Tuesday, April 24, 2012

Ngày 30 Tháng Tư

Nguyễn Thụy Long

"Loan Mắt Nhung" Nguyễn Thụy Long viết bài này năm 2005, ông ta chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam. (Ông sinh ngày 9 tháng 8 năm 1938 tại Hà Nội, mất ngày 03 tháng 9 năm 2009 tại Sài Gòn).


Lại sắp đến ngày 30 tháng Tư, trên đất nước tôi nhà cầm quyền phát động ì xèo kỷ niệm ngày “chiến thắng vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.” Từ cả tháng trước, ngày nào người ta cũng nhắc đến chiến thắng ấy của dân tộc, phỏng vấn những tướng lãnh chỉ huy trận đánh về chiến lược, chiến thuật, những chiến sĩ anh hùng, tất cả đều được đưa lên báo đài, cả những trang web bay đi khắp thế giới. Buổi sáng tôi dậy sớm nghe đài nước ngoài, chương trình Việt ngữ, nhưng bị phá sóng nhiều quá, nghe câu được câu không. Cũng ngày ấy cộng đồng người Việt trên khắp thế giới làm kỷ niệm, nhưng gọi bằng nhiều cách khác nhau, Ngày Quốc Hận, Tháng 4 Đen hay gì đó còn tùy.

Cũng ở trên đài Á Châu Tự Do tôi nghe cuộc phỏng vấn một đạo diễn trẻ người Việt Nam ở nước ngoài, làm một cuốn phim về ngày bại trận 30 tháng Tư lấy tên là ngày giỗ. Anh và các bạn anh thiếu thốn rất nhiều tài liệu về ngày hôm ấy, nhưng chắp vá và lấy kỷ niệm của những người lớn chứng kiến vào thời ấy rồi cũng xong. Bởi tại ngày anh ra đi, rời Việt Nam anh còn quá trẻ, tuổi đâu khoảng 13 hay 14 chi đó, nhất là anh không có kinh nghiệm tham gia vào cuộc bại trận ấy.

Người đạo diễn thanh niên này còn có tham vọng làm cuốn phim khác nữa sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ, về những trại tù khổ sai mà người ta gọi là trại cải tạo. Tôi hy vọng anh ta và nhóm của anh có tâm huyết thì cũng xong, có thể thành công. Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua có rất nhiều tư liệu quý giá, tôi đã dược xem một cuốn phim do Mỹ sản xuất lấy tên là Trời và Đất. Cuốn phim đã nói lên được thân phận Việt Nam giữa các thế lực, thân phận con người Việt Nam đáng thương.

Tôi là một người Việt Nam, sống và lớn lên, trưởng thành trong thời buổi ấy, thời buổi đau thương nhất của đất nước, nay lại sống suốt 29 năm trong chế độ, sắp sửa 30 năm, chưa một lần bị ngắt quãng, vì không ra nước ngoài, hay đi đâu xa khỏi Việt Nam. Tôi là dân bại trận ở lại Việt Nam.

Tôi không có gì ca tụng về ngày 30 tháng Tư ấy, nhiều đau thương hơn thì có, gia đình tôi ly tán cũng vào ngày ấy. Đàn anh của tôi nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo SỐNG bị giết chết vì đạn pháo kích lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên chiếc tầu di tản mới chạy thoát ra được đến cửa biển Cần Giờ.

