Saturday, July 14, 2012

Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

    Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh
Hoàng Nhật Thơ

Quân đội là một tập thể lớn nhất trong một quốc gia, được hình thành từ đủ mọi thành phần trong xã hội ở khắp mọi miền đất nước theo luật động viên hoặc tổng động viên ... Vì thế tập thể quân đội rất phức tạp nhưng sự phức tạp này đã được trui rèn trong những lò luyện thép để trở thành một tập thể kỷ luật nhất với trách nhiệm cao quý "Bảo Quốc-An Dân".

Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được Quốc Trưởng Bảo Đại thành lập năm 1949 cho đến khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26/10/1955, Vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của nước Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm với tư cách là nguyên thủ quốc gia kiêm tổng tư lệnh tối cao đã cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng thân thương này được trân quý giữ cho đến ngày hôm nay và mãi mãi.

Từ sau cuộc chính biến ngày 01/11/1963, cuộc chỉnh lý tháng 01/1964 cho đến năm 1965, tình hình chính trường Miền Nam Việt Nam thật sự rối ren, bất ổn bởi những cơn lốc chính trị ... tên đồ tể Hồ Chí Minh và bọn CSBV đã lợi dụng tình trạng này để gia tăng đánh phá trong mưu đồ thôn tính MNVN. Trước những cơn phong ba chính trị với cơn bão lửa chiến tranh lan dần và sau nhiều phiên họp của Thượng Hội Đồng Quốc gia ... Chính phủ dân sự do Thủ Tướng Phan Huy Quát lãnh đạo đã quyết định trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho quân đội.

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương được thành lập và trình diện trước quốc dân ngày 19/06/1965. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, đã thay mặt đại gia đình quân đội nhận lãnh trọng trách lèo lái con thuyền Quốc Gia trong cơn nghiêng ngả của đất nước. Vì thế ngày 19/06 được gọi là ngày Quân Lực, chớ không phải là ngày Thành lập Quân Lực VNCH như một số người đã hiểu sai.

Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề hơn đối với quốc gia, dân tộc ... Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm "Bảo Quốc-An Dân", họ còn phải chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh trên dòng sông lịch sử.

Nói đến quân đội là phải nói đến Người Lính, những người đã đem cả cuộc đời, một phần thân thể và sinh mạng để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tang thương kéo dài 20 năm bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương do tên tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.

Nhân dịp lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 46, người viết xin được trải lòng mình trong những dòng chữ hạn hẹp, kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân Người Lính VNCH, những người đặt Tổ Quốc_Dân Tộc lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc-Dân Tộc hơn cả mạng sống của mình.

Trước khi gói trọn cuộc đời trong chiếc áo trận phủ dày bởi khói lửa sa trường, họ là những thanh niên sống dưới khung trời Tự Do của Miền Nam Việt Nam, ý thức được trách nhiệm của người trai trong thời loạn ... Họ từ giã học đường, xếp lại con đường công danh khoa bảng vào trang vở thơm mùi giấy học trò, giã biệt người yêu trong tiếng ve ngân ngày tháng Hạ, những cành phượng vỹ đỏ thắm nhẹ đong đưa trong gió như vẫy tay tiễn người đi khoác chinh y, bạn bè kẻ ở người đi nâng chén quan hà chúc tụng nhau những gì đẹp nhất ; Họ hy sinh tình cảm cá nhân, gia đình, người thân, người tình ... đặt bước chân vào cuộc sống quân ngũ bảo vệ, gìn giữ quê hương.

Sau những tháng ngày dài chạy đều bước 1, 2, 3, 4 ... hát vang "chân cứng đá mềm", mũi thở ra khói nơi "thao trường đổ mồ hôi", người thanh niên tuổi trẻ ngày nào đã gột rửa nét thư sinh bằng những giọt mồ hôi của mình ... Mái tóc ba phân, ánh mắt cương nghị, thân thể cường tráng khỏe mạnh được phủ bởi làn da sạm nắng cháy quân trường với lời thề "Vị Quốc Vong Thân" trong ngày lễ mãn khóa ... Người thư sinh ấy đã trở thành đứa con yêu của Tổ Quốc với tên gọi thân thương "Người Lính VNCH".

Người Lính VNCH đem tấm thân được trui rèn từ lò luyện thép, kiến thức quân sự được đào tạo từ mái trường Tổ Quốc mang hành trang "Bảo Quốc-An Dân" hiện diện trên mọi nẻo đường đất nước, gìn giữ quê hương bằng chính sinh mạng của mình.

Người Lính VNCH không đi chinh chiến xây đắp tương lai cho cá nhân mình ... Người Lính VNCH không đem sinh mạng vào vùng lửa đạn đánh đổi quyền cao chức trọng ... Người Lính VNCH không mang giòng máu thắm đổi lấy huy chương trên ngực áo ... Người Lính VNCH không đem một phần thân thể làm nấc thang binh nghiệp ... Người Lính chỉ biết đi chiến đấu cho đất nước yên vui.

Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH đi miệt mài không ngừng nghỉ, đôi giày trận mòn gót từ miền địa đầu giới tuyến nắng cháy da người ... vùng cao nguyên khô cằn sỏi đá, bụi đỏ mịt mờ ... miền Tây sình lầy nước đọng, rừng già âm u, núi đồi lộng gió cho đến cao vút không gian bao la vương dấu giày trên vùng mây trắng mênh mông ... xa ngút ngàn trùng khơi sóng vỗ lắc lư chiến hạm ... Người Lính đi trong lửa khói mịt mờ, đi trong mưa đạn pháo của quân thù, đi trên xác giặc xâm lăng, ẩn hiện như những bóng ma đi vào mật khu của giặc, âm thầm làm người chiến sĩ vô danh trong công tác đặc biệt "vượt tuyến" ... không nơi nào thiếu vắng bóng dáng Người Lính VNCH, những người đem sinh mạng che chắn cơn bão lửa chiến tranh để mang niềm vui cho đời.

Người Lính đi từ lúc mặt trời còn say ngủ, sương đêm buốt lạnh đôi vai cho đến khi quả cầu lửa khổng lồ chiếu ngay trên đỉnh đầu, bộ chinh y đẫm ướt mồ hôi, thân thể bốc khói ... Người Lính tạm dừng chân lấy nước từ sông hồ, kinh rạch, từ dây rừng đổ vào bọc gạo sấy, nuốt vội vã, hớp ngụm nước mát từ lòng đất mẹ, phì phà vài hơi thuốc lá rồi tiếp tục lên đường ... Hoàng hôn buông phủ, đơn vị tạm dừng quân ... sau khi lót lòng bằng phần lương khô, Người Lính dành chút thì giờ quý báu "từ KBC giá lạnh rừng sâu" trong cái lều vải cá nhân vội vàng viết lá thư tiền tuyến gởi về thăm gia đình ... Kẻ thì thăm hỏi, kính chúc sức khỏe mẹ già vạn an, khói lửa chiến tranh vẫn còn phủ kín quê hương nên con chưa thể về bên mẹ để làm tròn chữ "Hiếu", mong mẹ thứ lỗi cho con. Con vẫn khỏe mạnh, bình an ... Thương nhớ mẹ nhiều ; Người thì cặm cụi bên chiếc balô làm bàn nên nét chữ không ngay, trải nỗi lòng nhung nhớ vợ hiền, con thơ trên trang giấy nhỏ bé ... Thương nhớ em và con thật nhiều. Anh khỏe và an lành ; Người thì nắn nót từng nét chữ yêu thương gởi về người yêu nơi phố thị ... đã từ lâu chưa một lần về thăm ... hẹn ngày hoa giăng đầu ngõ ... Hôn Em ; Kẻ thì nguệch ngoạc đôi dòng thăm bạn bè đang ghìm súng ở một KBC nào đó. Xếp vội những lá thư còn thơm mùi mực, Người Lính vừa chợp mắt thì có lệnh lên đường ... Người Lính tiếp tục bước quân hành, âm thầm khuất vào màn đêm đen tăm tối dưới cơn mưa lạnh buốt để canh giữ quê hương cho người dân tròn giấc ngủ.

Hai mươi năm chinh chiến, hầu như Người Lính không có dư thì giờ nhiều để tắm gội nhưng họ lại là những người tắm nhiều nhất ... họ tắm trên bước quân hành dưới những cơn mưa tầm tả ngày đêm, vừa đi vừa tắm bằng giòng suối mát ngọt ngào nơi núi cao dốc thẳm, sông hồ kinh rạch, họ tắm bằng những giọt nước từ chiếc biđông nhỏ giọt trên đầu dưới sức nóng gay gắt của mặt trời và họ tắm bằng những giòng biển mặn thoát ra từ cơ thể của họ.

