờ bám vào cộng đồng mà trở mặt làm tay sai cho kẻ thù, đâm trực tiếp vào ngay lưng chúng ta ?
Đinh Lâm Thanh
Hoà hợp Hoà giải và Lòng thù hận - Lão Ngoan Đồng
Hoà hợp Hoà giải và Lòng thù hận
Lão Ngoan Đồng
Chiến Tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, cũng là ngày mà mọi người Việt Nam yêu chuộng tự do đã mất đi quê hương của mình. Đã 39 năm qua, nhiều người cho rằng trải qua một thời gian dài như thế, thù hận gì cũng qua đi, để chúng trôi vào quên lãng , hảy xóa bỏ lòng thù hận, để cùng nhau xây dựng lại quê hương. Lời kêu gọi mới nghe qua, làm cho lòng nhiều người cảm thấy bồi hồi, muốn góp một bàn tay của mình bằng kiến thức, bằng tài vật , mà bấy nhiêu năm nay mình đã tạo dựng nên . Có một thiểu số người đã làm như vậy, nhưng đa số dứt khoát chống laị đề nghị đó. Taị sao lại chống cái đề nghị có vẽ như yêu nước như thế ?
Có rất nhiều lý do để chống lại:
- Về việc “hòa hợp,hòa giải dân tộc”
Hòa hợp hòa giải thì phải là việc làm của cả hai phía: kẻ gây ra tội ác và nguời bị hại. Kẻ gây ra tội ác là “nhà cầm quyền cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Những kẻ cầm quyền của chế độ, chưa một lần công khai nhận tội do họ gây ra cho cả người dân hai miền Nam, Bắc kể từ khi Hồ chí Minh, tên tay sai của quốc tế cộng sản chủ nghĩa, cướp chính quyền năm 1945 cho đến tận ngày tháng hôm nay, chúng chưa từng xin lỗi với những đồng bào Việt Nam đã bị bọn chúng gây cho cảnh nước mất, nhà tan, bị cướp đi tài sản, gây cho gia đình họ phải phân ly, những đứa con phải mất cha mẹ anh em, gia đình quyến thuộc. Bỏ tù những công dân của Việt Nam Cộng Hòa trong những trại cải tạo trên toàn cõi Việt Nam, vô duyên cớ, vô pháp luật .
Kẻ gây nên tội ác đã không nhận tội, không xin tha thứ cho những tội lỗi của chúng đã làm, thì thử hỏi trên cõi đời nầy, có nguời bị hại nào chịu tha thứ cho những kẻ đã gây tội ác không biết hướng thiện đó ?
Những người kêu gọi hòa hợp hòa giải với bạo quyền Việt Cộng là những nguời không có óc, không có tim, hoặc là những tên cho rằng tiền bạc là trên hết, vì lợi ích tiền tài và quyền lực cá nhân mà quên đi cả lương tri, quên hết sĩ diện của một con người.
Hơn thế nữa, có một số người “không thèm” nghĩ đến dã tâm của bọn cầm quyền “nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa”, là những tên tay sai cho Trung cộng, sẵn lòng bán nước, bán dân để vinh thân phì gia. Họ đã viết những lá thư ngỏ, gởi cho bọn mãi quốc cầu vinh để yêu cầu nầy nọ, mà họ không biết rằng bọn tay sai Việt Cộng, nhất cử nhất động của chúng, đều phải xin lệnh của Hoàng đế Trung Cộng, mà Trung Cộng đang thực hiện âm mưu xâm chiếm nước ta, thì đời nào chúng chịu cho Việt cộng thả lỏng sự kềm kẹp người dân?. Cho nên những bức thư nầy chỉ là những tờ giấy lộn, đã bị chúng coi là những tờ giấy quảng cáo, đã vứt vào sọt rác mất rồi. Không những uổng công phí sức mà còn làm hại đến danh dự của những nhà trí thức Việt Nam nữa.
Bản chất của những tên đảng viên đảng cộng sản là ngoan cố. Trong lịch sử của đảng cộng sản quốc tế, mấy ai nghe được, biết được, có tên cộng sản nào khi đang còn cầm quyền trong tay, biết hối lỗi, biết nhận tội, biết sửa sai bao giờ ?