Hàng năm tôi chúng tôi làm giỗ anh Chu Tử vào ngày đó, sau này không biết vì lý do gì, đổi sang ngày âm lịch là ngày 19 tháng ba (trùng với ngày 30-4-1975). Có phải vì người ta đang ồn ào làm lễ kỷ niệm chiến thắng mà mình lại làm giỗ, than khóc và tưởng nhớ đến người đã chết là chướng quá không, vì vậy gia đình ông Chu Tử mới đổi ngày giỗ cho yên. Tôi cũng không bỏ một buổi giỗ nào của ông Chu Tử, dù có đổi ngày, nhưng dù làm vào ngày nào anh em chúng tôi ngồi với nhau, nhắc lại và nói về những kỷ niệm là ngày 30 tháng Tư năm 1975, gia chủ tổ chức giỗ ông Chu Tử cũng không có ý kiến gì, buổi giỗ ấy anh em chúng tôi tự do hoàn toàn. Những buổi giỗ ông Chu Tử sau này vắng bóng dần những người anh em thân thiết của ông, người thì ốm đau bệnh hoạn đi không nổi, người thì đã “dạo chơi tiên cảnh” khỏi “cõi tạm” đầy đau thương này. Như Tú Kếu, như nhà văn Mặc Thu, như ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, vì ông mới qua đời.

Nhà báo Phan Nghị ở buổi giỗ nào còn oang oang kể lại kỷ niệm với chủ nhiệm Chu Tử, nay cũng đã vắng bóng anh. Một đàn em thân thiết như Đông con tuổi còn rất trẻ cũng không còn nữa. Nhưng buổi giỗ vẫn đông đảo, tôi thấy có những anh em từ nước ngoài trở về, những Việt kiều đó ra đi do vượt biên hay diện HO, những điện thư từ khắp nơi trên thế giới gửi về cho gia đình con cái ông Chu Tử để tưởng nhớ ông.

Tôi đã qua 29 lần kỷ niệm vể ngày 30 tháng Tư trên đất nước “Xã Hội Chủ Nghĩa VN,” kể ra thêm mệt nhưng không thể không kể. Tôi kiêu hãnh nói rằng tôi là một trong những nhân chứng lịch sử, tôi vừa là nhà văn nhà báo, nói có nhận xét, dù rằng cái nhận xét của riêng mình, nhưng đúng về mặt người cầm bút thì phải công bằng và chính xác, tôi phục vụ cho nghề nghiệp và lý tưởng của nhà văn nhà báo chân chính, không phục vụ hoặc làm bồi bút cho tổ chức hay đảng phái nào đó.

Đối với tôi thì ngày 30 tháng Tư nào tôi cũng buồn, một người Việt Nam đang sống trên quê hương mình, tôi tự hỏi, được chứng kiến những giây phút lịch sử trọng đại, đất nước Việt Nam thống nhất quang vinh như thế mà buồn sao?

Sau đợt lùa những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hoà bại trận đi học tập cải tạo, đến lượt văn nghệ sĩ chế độ cũ, và các vị chức sắc tôn giáo vào những trại tập trung dài dài từ Bắc chí Nam. Các ông cai ngục, cai tù được gọi là quản giáo, cán bộ dậy bảo, giáo dục cho các phạm nhân lầm đường lạc lối hiểu biết đường lối của đảng, của cách mạng, và không ai có án rõ ràng, khi được tha về phạm nhân được phát cho cái giấy ra trại. Đọc qua giấy này họ mới té ngửa ra, lúc ấy mới biết tội danh của mình và thời gian học tập cải tạo là bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng có khi còn bị ăn gian. Còn người ở lại được nhà trại nói lấp lửng chừng nào “học tập tốt” thì về. Có người phải ở trong tù vài chục năm vì bị nhà nước cho rằng họ chưa được tốt. Tôi không hiểu người ta dựa vào tiêu chuẩn nào gọi là tốt và xấu để giam giữ người vài chục năm như vậy,
với lời kết án thật mơ hồ.

Tôi bị bắt nóng ngoài đường, không bị liệt vào hàng ngũ văn nghệ sĩ phải học tập cải tạo, mà với một tội danh khác, tổ chức phản động, một tội rất dễ chết. Khốn nạn cho cái thân tôi, thời chế độ cũ đi lính binh nhì không xong, mà nay lại là người tổ chức chỉ huy một trung đoàn, có tên trung đoàn Quyết Thắng trong hồ sơ phản động của tôi. Tôi bị tra tấn, bị đánh và những người tra tấn tôi ngày nào cũng bắt tôi phải khai ra cái trung đoàn Quyết Thắng này ở đâu! Vì bỗng nhiên mình lại mang một tội danh “oai” như thế, một trung đoàn trưởng, nên tôi cũng phải phì cười ra nước mắt sau những trận đòn tra tấn thừa chết thiếu sống.