Hơn bảy ngàn ngày đêm, Người Lính chưa bao giờ có một lần tròn giấc, Người Lính ngủ trong thức, thức trong từng giấc ngủ ... Người Lính có thể ngủ bất cứ giờ phút nào, bất cứ nơi đâu dù chỉ năm ba phút, ngủ trong lúc di hành, ngủ trong lúc ăn, ngủ trong lúc đang nói chuyện với đồng đội, ngủ dưới cơn mưa tầm tả nơi giao thông hào, ngủ trong lúc đang đánh răng, ngủ ngay cả lúc đang đại hay tiểu tiện ... Có người đã thiếp đi vài phút dưới cơn mưa pháo của quân thù vì họ quá mệt mỏi trong một trận chiến dài nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, trận chiến 510 ngày đêm trên ngọn đồi Tống Lê Chân. Người Lính rất thèm ngủ nhưng Người Lính tự ban "quân lệnh" cho mình không được ngủ khi quê hương còn thao thức vì tiếng súng đạn xâm lăng ... Hầu như Người Lính đi và thức gần trọn cuộc đời khoác chinh y.

Hai mươi năm chinh chiến ... có biết bao nhiêu Người Lính VNCH đã ngủ quên trên chiến địa, trên vùng trời Tổ Quốc Không Gian, dưới lòng Tổ Quốc Đại Dương mãi mãi không trở về với đồng đội ... Bao nhiêu Người Lính VNCH trở về bằng mỗi một tấm thẻ bài lạnh giá hoặc ngủ im lìm trong hòm gỗ cài hoa, không bao giờ biết mặt đứa con thơ vừa cất tiếng khóc chào đời, không được nhìn thấy những giòng lệ trào tuôn trên khuôn mặt người vợ hiền đầu vừa chít vội mảnh khăn tang ... không được vuốt mái tóc người tình hay vị hôn thê mới vừa đeo chiếc nhẫn đính hôn tháng rồi nay tan nát tâm hồn quấn chiếc khăn tang đang gục đầu trên quan tài gỗ được phủ lá quốc kỳ ... không được tự tay lau những giọt lệ từ giòng nước mắt khô cạn của người mẹ già yêu quý.

Hai mươi năm chinh chiến ... bao nhiêu Người Lính VNCH trở về không nguyên vẹn hình hài ... kẻ trở về với một hoặc hai ống tay áo dư thừa ... người thì vĩnh viễn không bao giờ mặc lại được cái quần dài vì đôi chân đã gởi lại chiến trường ... người thì mãi mãi sống trong bóng tối suốt quãng đời còn lại vì họ đã hiến dâng cặp mắt cho hai chữ Tự Do của Miền Nam Việt Nam. Trong thời chiến, họ đem tấm thân gầy chống đỡ giang san ... ngày tàn cuộc chiến, họ lê tấm thân phế tàn chống đỡ tang thương, bất hạnh phủ trùm lên thân phận người thua cuộc kéo dài hơn một phần ba thế kỷ.

Chinh chiến triền miên không biết bao giờ chấm dứt ... Anh miệt mài đi mãi ... đem sinh mạng đi canh giữ quê hương ... lấy máu hồng đi dập tắt ngọn lửa chiến tranh ... đi cho đến khi nào người dân không còn kinh hoàng, hốt hoảng dìu dắt, bồng bế nhau chạy loạn trong khói lửa ngút trời bởi thảm họa chiến tranh do lũ cộng sản gây nên ... đi cho đến khi không còn thảm cảnh đứa bé thơ đang ngậm bầu sữa khô, nút những giọt máu rỉ ra trên xác người mẹ vừa chết bên ven đường bởi đạn thù, pháo giặc ... đi cho đến khi đất nước thật sự thanh bình, người dân được sống an vui, hạnh phúc, tiếng cười đùa của trẻ thơ rộn rã khắp nơi nơi, tiếng ê a hồn nhiên tuổi thơ vang lên dưới mái trường làng rợp bóng mát thanh bình, tự do.

Đường quân hành dịu vợi mù xa ... đôi chân nhỏ bé của Người Lính đã vượt qua ngàn ngàn cây số, bao nhiêu sông hồ kinh rạch, núi thẳm rừng sâu, sình lầy nước đọng, muỗi đỉa bám đen cả thân mình ... gian nan trên mỗi bước đi, hiểm nguy trong từng hơi thở, tử thần lảng vảng bên cạnh, cái chết có thể đến bất chợt trong buổi ăn, giấc ngủ ... Nhưng Người Lính VNCH, những người nguyện hiến dâng cuộc sống cho đời nào có xá chi hiểm nguy, chết chóc khi quê hương còn vang rền tiếng súng xâm lăng. Người Lính VNCH ơi ... Anh thật là cao cả.

Hai mươi năm lao vào vùng lửa đạn do tên Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên ... Hằng ngàn ngàn quân lệnh ban ra ... phải chiến thắng, phải dứt điểm mục tiêu, phải giải quyết chiến trường không để một tấc đất quê hương, một căn nhà người dân lọt vào tay quân giặc ... Lá Quốc Kỳ màu Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu phải tung bay phất phới trên xác giặc trong thời hạn bắt buộc. Người Lính VNCH nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh không một lời than van, hiên ngang bước vào vùng tử địa, đem máu đào và sinh mạng của mình giành lấy chiến thắng mang về dâng lên Tổ Quốc.

Trước khi đi vào chốn hiểm nguy, lao mình vào vùng lửa đạn, Người Lính VNCH không nghĩ đến gia đình mà chỉ nghĩ đến sự an nguy của quê hương dân tộc ; Trong vùng lửa đạn mịt mờ ... Người Lính VNCH vừa chiến đấu vừa bảo vệ người dân, dù Người Lính bị thương thân thể đẫm máu, họ vẫn cố gắng dìu dắt người dân, bồng bế trẻ thơ, cõng ông lão, bà cụ thoát khỏi vùng hiểm nguy ... Người Lính VNCH chẳng những bảo vệ người dân mà còn chăm sóc, chữa trị vết thương cho những tù binh cộng sản bị bắt trên chiến trường, Người Lính VNCH tự tay băng bó vết thương cho tù binh, đút cho họ ăn từng muỗng cơm, từng ngụm nước, gắn lên môi họ điếu thuốc sau đó tải thương giao họ lại cho các cơ quan thẩm quyền đưa về điều trị vết thương, khai thác và giáo huấn họ trở về con đường chính nghĩa của quê hương dân tộc. Đây là tánh nhân bản của Người Lính VNCH trên con đường lý tưởng "Bảo Quốc-An Dân".

Người Lính VNCH chèo chống con thuyền quốc gia trong cơn bão lửa chiến tranh, cắm ngọn cờ chiến thắng khắp mọi nơi từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến dài xuống tận mũi Cà Mau phần đất cuối cùng của quê hương. Sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, quân đội CSBV đã kiệt quệ, chiến tranh lắng dịu, quê hương hồi sinh, nắng ấm thanh bình tạm trải dài muôn nơi sau trận chiến kinh hồn, máu và lửa đỏ cả quê hương suốt năm tháng rưỡi trong cuộc chiến tang thương dài triền miên.

"Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu ...". Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, Người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo một chiến công lẫy lừng làm cả thế giới nghiêng mình kính phục ... Lá Quốc Kỳ tung bay khắp mọi miền đất nước dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời thì cũng là lúc Người Lính VNCH bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH, Người Lính VNCH bị bức tử gãy súng ... Con thuyền quốc gia chuyên chở "Tự Do-Hạnh Phúc" cho người dân Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươi năm đã bị người bạn đồng minh nhẫn tâm nhận chìm vào giòng sông máu của cộng sản ngày 30/04/1975.

Năm vị tướng lãnh cùng một số Quân Cán Chính VNCH các cấp đã quyên sinh theo con thuyền quốc gia nhưng họ không chìm vào giòng sông máu của cộng sản ... Họ miên viễn đi vào lòng đất mẹ, linh hồn quyện vào Lá cờ Hồn Thiêng Sông Núi ... Họ đã hiên ngang, can trường đi bước quân hành cuối cùng trong sự uất nghẹn "gãy súng" để bảo vệ danh dự cho đại gia đình QLVNCH, bảo toàn chính nghĩa Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, để lại ngàn đời sau nhắc nhớ và thương tiếc.