Đối với cộng sản, muốn chúng nghe theo, chỉ có một cách là chỉa súng vào đầu rồi RA LỆNH cho chúng, họa may chúng mới nghe theo, không có yêu cầu, không có năn nỉ ỷ ôi gì đuợc cả.
- Về lòng thù hận:
Nếu không ở trong hoàn cảnh có người thân bị giết, tài sản của gia đình, thân nhân bị cướp, bị giựt; Nếu không bị cướp mất hết tài sản do mồ hôi nước mắt tạo dựng nên, bị đuổi đi vùng kinh tế mới trong vùng đồng hoang nắng cháy, trong rừng sâu nuớc độc, không cách gì để tìm kế sinh nhai; Nếu không bị cầm tù trong những nhà tù trại cải tạo, bị sỉ nhục, bị hành hạ, bị bỏ đói, bị bắt làm trâu kéo cày, bị chia cách với cha mẹ, vợ, chồng, con cái, v.v.. thì không thể nào hiểu nổi lòng căm thù của người bị hại đối với bọn đã tàn hại họ.
Đối với những nguời không bị rơi trong hoàn cảnh của những thống khổ kêu trời không thấu, kêu đất không nghe, thì nói những chữ: “quên đi hận thù” rất dễ dàng. Nhưng còn những nguời bi hại bị thống khổ thì không thể quên được.
Quên đi thù hận làm sao được khi mà những kẻ đã tàn hại mình vẫn còn đang ngất ngưởng trên cao như ông hoàng, bà chúa ?
Quên làm sao được khi những kẻ ác ôn côn đồ vẫn còn tiếp tục hành hạ đồng bào mình, thân nhân mình bằng luật rừng rú, qua những hành động tàn ác như những tên thổ phỉ ?
Quên làm sao được khi những tên đầu trâu mặt ngựa trong bộ máy cầm quyền, làm tay sai cho ngoại bang Trung cộng, bán đất, bán biển, nhượng tài nguyên của Tổ Quốc Việt Nam cho đế quốc cộng sản Trung Hoa, coi dân mình như những tên nô lệ ?
Quên làm sao được những tên đảng viên cộng sản mất gốc, không coi trọng luân thuờng đạo lý, bỏ đi tình nghĩa đồng bào, độc ác khát máu ?
Quên sao được những tên cán bộ các cấp trong bộ máy cầm quyền của lũ vô thần cộng sản. Chúng đã vì quyền lợi ăn trên ngồi trốc, với lòng tham không đáy, đang cướp giựt tài sản của nguời dân vô tội. Tài sản của bọn chúng tính ra không thua gì tài sản của những tỷ phú Tây Phương. Những tài sản nầy là xương là máu của những người dân thấp cổ bé miệng, là tiền hối lộ, tham nhũng, bán tài sản của quốc gia mà ra. Bọn chúng là những tên TƯ BẢN ĐỎ có độc quyền sinh sát trong tay.
Quên làm sao được những người vì tranh đấu cho tự do, tranh đấu cho quyền làm người, tranh đấu cho sự công bằng trong xã hội, tranh đấu cho tự do tín ngưởng, đã bị chúng đàn áp dã man, giam hãm, hành hạ những nguời đòi hỏi quyền chính đáng cho dân tộc vào lao tù, bằng những luật lệ vô nhân tánh, bất chấp cả lời phê phán của cộng đồng quốc tế ?
Những căm hận hận nầy càng ngày càng chồng chất, tạo nên một sức mạnh chẳng đặng đừng, không thể van cầu được nữa. Nguời dân đang sống trong gọng kềm của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, đã hiên ngang đứng lên đòi lại quyền làm nguời, quyền làm chủ đất nước thân yêu, đòi lại tài sản đất đai của mình đã bị nhà nước cưỡng đoạt, qua những cuộc biểu tình chống đối của dân oan, của thanh niên sinh viên, của những người còn quan tâm đến vận mệnh của Tổ Quốc .
Những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại, đang đứng lên, dùng mọi phương tiện sẵn có, ủng hộ và tiếp tay với những đồng bào quốc nội đang nổi dậy chống lại bạo quyền Việt cộng, với mục đích giải thể chế độ độc tài, khát máu đang cầm quyền.