Tôi cũng không biết người ta phong cho tôi, chức gì, cấp bậc nào, tướng hay tá trong trung đoàn mà tôi bị đứng vào hàng “chủ xị.” Một trung đoàn không có quân số, không doanh trại, không có cả chiến khu kháng chiến. Bản lấy cung của tôi bị bỏ dở dang, không có tôi ký tên nhận tội. May quá thế là tôi thoát chết, tôi đã thấy nhiều người bị chết, bị mang ra xử bắn vì những tội danh bá vơ ấy. Tôi nói với bạn bè đồng tù:

- Dù tao có là thằng nhà văn nhà báo ngu dốt cũng không bao giờ đặt cái tên trung đoàn Quyết Thắng cho tổ chức quân sự của tao, vừa quê vừa thối. Ai cũng biết các khẩu hiệu quyết thắng, quyết chiến, quyết tử, quyết sinh là sản phẩm của các anh Việt Minh, các anh đã xài mòn teo ra rồi, từ thời kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp kia, rồi đến thời chống Mỹ cứu nước xài lại, nay không biết dùng làm gì nữa thì gán đại cho tao. Tao biết ngay các anh độc lắm, lại một trò chụp mũ buộc tội cho người khác để mang ra xử theo luật rừng.

Tôi lênh đênh qua nhiều nhà giam ở thành phố, rồi mới bị đưa lên trại học tập trên rừng, an tâm học tập cải tạo ở nơi đó, bao giờ học tập tốt thì được về xum họp với gia đình. Nhà nước, nhà cầm quyền nói như thế. Chúng tôi ngắc ngoải sống trong lao động khổ sai, nhiều anh em kiệt lực gục xuống bỏ xác trong các trại tù. Thân phận chúng tôi như những nô lệ trong phim Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành hay những nô lệ xây Kim Tự Tháp Ai Cập.

Nhiều lần lao động cuốc đất trúng mìn ngoài bãi lao động, mìn nổ thương vong vô khối người, nhưng được giải thích là mìn đó là của Mỹ Ngụy gài lại để giết nhân dân. Bây giờ chúng tôi có chết có thương vong thì cũng chỉ là “gậy ông đập lưng ông” thôi. Chúng tôi nhiều lần đề nghị với ban quản giáo xin được tự gỡ mìn để khỏi gây hại cho phạm nhân, nhưng được lãnh đạo trại “nhân đạo” từ chối, vì sợ mất thì giờ lao động sản xuất kiếm ra của cải cho đất nước chúng ta còn nghèo. Đồi nghĩa địa tù chật kín những mồ hoang của anh em chúng tôi. Sáng đi lao động, chiều về nhìn mặt trời gác bóng trên sườn núi Chứa Chan mới biết mình còn sống, mong sớm có ngày ra xum họp với gia đình.

Tôi không nhớ rõ là mình ăn đến mấy cái ngày kỷ niệm 30 tháng Tư trong trại cải tạo, vì từng bị bắt lên bắt xuống, như bắt cóc bỏ đĩa, tha rồi lại bị bắt lại. Ngoài cái tội phản động, tôi còn tội phản quốc bỏ quê hương mà trốn đi, tức là tội vượt biên mà không thoát. Phải chi ngày đó tôi trốn thoát, thì bây giờ được nhà nước ưu ái gọi là Việt kiều khúc ruột ngàn dặm được phép trở về thăm quê hương, được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Mấy anh Việt cộng từng đánh đấm bỏ tù, từng kết tội tôi là Việt gian sẽ ngọt ngào khuyên tôi nên hòa hợp hòa giải, quên đi chuyện cũ, đóng góp tất cả những gì tôi đang có để giúp cho đất nước quê hương Việt Nam mà các anh đang cai trị. Tôi đã thấy những cuộc tiếp đón long trọng, những Việt kiều trở về thăm quê hương được diện kiến những lãnh đạo trong nước và họ được huy chương, và được ca tụng vì những đóng góp của họ đã được truyền thanh truyền hình đi khắp mọi nơi. Họ thành người yêu nước, có ẩn chứa ý yêu và ủng hộ đảng CS cầm quyền.