Ngay sau khi Miền Nam Việt Nam lọt vào tay CSBV ... Hằng ngàn Quân Cán Chính VNCH đã bị lũ quỷ đỏ mạo danh "chống Mỹ, cứu Nước" khoan hồng bằng những loạt đạn AK47 hận thù nơì pháp trường thù hận. Hằng trăm ngàn đã được "hòa hợp, hòa giải" bằng gông cùm xiềng xích, biệt giam ngục tối, bằng những cực hình tra tấn dã man, bị bỏ đói, cưỡng bức lao động trong thủ đoạn thâm độc giết dần mòn nơi các trại tù khổ sai, khắc nghiệt mang ba chữ hoa mỹ "Trại Cải Tạo" trên hai miền Nam Bắc.

Những người TPB.VNCH bị lũ quỷ đỏ chà đạp, lết lê hít thở khói xe, bụi đường bên lề cõi sống. Họ uống nước mắt uất nghẹn kéo lê kiếp sống vong quốc hơn nửa cuộc đời ngay chính trên mảnh đất quê cha mà họ đã hy sinh giòng máu, một phần thân thể để gìn giữ.

Lũ cộng sản vô thần không tim óc, độc ác, dã man cũng không buông tha những người đã chết. Chúng tàn phá nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, tàn nhẫn giẫm lên những nắm xương tàn vô tri, những thân xác mục rã không còn lòng thù hận.

Người Lính VNCH dù đặt bước chân trên con đường vong quốc trước hay sau đều trở thành những người lính già xa quê hương, đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ. Người thì buồn bã khép mắt ra đi vĩnh viễn trong nỗi uất nghẹn không nguôi ... Người thì đã về hưu sau những năm dài tạo lập cuộc sống mới nơi quê người, ngày ngày trông về cố quốc với ánh mắt xa xăm, hơi thở mỏi mòn, chiếc bóng đời đang ngã dần về Tây trên đất khách ... Người thì vẫn tiếp tục cày trả nợ áo cơm ...

Người Lính VNCH đã đi trên đoạn đường chiến binh dài bằng một phần ba đời người ... Sau ngày "gãy súng", họ vẫn cố gắng tiếp tục đi nốt quãng đường quân hành còn lại bằng con đường đấu tranh trong thời gian hạn hẹp của chiếc bóng hoàng hôn trên con đường vong quốc. Họ tranh đấu cho ai ... Họ đã có tự do, cơm no áo ấm, con cái lớn khôn thành đạt, cuộc sống ổn định thì chắc chắn một điều là họ không tranh đấu cho bản thân hay gia đình họ ... Trong thời chiến, họ không đem sinh mạng đi chiến đấu vì danh vọng, địa vị, quyền uy, chức tước thì ngày nay họ không đem tuổi già ra tranh đấu vì bất cứ một tham vọng gì ... Họ chỉ muốn đóng góp những chuỗi ngày còn lại vào công cuộc đấu tranh giải thể lũ bạo quyền CSVN, cho quê hương dân tộc không còn ngập chìm trong bể máu cộng sản ... Họ tranh đấu cho những thế hệ mai sau được hít thở không khí tự do, không còn bị nhồi sọ, cai trị bởi chủ nghĩa cộng sản bệnh hoạn, vô thần, khát máu. Hai mươi năm chinh chiến ...Ba mươi sáu năm vong quốc ... bây giờ họ là những người lính già lưu vong ... con đường chiến binh dang dở năm xưa vẫn chưa thấy đoạn cuối nhưng hơi thở của họ ... đã cạn ...

Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem cuộc đời của mình đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc cho dù phải trả cái giá đắt nhất là mạng sống.

Hai mươi năm miệt mài đi canh giữ quê hương ... Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm dưới nắng ấm thanh bình trên quê hương mến yêu mang tên Việt Nam.

Những năm dài bị lũ giặc thù tra tấn dã man, chết đi sống lại bao nhiêu lần trong các trại tù khổ sai, khắc nghiệt sau ngày "gãy súng" ... Người Lính VNCH không quỵ lụy, lòn cúi kẻ thù để được tồn tại. Người Lính VNCH trước sau vẫn thủy chung với con đường "Lý Tưởng" mà mình đã chọn, vẫn giữ được khí khái , "Danh Dự" của Người Lính VNCH khi bị bức tử trở thành kẻ thua cuộc.

37 năm vong quốc ... bao nhiêu năm đem phần đời còn lại miệt mài tranh đấu ... "Người Lính già xa Quê Hương" không có bất cứ một tham vọng chính trị nào ... Người Lính Già chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, độc ác để người dân Việt Nam có được nụ cười "Tự Do-Hạnh Phúc" mãi mãi nở trên môi.

Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh.

Hoàng Nhật Thơ

Sunday, June 10, 2012

Ai bắn què chân hùm xám Nguyễn Ngọc Loan? - Chu Việt

Chu Việt
    "Ngẫm hay muôn sự tại Trời" - Nguyễn Du
Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình.

Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968).

Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai?

Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ.

Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải).

Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH:

- Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và
- Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội.

Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ.

Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy.

Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN

Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3).

Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và chính quyền VNCH.

Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tổng giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH.

Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN.

Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN

Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập.

Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan.

Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đỉnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu.

Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”.

Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”.

Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á.

Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì?

Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi?

Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh.

Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH?

Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu?

Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học.

CIA ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Ngọc Loan

Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định thủ tiêu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”.

Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên.

Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói.

Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối.

Ai bắn nát chân tướng Loan?


Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan.

Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định:

- Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2.
- Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”.
- Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”.
- Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm.

Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai?

2005: Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura. Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette

(8). Chi tiết được biết thêm:

Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân.

Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối.

Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông.

Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA?

Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân.

Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối.

Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ.

Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9).

Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình.

Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”.

Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.

Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ.

Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin

Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4.

Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay?

Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ.

Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi…

Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều.

“Trời kia đã bắt làm người có thân” – Nguyễn Du

Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams

“Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn.

“Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.”

“Thiếu tướng Loan từ giã cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”.

Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.”

Chu Việt

Tháng 5, 2012

Nguồn: Tài liệu Ngành Tình Báo Điện Tử (SIGINT, Signal Intelligence) QLVNCH Tuần báo TIME ngày 27 July, 1968

(1) Tuần báo TIME ra ngày July 27, 1968.

(2) Đại tá Của bị trọng thương do trực thăng Mỹ bắn lầm quân bạn tại đường Khổng Tử, Chợ Lớn trong cuộc Tổng Công Kích đợt II, tháng 5, 1968. Cũng bị sát hại nơi đây là Trung tá Phó Quốc Trụ, Quận trưởng 5 Cảnh sát và Thiếu tá Nguyễn Bảo Sĩ (em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) là bạn người viết bài này.

(3) Trong thời gian này, Trần Văn Trà là Tư lệnh CT-5 (CT = Công Trường hay Sư đoàn), Nguyễn Văn Sỹ, Tư lệnh CT-7, và Đồng Văn Cống, Tư lệnh CT-9. Trần Bửu Kiếm là Ủy viên Ngoại Giao của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại Giao, Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế và Nguyễn Hưũ Thọ, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời MTGPMN.

(4) Loại két sắt này chịu được nhiệt hỏa hoạn cao hàng ngàn độ C, phía trong được trang bị chất phóng xạ radium chống chụp hình lén.

(5) CORDS (Civil Operations and Revolutionary Development Support) là nỗ lực bình định nông thôn miền Nam của Hoa Kỳ qua chương trình “Phượng Hoàng”.

(6) Thủ Dầu Một – Biên Hòa

(7) Đầu đạn “dum dum” có sức công phá mạnh vì dãn nở hay nổ lần thứ hai khi xuyên vào mục tiêu. Do đó, công ước The Hague đã cấm chỉ sử dụng.

(8) Đạn Flechette BF3, tốc độ cực nhanh có thể xuyên qua thiết giáp.

(9) Đại úy đặc công Nguyễn văn Lém bị Cảnh Sát Dã Chiến bắt tại trại gia binh Thiết Giáp Phù Đổng Thiên Vương, Gò Vấp, sau khi hắn đã tàn sát dã man tòan thể gia đình Trung tá Tuấn, gồm cha mẹ và vợ con ông (trong đó có đứa 6 tuổi). Tuấn là bạn đồng khóa, rất thân với tướng Loan. Khi bị bắt, trong mình Lém vẫn còn dấu khẩu súng lục K-54 bị áo che khuất. Lém không được coi là tù binh chiến tranh theo Công Ước Geneva.

(10) Xem Chương 15: “Vào để giúp… Ra lại Bắn Nhau?”.