Trong số đồng bào hải ngoại đang đứng lên chống lại kẻ nội thù Việt cộng, và ngoại bang Trung cộng xâm lược, có hai thành phần: Người có thù hận và những người không có ân oán gì với Việt cộng.
Người có mối thù với Việt cộng là những thuyền nhân đã bị bọn Việt cộng ác hại, đày đọa, tài sản bị cướp giựt bởi những thủ đoạn bất lương, bị nhốt trong những nhà tù khổ sai mà bọn Việt công gọi là trại cải tạo, hoặc thân nhân của họ đã bị bọn cách mạng sát nhân giết hại, hoặc những người đã bị những nỗi oan khiên không bút mực nào diễn tả cho hết, do bọn Việt cộng và bọn cách mạng ba mươi tạo nên.
Không những thế, những người chưa hề bị khốn khổ bởi Việt cộng, họ cũng đứng lên vạch mặt bọn dã thú đội lốt nguời mang tên Việt cộng. Những nguời nầy là ai?
Họ là những người vào thời điểm 30 tháng 4 năm 1975 mới vừa được năm ba tuổi, hoặc vẫn còn đang nằm trong bụng mẹ, hoặc đuợc sanh ra trên đất khách quê người, chưa từng chịu đau đớn, đọa đày bởi cái lũ “cách mạng từ trong rừng chui ra”, chưa có ân oán gì với chúng. Cho nên trong lòng họ, không có thù oán gì với bọn việt cộng cả. Nhưng tại sao họ quyết liệt đứng lên chống lại chúng? – Bởi vì LƯƠNG TÂM và TÌNH CẢM của một con người đang sống trong một xã hội văn minh, hưởng được mọi quyền tự do căn bản của con người và được tự làm chủ đời mình. Lương tâm của một nguời không thể ngồi yên nhìn đồng bào Việt Nam của mình, đang bị một bầy quỷ khát máu, mạng danh là nhà “cầm quyền cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, mà thật ra là bọn buôn dân bán nuớc, tay sai cho bọn Trung cộng, đang bóp hầu siết họng nguời dân, tước hết mọi quyền làm nguời, cuớp đoạt tài sản của những người dân mà họ đã nhọc nhằn, gian khổ mới dành dụm được, làm cho đời sống của những người dân thấp cổ bé miệng thua cả súc vật.
Những người trẻ tuổi nầy đã cùng nhau đứng lên chống lại bạo quyền không phải vì muốn trả thù (revenge), mà họ muốn đòi công lý, họ muốn trừng phạt (retribution) bọn người dã man đang đày đọa đồng bào của mình.
Bây giờ lại có vài tên tự gọi mình là trí thức, đã hợp xướng với bọn cầm quyền đảng và nhà nước việt cộng, kêu gọi mọi người hãy quên đi hận thù, hãy hòa hợp hòa giải dân tộc. Trong khi đó, bọn việt cộng vẫn còn đang trả thù, còn đang kỳ thị và trù ếm những người có liên hệ với chế độ Việt Nam Cộng Hòa, còn đang hành hạ những người cất vang tiếng nói, phản đối chế độ độc đảng độc tài cộng sản, phản đối cách cai trị của chúng, phản đối luật lệ rừng rú của chúng, phản đối nhà nước tay sai cho hán cộng, mà chúng chẳng cần hòa hợp hòa giải với họ, thì việc chúng đòi người khác tha thứ cho chúng, hợp tác với chúng là một điều nghịch lý, không tưởng.
Tóm lại, với cái nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người ta không thể hòa hợp, hòa giải với chúng, mà chỉ có một cách duy nhất là cùng nhau đứng lên, lật đổ cái chế độ của bọn mọi rợ, dã man hơn cầm thú đó đi. Sức mạnh thúc đẩy tiềm lực vùng lên là do sự hận thù đã nung nấu triền miên, là do lương tâm và tình cảm của những những con nguời không vị kỷ, không vì quyền lợi cá nhân, mà chỉ vì tình nghiã ĐỒNG BÀO, vì ân sâu của TỔ QUỐC.
Lão Ngoan Đồng
Subscribe to:
Comments (Atom)