Trong trại học tập, ngày 30 tháng Tư mỗi năm được tổ chức xôm tụ lắm, mà anh em chúng tôi gọi là ngày “đứt phim.” Từ ba giờ sáng một số trại viên có tay nghề trong việc nấu nướng đã được điều lên nhà bếp để thọc tiết heo mổ bò làm đồ ăn, thổi cả cơm nữa, hương cơm phảng phất khắp trại làm các trại viên chúng tôi tỉnh cả ngủ, dù là hương gạo mốc, không phải gạo Nàng Hương chợ Đào. Những hương vị âm thanh hấp dẫn đó làm chúng tôi trở nên háo hức, vì chúng tôi là những kẻ thường xuyên ăn đói mặc rách, cả năm chỉ ăn khoai ăn sắn có biết cơm thịt là gì đâu, sức lao động bị vắt kiệt từng ngày, nay có cơm thì mừng quá. Bao nhiêu năm qua chúng tôi sống trong một miền Nam trù phú lúa thóc không bao giờ thiếu, người nông dân chỉ trồng một mùa cũng ăn được cả năm. Mà nay phải thèm và nhớ cơm, tưởng tượng cũng không ra được bát cơm nó thế nào? Tôi nói có quá không? Nhưng sự thật là vậy.

Ngày hôm ấy chúng tôi được nghỉ lao động và sang ngày hôm sau là ngày quốc tế lao động 1-5, vị chi là hai ngày được ăn được chơi trong vòng rào giây thép gai. Chúng tôi được nghe chính trị viên của ban quản giáo giảng giải cho nghe ngày chiến thắng 30 tháng Tư. Nhưng chỉ là chuyện nước đổ đầu vịt, chúng tôi chỉ nghĩ đến kỷ niệm cũ của chúng tôi vào ngày ấy.

Buổi trưa cả ngàn người tù chúng tôi - mỗi người được ăn một chén cơm, một miếng thịt heo hay thịt bò chi đó bằng ngón tay, chan tí nước xốt cho mặn miệng. Lòng lợn - tiết canh - thịt ngon miếng nạc mang lên nhà khung cho ban giám hiệu và thủ trưởng đơn vị xơi, uống rượu hút thuốc. Lòng nhân đạo của đảng vô biên, không thể nói hết được.

Về phía các cải tạo viên chúng tôi thì sao, cũng chia ra mấy phe trong cuộc ăn uống ấy, không phải tranh nhau ăn, mà cách ăn uống cũng khác lạ. Có phe còn nặng lòng với chế độ cũ mà anh đã phục vụ, nay trở thành bại tướng trong ngày 30 tháng Tư, nhất định không ăn đồ ăn của “kẻ thù” ban phát mà ăn gì đó với muối. Phe thứ hai lấy đồ thăm nuôi của mình ra mời anh em ăn sạch. Phe thứ ba ăn ráo những gì được ban phát với lý luận: “Ta ăn thứ này là của ta làm ra, chẳng ăn chực thằng nào hết, gạo này chính ta làm ta cấy cầy, thịt này cũng chính chúng ta chăn nuôi, không ăn là dại. Ăn bám, ăn trên xương máu chúng ta là những thằng cai tù chứ không phải chúng ta. Lý luận nào cũng đúng cả, không ai đụng chạm tới ai.

Anh chán đời ngồi quay mặt vào tường “diện bích” hết ngày 30 tháng Tư là chuyện của anh. Tự do của mỗi cá nhân được tôn trọng tuyệt đối, nên cuộc ăn uống ấy cũng diễn ra êm thắm, không phải tinh thần xôi thịt mổ cãi nhau như mổ bò ở các đình làng nhà quê. Dù sao tôi cũng nể phục các anh cải tạo chịu ăn cơm muối lắm, các anh còn có liêm sỉ và sĩ khí của một chiến sĩ, tôi không thể đánh giá thái độ ấy là sai hay đúng.