(11) Kế hoạch phòng hờ này được TS Hưng lược trình trong Chương 15, Sách đã dẫn. Đại sứ Martin gọi nó là “crazy” (điên rồ) và cực lực phản đối. Đại khái, nó bao gồm 3 phương sách thay thế nhau để di tản 6,000 người Mỹ và một số người Việt nhất định:

- Mỹ trải 2,000 TQLC dọc theo QL-15 (Sài Gòn – Vũng Tầu) giữ an ninh di tản.
- Mỹ thiết lập cầu không vận bằng C-130 và C-141 giữa Tân Sơn Nhất và Utapao.
- Mỹ thiết lập cầu không vận trực thăng giữa Sài Gòn và các quân vận hạm ngoài khơi Vũng Tầu.

(12) Ông mất ngày 14 tháng 7, 1998 ở tuổi 68.

Tuổi trẻ hãy dấn thân - Nhã Nam

Nhã Nam

Tre già măng mọc tựa như tuổi trẻ tiếp nối bước đường của cha, anh đó là lẽ tự nhiên của đời thường không gì phải ngạc nhiên. Thế nhưng, muốn cho thế hệ trẻ, chưa có ý niệm gì nhiều về cộng sản và cũng chưa từng nếm mùi cay đắng của chúng, kế thừa để nối tiếp đắc lực con đường cách mạng giải thể chế độ đảng trị Hà Nội mà thế hệ cha, anh đang còn dang dở thì thế hệ này, phải trang bị cho giới trẻ một hành trang, mà hành trang đó không gì khác hơn là nắm và biết được bản chất của cộng sản Việt Nam, để từ đó trên bước đường cách mạng sẽ không bị chao đảo hay rơi vào mê hồn trận trước những luận điệu tuyên truyền tinh vi và xảo quyệt của chúng.

Tội chia đôi đất nước:

Sau khi Nhật đảo chánh ngày 9 tháng 3 năm 1945, Vua Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập nằm trong khối Đại Đông Á của Nhật, như vậy trên mặt pháp lý Pháp không còn chủ quyền ở Việt Nam. Thế nhưng khi Nhật đầu hàng vô điều kiện 15 tháng 8 năm 1945, vì sợ Quân đội Tàu được phân công giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, sẽ hỗ trợ các đảng phái Quốc Gia, điều này đã làm cho HCM rất nỗi lo âu.

Để giải quyết đảng cộng sản Việt Nam qua HCM, chỉ vì quyền lợi của quốc tế cộng sản, mà không nghĩ gì đến quyền lợi của quốc gia, dân tộc đã manh tâm thỏa hiệp với giặc Pháp hầu rảnh tay đàn áp và tiêu diệt các đảng phái quốc gia, qua tạm ước tại Hà Nội 6 tháng 3 năm 46 và sau đó Hiệp Định Fontainbleau 14 tháng 9 năm 46 trong đó có điều khoản bán nước, chấp nhận quân đội Pháp thay thế quân đội Tàu giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Bản văn này đã chính thức tạo pháp lý cho quân đội Pháp trở lại Việt Nam qua cuộc đổ bộ quân tại cảng Hải Phòng 19 tháng 5 năm 46, và từ đó, tạo cho Pháp điều kiện thuận lợi để tái chiếm Việt Nam. Biến cố này đã đưa đến cuộc chiến Việt-Pháp kéo dài trong 9 năm và chấm dứt bằng Hiệp Định Genève chia đôi đất nước năm 1954.

Khích động lòng Yêu nước bằng những lời tuyên truyền tinh vi, xảo quyệt:

HCM nói: "đất nước ta ra ngõ gặp anh hùng!". Tại sao không ra ngõ gặp anh tài hay anh hiền mà lại gặp anh hùng? Có như vậy thì sau này khi xâm lược miền Nam mới có cảnh, Sanh Bắc Tử Nam.

Tạo ra gương anh hùng tưởng tượng của một Lê văn Tám, đã làm cây đuốc phá kho xăng Nhà Bè để tuyên truyền và từ đó đã tàn nhẫn đẩy thanh, thiếu niên vào chỗ chết một cách mù quáng qua xiềng chân vào súng đại liên, lấy thân làm bàn đế cho súng cối để bắn, hay lấy thân lấp lỗ châu mai……

Hòa hợp, hòa giải dân tộc:

Đem chiêu bài "thống nhất đất nước" kêu gọi người Việt hải ngoại "hãy xóa bỏ hận thù để hòa hợp, hòa giải dân tộc hầu góp phần xây dựng đất nước". Làm sao có thể hòa hợp, hòa giải với tập đoàn Hà Nội khi chính họ chẳng những đã không chịu lắng nghe những ý kiến đóng góp để xây dựng đất nước của những nhà bất đồng chính kiến ở trong nước mà còn áp bức, đàn áp và kết án tù tội, thì làm gì có thể nói chuyện hòa hợp, hòa giải với người Việt Quốc Gia ở hải ngoại. Do đó, đây chỉ là đòn phép tuyên truyền của chúng mà thôi.

Thôi thì hãy lấy hai trường hợp người Việt hải ngoại về nước hợp tác trong lãnh vực kinh tế, làm điển hình để biết được thực chất về những lời kêu gọi trên của cộng sản Hà Nội:

- Nguyễn Gia Thiều ở Pháp, về kinh doanh điện thoại, sau một thời gian công ty phát triển mạnh mẽ, điều này bất lợi cho chính sách kinh tế của chúng, nên đã triệt hạ bằng tội buôn lậu, trốn thuế, bị phạt 130 tỷ đồng và bị tù 20 năm.

- Trịnh Vĩnh Bình ở Hòa Lan, mang 4 triệu đô la về mở quán ăn và đầu tư đất đai đã bị công an gài bẩy và phải nhờ đến chính phủ Hòa Lan can thiệp mới có thể bỏ của chạy lấy người.

Không thể tha thứ:

Đối với người Việt Quốc Gia, không có vấn đề hận thù để mà xóa. Vấn đề ở đây là, không thể tha thứ những gì đảng cộng sản Việt Nam đã và đang làm:

Làm sao có thể tha thứ được:

- Khi cộng sản Hà Nội theo lệnh của Nga Tàu để bành trướng chủ nghĩa cộng sản ở Động Nam Á, đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam qua việc dựng lên "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam" năm 1960, dưới chiêu bài "chống Mỹ cứu nước" (sic) nhưng thời điểm ấy (1960) ở miền Nam có quân Mỹ đâu để mà chống ! Và cuộc chiến xâm lược này đã cướp đi sinh mạng môt cách oan uổng của gần 3 triệu thanh, thiếu niên của cả hai miền Nam, Bắc để đánh ”Mỹ " vào ngày 30 tháng 4 năm 75. Thế nhưng chẳng bao lâu sau đó lại khẩn khoản và ân cần mời mọc và trải thảm đỏ để rước Mỹ vào trở lại!

- Đem một chủ nghĩa duy vật ngoại lai, mất nhân tính vào miền Bắc trước đây và miền Nam sau năm 75, với chủ trương đấu tranh tư tưởng, đấu tranh giai cấp, đã làm đảo lộn mọi luân thường, đạo lý của dân tộc, qua việc tạo ra sự nghi kỵ lẫn nhau để đưa đến tình trạng con tố cha, vợ tố chồng…, qua việc giết hại một cách tàn nhẫn không gớm tay đồng bào vô tội trong cải cách ruộng đất, qua Tết Mậu Thân, 1968, tại Huế v.v…. Chính vì bản chất phi nhân và tàn bạo đó của chủ nghĩa cộng sản, nên ngày 25 tháng 1 năm 2006 quốc hội Âu Châu ra quyết nghị 1481, đã lên án cộng sản trên thế giới là phi nhân, là thảm họa dân tộc, là tội ác chống nhân loại.'

- Để ru ngủ giới trẻ, cộng sản Hà Nội đã theo chính sách của toàn quyền Decoux Pháp trước đây, thay vì phong trào thể thao, chúng cho phát động phong trào hưởng thụ qua các quán cà phê ca nhạc, qua các quán karaoke, qua các tụ điểm ca nhạc…. Phong trào này không những tạo cho giới trẻ chẳng quan tâm gì đến chế độ độc tài, đảng trị của chúng mà còn đẩy họ vào cuộc sống sa đọa và trụy lạc, trai thì ăn chơi trác tráng, nghiện ngập sì ke, ma túy, gái thì trở thành gái đứng đường, gái gọi cho người mua vui. Cảnh tượng này đã và đang diễn ra nhan nhản khắp mọi nơi trong nước. Thảm trạng này đã đuợc thể hiện qua hai câu ca dao được truyền miệng trong dân gian:
    “Chiều chiều ra bến Ninh Kiều,
    Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân.”

- Nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng kinh tế trong thập niên 90, tập đoàn cộng sản Hà Nôi đã thay đổi chính sách kinh tế từ, kinh tế xã hội chủ nghĩa sang “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính sách kinh tế quái đản này, chỉ cứu vản chế độ chứ không vì lợi ích của quốc gia, dân tộc. Thực vậy, chỉ sau một thời gian không lâu, các "cán bộ" cộng sản đã trở thành các tư bản đỏ giàu xụ trong khi ấy cuộc sống của người dân ngày càng lầm than hơn.

Để hình dung được sự khốn khổ của người dân trong nước như thế nào, hãy đọc những bài viết và hình ảnh được đăng tải trên các nhật báo của cộng sản trong nước sẽ thấy cảnh các ông già, bà lão đã 70, 80 tuổi phải lam lũ làm đủ thứ việc để kiếm tiền độ nhật, các em nhỏ trong độ tuổi đi học đã thất học hay phải rời bỏ ghế nhà trường lao vào xã hội để đi lượm ve chai, bọc ny lông, bán vé số hay lớn hơn, trở thành các cô gái của: bia ôm, cà phê ôm, karaoke ôm… để kiếm tiền giúp cha mẹ trong cuộc sống hàng ngày.

Điều đau lòng và nhục quốc thể là, qua sự tiếp tay của ngụy quyền Hà Nội với bọn chuyên buôn gái, trong nước: xem các cô gái tựa như những món hàng được bày ra để đem bán như phải khỏa thân trình diễn trước những cặp mắt cú vọ của những đàn ông nước ngoài lớn tuổi lỡ thời, tật nguyền, bệnh tật hay ế vợ để họ rửa mắt rồi sau đó chọn lựa để về làm vợ. Ngoài nước thì những hình ảnh của các cô gái Việt đựợc rao hàng như những món đồ chơi với những dòng chữ, sẽ chấp nhận về làm vợ với gía rẻ mạt được đăng tải trên Ebay hay trên các báo của các nước Tân Gia Ba, Mã Lai, Đại Hàn, Nam Dương, Đài Loan, Trung Cộng…..

- Trước hành động ngang ngược của Trung Cộng, đánh phá, giết chóc và bắt giữ tàu bè của ngư nhân Việt Nam đang đánh cá trên vùng biển của mình để đòi tiền chuộc mạng thì chính quyền Hà Nội đã không có một phản ứng quyết liệt nào và biện pháp gì để bảo vệ ngư dân! Thái độ khiếp nhược này đã làm ngạc nhiên không ít cho người Việt trong nước cũng như hải ngoại, tại sao? Câu trả lời là, không gì phải ngạc nhiên khi nhìn lại chủ trương của chúng thà mất nước hơn mất đảng, điều này đã được thể hiện một cách cụ thể trước đây qua các hiệp ước năm 1999 và năm 2000 đã để mất ải Nam Quan, 2/3 thác Bản Giốc, đồi Kỳ Lừa, phố Đồng Đăng, bãi Tục Lãm và mất 11.000km2 vùng lãnh hải. Không những thế, chúng còn muốn biến Việt Nam thành quận, huyện của lũ Tàu Cộng qua việc đàn áp, bất giữ và bỏ tù những người yêu nước biểu tình chống lại việc Trung Cộng trắng trợn cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điển hình nhất là mới đây đã bắt mà không cho biết nơi giam giữ nhạc và ca sĩ trẻ Việt Khang vì đã thể hiện lòng yêu nước của mình qua hai bản nhạc: Anh Là Ai? và Việt Nam Tôi Đâu?

Thái độ khiếp nhược và bán nước này không những không thể tha thứ mà còn là trọng tội với Tiền Nhân, với Quốc Gia và Dân Tộc.

Nếu thế hệ trẻ lãnh hội được bản chất độc tài, bán nước của cộng sản Hà Nội do thế hệ thế hệ cha, anh truyền đạt lại, thì họ sẽ sẳn sàng là lực lượng kế thừa để tiếp nối con đường cách mạng, con đường này thế hệ cha, anh đã đi trong 35 năm, nhưng đường đi vẫn chưa đến.

Hy vọng và chắc chắn rằng, thế hệ trẻ dấn thân không một định kiến, với lòng yêu nước cao độ, với sự nhiệt tình và lòng yêu nước của tuổi trẻ thì con đường giải thể chế độ mãi quốc, cầu vinh của cộng sản Hà Nội sẽ đến một ngày không xa !

Nhã Nam


Lời phát biểu của Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Julian Trần



Background: US Army Lt. Colonel Julian Tran

Title: Branch Chief, Southeast Asia, G5 Security Cooperatin and Policy, USARPAC at U.S Army Pacific
Demographic info: Hawaiian Islands | US Military
Current: Branch Chief, Southeast Asia, G5 Security Cooperatin and Policy, USARPAC at U.S Army Pacific Past:PACOM, Afghanistan, JIOC, HQDA, Singapore, Kuwait, Europe and more at U.S. Army, Asst. Production Manager at Camsco, Campbell Soup Co, Evensville…
Education: BS, Austin Peay University, TN; MBA, Embry Riddle, FL; MA, MIIS, Monterey, California.


___________________________


Kính thưa quý Cựu Chiến Binh chiến tranh Việt Nam; các quân nhân Hải, Lục, Không quân, Thủy Quân Lục Chiến, Biên Phòng và quý quan khách.

Kính thưa quý vị,
Đây là một vinh dự lớn cho tôi ngày hôm nay được ở đây để bày tỏ những lời biết ơn chân thành đến những anh hùng đã chiến đấu cho nền tự do của miền Nam Việt Nam.

Trước hết, tôi xin cám ơn ban tổ chức, nhất là Cô Nina và cựu Đại Tá Castagnetti đã cho tôi cơ hội được đứng nói chuyện với quý vị trong buổi chiều hôm nay.

Kính thưa quý vị,
Là một người lính, tôi tin là “khi đã là lính, thì suốt đời ta sẽ là lính”; thế nên theo sự suy nghĩ của tôi, quý vị không phải là những cựu chiến binh, mà quý vị luôn là người lính cho đến ngày các quý vị nhắm mắt xuôi tay. Vì thế, nếu cho tôi một cơ hội, tôi sẽ không ngần ngại được sát cánh với quý vị xông pha vào mặt trận bất cứ ngày nào, giờ nào, và bất cứ nơi đâu. Cũng như quý vị, tôi cũng đã từng xông pha ngòai mặt trận trên những vùng đất lạ xa xôi để bảo vệ cho cuộc sống và nền tự do mà chúng ta, những công dân Hoa Kỳ, được an hưởng từng ngày từng phút.

Sự khác biệt giữa thế hệ của chúng tôi và thế hệ của quý vị là ít nhất, chúng tôi cũng nhận được một ít lòng biết ơn của đồng bào khi chúng tôi trở về từ mặt trận; những quân nhân của thế hệ chúng tôi là những người gặp nhiều may mắn. Nhưng còn quý vị, những quân nhân chiến đấu trong cuộc chiến ở Việt Nam – và rất nhiều những quân nhân đó đang có mặt nơi đây – những người lính đó khi trở về từ mặt trận đã phải đối mặt với sự ruồng bỏ và thù hằn của xã hội, một cái xã hội đã vội quên đi giá trị của hai chử tự do và nghĩa vụ của một công dân Hoa Kỳ. Tuy vậy, cho dù quý vị đã không nhận được lòng biết ơn của công chúng cũng như phải đối đầu với những lời tuyên truyền một chiều của giới truyền thông, quý vị đã kiên cường chiến đấu và chưa từng chiến bại trên bất cứ một trận đánh nào trong gian đọan đó, từ thung lũng Ia Drang, Khe Sanh, ngọn đồi Hamburger, Tết và còn nhiều hơn nữa. Tôi và quý vị, chúng ta là những người lính, mà là lính, chúng ta thi hành nhiệm vụ theo quân lệnh, tận lực 110% trong bất cứ hòan cảnh khó khăn nào - và có những người lính đã cho hết tất cả - những người lính đó chính là những người hiện đang nằm sâu trong lòng đất thánh nầy.

Về phần tôi, đất nước Hoa Kỳ đã cho tôi một cơ hội, không những ban cho tôi một cuộc sống tự do, mà còn cho tôi cơ hội để phục vụ trong một quân đội hùng mạnh nhất trên quả địa cầu nầy, để bảo vệ cho nền tự do và cuộc sống của người dân Hoa Kỳ. Và tôi cho rằng đây là một vinh dự to lớn nhất trong cuộc đời tôi. Vâng, đất nước Hoa Kỳ tuy không phải là một quốc gia toàn thiện toàn mỹ, nhưng tôi có thể chứng minh rằng sau hơn 35 quốc gia mà tôi đã từng đi qua, Hoa Kỳ vẫn luôn là một quốc gia tốt đẹp nhất trên trái đất nầy. Đối với những kẻ luôn than phiền về đất nước nầy; bôi nhọ quê hương nầy; nếu họ có thể tìm được một vùng đất nào trên thế giới toàn thiện hơn quê hương nầy, xin họ cho tôi biết, tôi sẽ mua cho họ một vé máy bay một-chiều, điểm đến họ tự chọn, và tôi muốn họ đừng bao giờ trở lại đất nước nầy nữa. Vì tôi rất tự hào là một công dân Hoa Kỳ và tôi không bao giờ muốn sống chung với những người đó.

Tuy tôi còn nhỏ trong thời gian chiến tranh đang xảy ra tại Việt Nam, nhưng tôi cũng có thể cảm nhận được và yêu quý sự tự do mà chúng tôi có ở miền Nam Việt Nam. Người anh ruột và 2 cậu của tôi là sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), cũng chiến đấu và hy sinh để bảo vệ cho nền tự do của quê hương mình. Nền tự do mà người dân miền Nam an hưởng trước 1975 sẽ không bao giờ có được nếu không có những sự hy sinh cao cả của những chiến sĩ QLVNCH cùng sát cánh với những người lính của các quân binh chủng Hoa Kỳ, những người lính Mỹ đó giờ chúng ta gọi là cựu quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam.

Kèm theo đây, tôi cũng muốn gởi lời cảm ơn thành kính nhất đến gia đình và thân nhân của hơn 58,000 vị anh hùng ngã xuống và tên họ đã khắc sâu trên Bức Tường Chiến Tranh Việt Nam tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Nếu không có những vị anh hùng nầy, chúng tôi, người dân của miền Nam Việt Nam, sẽ không có thể có được một cơ hội để an hưởng nền thịnh vượng và thấm hiểu được giá trị của hai chữ “Tự Do”. Tuy thời gian “Tự Do” đó có ngắn ngủi, nhưng chúng tôi đã học hỏi được cái giá trị của hai chữ “Tự Do”. Và vì thế, xin quý vị nhận nơi đây lời cảm ơn chân thành nhất từ con tim của tôi cho những ngày tháng Tự Do đó mà quý vị đã cho chúng tôi .

Sau chiến tranh Việt Nam, hàng trăm ngàn người dân Việt Nam đã vượt biên để tìm tự do; đã có không biết bao nhiêu những người vượt biên đã bỏ mình trên biển sâu hoặc là trong rừng sâu núi thẳm ở Lào và Cambodia trên bước đường đi tìm tự do. Những người vượt biên đó được mọi người gọi là “Thuyền Nhân,” hoặc là như tôi, những người vượt biên “Đường Bộ” vì tôi vượt biên qua ngã Cambodia. Những người tỵ nạn đó đã chọn “thà chết để được sống tự do;” họ chọn kiếp sống tự do vì quý vị họ đã cho họ nếm được cái ý nghĩa và giá trị của hai chữ Tự Do.

Thống Tướng Douglas MacArthur có nói rằng “người lính già không bao giờ chết, họ chỉ tan biến theo thời gian.” Nhưng tôi muốn cho quý vị biết rằng ”quý vị có thể chết vì tuổi già, nhưng sẽ không bao giờ tan biến theo thời gian” bởi vì quý vị sẽ sống mãi trong con tim và khối óc của hàng triệu người Việt và cộng đồng Việt Nam trên tòan thế giới. Mỗi khi tôi gặp một cựu chiến binh Việt Nam, tôi luôn gởi đến họ hai tiếng cảm ơn, và tôi mong muốn tất cả mọi người điều làm giống như tôi vì những người cựu chiến binh đó đã hy sinh quá nhiều cho miền Nam Việt Nam và cho đất nước Hoa Kỳ.

Tôi cũng mong muốn tất cả công dân Hoa Kỳ bày tỏ lòng cảm ơn của mình cho tất cả những cựu quân nhân cũng như những người lính đang phục vụ trong quân đội hôm nay; nếu không có họ, đất nước Hoa Kỳ sẽ không bao giờ có được như ngày hôm nay; quê hương nầy sẽ không có được sự tự do mà mình đang có; và Hoa Kỳ đã không trở thành một quốc gia vĩ đại trên trái đất nầy. Xin nhận nơi đây lời chào kính trọng của tôi đến tất cả những cựu quân nhân và những người lính có mặt ở đây ngày hôm nay. Xin ơn trên phù hộ cho quê hương nầy cũng như phù hộ cho tất cả quý vị.



*********************************
Remarks at the Memorial Day Commemoration


National Cemetery of the Pacific (Punchbowl), Honolulu, Hawaii
May 27, 2012
By Lieutenant Colonel Julian Tran, U.S. Army

Good Afternoon.
Distinguish guests; veterans of the Vietnam War; Soldiers; Sailors, Marines; Airmen; Coast Guard; and my fellow Americans.

Ladies and Gentlemen:
It is a great honor for me to be here today to express my deepest gratitude to the warriors who had fought for the freedom of South Vietnam.

First of all, I would like to thank the organizer of this event, particularly, Mrs. Nina and Retired Colonel Castagnetti who give me the opportunity to stand in front of you this afternoon.

Ladies and Gentlemen,
As a soldier, I strongly believe that “once a Soldier, you will always be a Soldier”; therefore, to me, you are not a veteran, but you are, and always will be, a Soldier until the day you die. And I, if given the opportunity, would not hesitate to go to battle with you, side-by-side, anyday, anywhere, and anytime. Like you, I’ve deployed and fought in the faraway lands to preserve our way of life and the freedom that we, Americans, all enjoy every day.

The different between your generation and my generation is that, at least my generation, to a certain extent, has received some appreciations from the people that we met once we returned home from war. I am the lucky one; many of today’s servicemen and women are the lucky ones. But for the Soldiers who fought during the Vietnam War – And many of you are here today – they returning home to face the hostility and rejection from a society that has forgotten the value of freedom and what it meant to be an American. Despite under appreciated and bias media propaganda, you had fought well and had never lost a single battle when you were there, from the La Rang Valley, Khe Sanh, Hamburger Hill, and Tet, just to name a few.

You and I, we are Soldiers, and as Soldier we followed orders and executed our missions regardless of the circumstances. We gave 110% – and many gave it all – and are lying here today in this holy ground.
As for me, America has given me the opportunity, not only to live free again, but also to serve the greatest Armed Forces on this planet earth, and to defend our freedom and way of life. And I consider this is the greatest honor of my lifetime. Yes, America is not a perfect country, but I can attest to you that, after having been to more than 35 countries, this country is still the best country on this planet. Those who complain about America; say bad things about America; if you can find a better place on earth to live, please let me know, I will buy you a one-way ticket, destination of your choice, and don’t you ever come back. Because I am so proud to be an American and I sure don’t want to live with you.

Though I was a little boy during the Vietnam War, but I had a great sense of appreciation of the Freedom that we enjoyed in South Vietnam. My brother and two uncles who were officers in the South Vietnamese Army – or ARVN, fought and died to preserve our freedom as well. The Freedom that South Vietnamese people enjoyed until 1975 couldn’t have taken place without the sacrifice of hundreds of thousands of ARVN soldiers who fought alongside the American Soldiers, Sailors, Marines, Airmen and Coast Guards which who they are now called Vietnam War Veterans.

Additionally, my sincere appreciation also goes to families of more than 58,000 names of those warriors are now on the VIETNAM WALL in Washington D.C. WITHOUT YOU, the Vietnam Veterans, WE, the people of South Vietnam couldn’t have enjoyed a period of prosperity and appreciated the value of FREEDOM. Though the period of “Freedom” was short live, we had learned and realized what it meant to be free. And for that, I want to say THANK YOU from the bottom of my heart for giving us those days of freedom.

After the Vietnam War, hundreds of thousands of Vietnamese people escaped from Vietnam; untold number of them died at seas or in the jungles of Laos and Cambodia on their journey of seeking freedom. Those people, as you have known them as “boat people” or, as for me, the “land people” because I escaped from Vietnam thru Cambodia. Those refugees had chosen to “live free or die” because you have given them the TASTE of FREEDOM.

General Douglas MacArthur said “old Soldiers never die; they just fade away.” For the Veterans of the VIETNAM WAR, I want to say that “you may die of old age, but you will never fade away” because in the heart and mind of millions of Vietnamese people and communities around the world, you will live on forever. Whenever I see a Vietnam War Veteran, I always say Thank you to him, and I would ask everyone to do the same because he had given so much and had done so much for South Vietnam and for America.
I also would ask every American to say a word of THANK YOU to every Soldier past and present; because without them, America will not be where we are today; American will not have the freedom that we have today; and America will not be the greatest country on this planet earth. To all the veterans and Soldiers here today, I salute you.

GOD BLESS AMERICA AND GOD BLESS YOU ALL.


Thursday, May 31, 2012

Demand for Vietnamese brides booming in China

Beijing, May 29 (PTI): Vietnam's mail-order bride business is booming, fuelled by surging demand from Chinese men who have given up hope of finding a wife due to growing gender gap in the country.

Though international marriage agencies are officially illegal, loopholes in China have allowed the industry to flourish, China's state-run Global Times reported today.

For a group purchase price of 30,000 to 40,000 yuan (USD 4,727 - USD 6,303), an attractive Vietnamese bride aged between 18 and 25 can be "bought" from a marriage agency based in China's Yunnan Province, which regularly posts online advertisements, it said.

The agency is registered as a Chinese dating service in the provincial capital Kunming and organises group tours to Vietnam for single Chinese men and arranges dates for them with Vietnamese women selected from a catalogue as a possible mate for marriage.

The cost of the tour includes travel expenses, translation services, gifts for the women's families and the wedding ceremony.

They also assume responsibility for finding clients a new bride if the first one flees after the wedding, according to a report by Kunming-based newspaper the Spring City Evening News.

"We're gathering Chinese clients for group tours to Vietnam to arrange dating activities, not group purchasing.

More than 80 per cent of clients find brides," an agency employee told the Global Times.

"All prospective brides who participate in the dates are willing to marry a Chinese suitor. Those who do tie the knot enter China with all legal documents, including a Vietnamese passport, a valid tourist visa and a health certificate," it said.

Like all foreigners with a Chinese husband or wife, permanent residency in China can be obtained after five years of marriage.

Chinese men opted to marry Vietnamese brides because of growing sex ratio in China increasing the gender gap.

According to 2010 Census figures, China's sex ratio at birth was 118 males for every 100 females. The number of males for every hundred females has risen consistently every decade from 108 in 1982, 111 in 1990 and 116 in 2000.


Friday, May 4, 2012

Khí tiết sáng ngời - Huy Phương

Huy Phương
    “Anh hùng có sá chi thua được,
    Tiết nghĩa nào phai với đất trời.”(Thủ Khoa Huân)
Chúng ta đã biết một nước Nhật anh hùng, người Nhật có trách nhiệm với dân tộc và tổ quốc. Trong chính quyền, các viên chức gây ra sự tổn thất hay tai nạn trong phần trách nhiệm của mình đều tự xử bằng cách nhận lỗi và từ chức.

Những sĩ quan Nhật lúc sa cơ thất trận biết chọn cái chết cho mình để tròn khí tiết. Trận Okinawa với quân đội Mỹ kéo dài 82 ngày, kết thúc vào tháng 6, 1945, trong những giờ phút cuối cùng biết không giữ nổi đất đai của tổ quốc, ngày 15 tháng 6, trong một hang động lớn, Ðại Tá Kanayama, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 27BB tập hợp 102 người còn lại của trung đoàn. Ông ta làm lễ đốt quân kỳ trung đoàn và nói:

“Trong ba tháng vừa qua, anh em đã cùng tôi chiến đấu. Lòng dũng cảm, chí hy sinh, sức chịu đựng của anh em, lịch sử sẽ khắc sâu. Nay tôi nói lời cám ơn anh em đã phục vụ quên mình. Giờ đây, tôi tuyên bố giải thể trung đoàn. Từ nay trở đi, anh em không còn bị ràng buộc, tôi lãnh trách nhiệm về việc này. Riêng tôi, tôi sẽ vĩnh viễn ở lại đây. Nhưng tôi cấm anh em theo tôi. Ra lệnh cho anh em phải sống để kể lại cho hậu thế biết quân đội Nhật Bản đã anh dũng chiến đấu như thế nào ở Okinawa.”

Ðoạn Ðại Tá Kanayama rút gươm mổ bụng. Ðại Úy Sato chặt đầu người chỉ huy theo đúng nghi thức rồi hô to Tenn Mheika banzai! (Thiên Hoàng vạn tuế), dứt tiếng hô, ông chĩa súng lục vào đầu bóp cò tự sát.

Cũng trong ngày 21 tháng 6, trong chỉ huy sở của mình tại Mabumi,

Tướng Ushijima và mọi người đều hớt tóc, cạo râu. Sau đó ông viết thư trình lên Thiên Hoàng Hiro Hito báo cáo về tình hình chiến sự tại Okinawa và tạ tội không giữ được đảo. Thư được điện về Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Hoàng Gia tại Tokyo. Cuối cùng, ông nói với Ðại Tá Yahara:

“Ðại Tá Yahara, ông cũng như tôi lẽ ra phải tự sát. Nhưng tôi ra lệnh cho ông ở lại. Nếu ông chết, sau này còn ai có thẩm quyền để kể lại về trận chiến Okinawa này. Mặc dù sống sau khi thua trận là nhục nhã, nhưng tư lệnh của ông ra lệnh cho ông phải chịu cái nhục này.”

Yahara do đó là sĩ quan cao cấp bên phía Nhật sống sót sau trận đánh và về sau ông đã cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Trận Ðánh Vì Okinawa.”

Chiều ngày 22 tháng 6, Tướng Ushijima và Tướng Cho quỳ gối hướng về phía Bắc (hướng Hoàng Cung) vái ba vái và tiến hành lễ tự sát. Tướng Cho đưa cổ cho Ðại Úy Sakaguchi chém đầu. Tướng Ushijima lấy gươm tự mổ bụng, tiếp theo đó bảy sĩ quan tham mưu cùng tự sát. Ngày 2 tháng 7, trận Okinawa chính thức chấm dứt.

Hai tháng sau trận Okinawa, trong giai đoạn cuối cùng của Ðệ II Thế Chiến, Mỹ đã thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima and Nagasaki của Nhật Bản, sáu ngày sau, 15 tháng 8, 1945, Nhật Hoàng mới dứt khoát chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam, đồng ý đầu hàng. Biết tin này, một số sĩ quan trẻ trong quân đội Nhật định làm đảo chính, định tiêu diệt phái chủ hàng và buộc nhà vua chấp nhận quyết chiến đến cùng. Nhưng cuộc đảo chính đã không xẩy ra, khi lệnh đầu hàng ban ra, nhiều tướng lĩnh và sĩ quan đã tự sát, trong đó có Bộ Trưởng Lục Quân Anami, Ðại Tướng cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Sugiyama, Ðại Tướng Tư Lệnh miền Ðông Tanaka…

Vào tháng 4 năm 1975, khi quân đội Cộng Sản đang trên đường tiến vào Nam Vang, người Mỹ đã mời Thủ Tướng Sirik Matak và toàn bộ chính phủ Miên nên ra đi, vì ở lại thì sẽ bị Khờ Me Ðỏ sát hại.

Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Thủ Tướng Sirik Matak đã viết một lá thơ vô cùng cảm động gởi cho đại sứ Mỹ tại Nam Vang là ông John Gunther Dean.

Lá thư đầy nghĩa khí và tiết tháo của một người anh hùng “sinh vi tướng, tử vi thần,” nhưng cũng đầy cay đắng như sau:

“Tôi chân thành cám ơn lá thư của quý ông, và ngỏ lời đưa tôi đến bến bờ tự do.

Tôi thì không thể rời bỏ nơi này một cách hèn nhát đến thế.

Ðối với quý ông và nhất là đối với đất nước nhân hậu này, tôi chưa hề tin rằng quý ông có ý nghĩ từ bỏ một dân tộc muốn tìm chọn tự do.

Quý ông đã từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi đành bó tay. Quý ông đã rời bỏ chúng tôi, chúng tôi thật lòng ao ước quý ông và quý quốc sẽ tìm thấy hạnh phúc dưới bầu trời này.

Nhưng hãy nhớ rõ điều này, nếu tôi có chết ngay bây giờ, trên mảnh đất mà tôi yêu mến, thì cũng chỉ vì mọi người sinh ra rồi sẽ có ngày trở về cát bụi.

Tôi chỉ có một lỗi lầm là đã tin vào người Mỹ các ông.

Xin ngài, người bạn quý, nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của tôi.” (Hoàng Tử Sirik Matak)

Khi Khờ Me Ðỏ vào toàn bộ chính phủ Miên đều bị giết, riêng gia đình ông Sirik Matak, từ con cháu đến các người giúp việc trong nhà ông đều bị Khmer Ðỏ sát hại.

Trong những ngày cuối cùng của VNCH,

Trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản, Ðại Sứ Martin của Hoa Kỳ đã chính thức gặp Tổng Thống Trần Văn Hương và mời tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào, cũng như hứa sẽ bảo đảm cho tổng thống một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho đến ngày trăm tuổi.

Tổng Thống Trần Văn Hương đã trả lời:

“Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Ðã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi bỏ nước ra đi, tôi rất cám ơn ông. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi.”

Ngày 30 tháng 4, 1975, Saigon thất thủ sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân Bắc Việt, Quân Ðội Việt Nam chúng ta không thiếu anh hùng: bốn tướng lãnh VNCH đã tự sát, đó là :

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Vùng 2 Chiến Thuật,

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật,

Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh SÐ21BB,

Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh SÐ5BB.

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã dùng độc dược, và ba tướng lãnh sau dùng súng ngay tại Bộ Chỉ Huy của mình.

Cũng như Ðại Tá Kanayama, trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 27BB của trận Okinawa, Tướng Vỹ của Bình Dương đã triệu tập một phiên họp bất thường, thật ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rõ lệnh đầu hàng. Ông nói: “Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao cho địch, nói thẳng ra là đầu hàng… Vì tôi là một tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lệnh này. Tôi nghĩ thân làm tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ân huệ của Quốc Gia hơn các anh em, nên tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi.”

Cảm thấy nỗi nhục thất trận, không phải chỉ hàng tướng lãnh.

Cấp tá như:

Trung Tá CSQG Nguyễn Văn Long, đã tự bắn vào đầu, chết dưới chân tượng TQLC trước Quốc Hội, Trung Tá Trần Ðình Chi, An Ninh Quân Ðội đã tự sát tại văn phòng ông ở Biên Hoà.

Một hạ sĩ quan Quân Cảnh đã kết liễu đời binh nghiệp của mình tại Biệt Khu Thủ Ðô, và Nhiều binh sĩ Nhảy Dù đã choàng vai vây vòng tròn với nhau trên đường lui ở Ngã Ba Ông Tạ, cũng như những toán TQLC trên bãi biển Tư Hiền (Ngã Tư Bẩy Hiền), với những quả lựu đạn mở chốt để cùng chết với nhau.

Quyết định chọn cái chết là khó, nhưng cái chết diễn ra rất nhanh, chọn sự sống là dễ, nhưng sự sống kéo dài làm người ta tủi nhục.

Trong khi đó ngày 7 tháng 5, 1954, Ðiện Biên Phủ thất thủ, Tướng chỉ huy De Castries đã ra đầu hàng, bị bắt làm tù binh và được trao trả sau Hiệp Ðịnh Genève. Ông rời quân ngũ năm 1959 và qua đời năm 1991 tại Paris, Pháp. Ông có trở lại thăm chiến trường xưa nhưng không hề ca tụng kẻ thù.(Đại Tá De Casriies được Chính Phủ Pháp thăng lên cấp Thiếu Tướng khi đang bị vẫy hãm trong lòng chảo Điện Biên. Tổng Thống Pháp muốn Đại Tá tuẫn tiết ở đó. Nhưng…..). Trái lại Ðại Tá Bigeard, bị bắt tại Ðiện Biên Phủ, sau 50 năm đã ca tụng kẻ thù và chê quân đội Pháp. Tương tự như vậy, bên cạnh những hào kiệt đã tuẫn tiết, quân đội chúng ta cũng có những mạt tướng không chịu chết cho đời thương tiếc, mà sống để lại ô danh và tủi nhục cho đồng đội đã hy sinh xuơng máu cho sự nghiệp, chạy về quị lụy ôm chân kẻ thù xưa.

Bên cạnh những anh hùng, cũng có những kẻ hèn hạ phản bội.

Chúng ta liên tưởng đến hai câu thơ của Cụ Phan Bội Châu:
    Dù lịch sử, cha ông thây kệ Nhục hay vinh họ kể gì đâu!
Người xưa đã nói: “Không lấy thành bại mà luận anh hùng.”

Nếu hôm nay chúng ta mỗi năm đến ngày 30 tháng 4 còn ngẩng mặt nhìn đời được là nhờ hào quang của những người đã chết, rửa mặt cho miền Nam. Còn chúng ta sống, kéo dài cuộc sống làm sao để cho khỏi hổ thẹn

Huy Phương


Thursday, May 3, 2012

QUỐC HẬN & QUỐC THÙ 30/4 - Nguyễn Phúc Liên

Nguyễn Phúc Liên
Geneva, 30.04.2012

Ngày QUỐC HẬN 30/4 không thể nào có thể xóa đi được bởi vì nó ghi lại một thảm trạng không phải chỉ cho dân Miền Nam thời 1975 còn ở lại hay đã ra đi. Cái thảm trạng này không phải là một biến cố Lịch sử được ghi ở một ngày tháng, mà được khắc sống động vào lòng mỗi người dân Việt, không phải chỉ ở những người lớn tuổi trực tiếp sống thời điểm 1975, mà còn ở lớp hậu sinh sau năm 1975 vẫn chịu hậu quả của thảm trạng 30/4/1975. Ngày QUỐC HẬN 30/4 không phải ở tình trạng thụ động trong lòng một số người ôm mối hận mà than khóc để người ta có thể xóa dần với thời gian. Nhưng ngày QUỐC HẬN 30/4 đang trở thành ngày QUỐC THÙ với ý chí ĐỘNG để sinh tồn của từng lớp người TRẺ Việt Nam đang phải sống dưới một Cơ chế CSVN cướp bóc, hà hiếp dân mình, rồi đem Lãnh thổ và Lãnh hải Tổ Tiên cung hiến cho ngoại bang. Ngày QUỐC HẬN 30/4 được sống mãi trong ý chí QUỐC THÙ mà Tiền Nhân đã un đúc triền miên qua nhiều ngàn năm Lịch sử của Dân Tộc đấu tranh để sinh tồn.

Chúng tôi tìm hiểu hai chữ HẬN và THÙ. Theo VIỆT NAM TỰ ĐIỂN của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ xuất bản do Nhà sách Khai Trí năm 1970, thì chữ HẬN và chữ THÙ được định nghĩa như sau:

* HẬN có nghĩa là “Giận, Oán trong lòng “

* THÙ có nghĩa là “Nỗi oán giận ghim trong lòng chờ ngày làm cho lại gan với người đã hại mình hay hại người thân mình “; “Người đã hại mình, cướp giựt tài sản, giết chóc người thân, đồng bào hay cướp nước mình“; “Ghim mối hận trong lòng và tìm dịp hoặc chờ dịp làm cho lại gan đối với kẻ thù.” Hai Soạn giả TỰ ĐIỂN còn trích câu thơ:
    Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham bạo, THÙ chồng chẳng quên
Dân tộc Việt Nam, với ý chí đấu tranh để sinh tồn qua giòng Lịch sử không thể ngồi ôm sự đau buồn của ngày 30/4 một cách ủ rũ cam chịu số phận, mà chắc chắn nuôi ý chí BÁO THÙ bằng hành động đối với Cộng sản Việt Nam, một đảng đảng cướp không còn tình người, đã và đang tiếp tục chất chồng lên Dân Tộc những tội ác, đã và đang dâng Lãnh Thổ và Lãnh Hải cho Tầu. Những tội ác đã và đang chất chồng lên Dân Tộc và tội bán nước đã và đang phạm hiện nay tất nhiên không cho phép người Dân Việt, từ lớn tuổi đến hậu duệ, ngồi yên. Dân Việt sẽ vùng lên diệt kẻ thù CSVN. Diệt kẻ thù CSVN ở đây có nghĩa là thi hành CÔNG LÝ cho các Thế Hệ Dân Việt và cho chính Tổ Tiên nữa.

Ngày 30/4 là ngày QUỐC HẬN và mang ý chí đấu tranh của ngày QUỐC THÙ vậy.

Giáo sư Tiến sĩ kink tế Nguyễn Phúc Liên