Tôi lại nghĩ đến những anh hùng trong sử sách, đến một Hoàng Diệu, tuẫn tiết theo thành Thăng Long khi quân Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất. Một Nguyễn Tri Phương không chịu cho kẻ thù buộc vết thương khi Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai. Một Võ Tánh chất củi tự thiêu khi bại trận. Một Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc.

Trong đời làm báo của mình, trong trận chiến cuối cùng ngày 30 tháng Tư, tôi đã thấy những người lính Nhẩy Dù trại Hoàng Hoa Thám ở ngã tư Bảy Hiền ôm nhau cho nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, sau khi có lệnh đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh. Và sau đó nhiều tướng tá của chế độ Cộng Hoà ở miền Nam tự sát khi nghe lệnh đầu hàng của “tổng thống” tạm quyền.

Tôi chắc chắn rằng sử sách có ghi lại, dù rằng chế độ ấy thua trận và bị bôi nhọ suốt bao nhiêu năm trời, bị vu cáo là có bao nhiêu tội lỗi với “nhân dân.” Chính sử không thuần ở trong tay kẻ chiến thắng, mà ở trong lòng mọi người trên đất nước này, không thể bóp méo, không thể như cục đất sét muốn nặn hình gì theo ý họ. Còn những thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bại trận ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì sao? Tôi đã thấy họ bị đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà chiều ngày 30 tháng Tư lịch sử ấy. Anh mù cõng anh què. Anh đổ ruột vịn vai anh cụt tay. Họ đi hàng hàng lớp lớp suốt một quãng đường dài, đau thương lắm, tiếc rằng không một phóng viên nhiếp ảnh nước ngoài nào chụp được một tấm hình. Cái máy hình của tôi chụp được mấy tấm thì bị đập bể tan nát, suýt nữa thì tôi nguy hiểm đến tính mạng vì những kẻ trở cờ theo đóm ăn tàn, hoặc những tên lưu manh mà xã hội nào cũng có, mà hồi ấy chúng tôi gọi cái đám ấy là cách mạng 30, nghĩa là mới gia nhập cách mạng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ đang khao khát lập công để tìm cho mình một chỗ đứng, hoặc được một tí ân huệ bố thí.

Tôi đã trải qua hai mươi chín cái ngày 30 tháng Tư, chỉ còn ít ngày nữa thì tròn 30 cái ngày kỷ niệm. Sao trong đầu tôi lẩn quẩn hoài về những kỷ niệm đau thương ấy. Những người thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bi đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà. Họ đi về đâu? Mắt tôi nhìn thấy có những người thương binh kiệt lực, kiệt sức ngã ngay trên đường đi, trên lối cổng ra vào quân y viện và tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt uất hờn còn đọng trên đôi mắt của những người thương binh này. Trong ngàn vạn con người ấy trên đất nước VNCH thế nào không có kẻ sống sót, tôi cũng đã thấy anh mù dắt anh què hát rong ngoài đường, xin đồng tiền bố thí của đồng bào. Họ bị quên lãng đã ba chục năm nay, nên có sự công bằng cho người chết thì cũng nên lo cho người còn sống, họ cũng đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến nồi da xáo thịt này. Người ta đang nói tới chuyện phục hồi Nghĩa Trang Quân Đội ở trên Biên Hòa.

Không biết chuyện này rồi sẽ đi đến đâu.

Tôi là người sống ở Sài Gòn đã gần 30 năm, nghe tin ấy tôi đã mong muốn được thăm nghĩa trang quân đội xưa vì có người thân đã chôn xác ở đó. Nhưng theo tôi biết đâu phải ai cũng được tự do ra vào để tưởng niệm người đã chết, ý nguyện của tôi không được chấp nhận. Người ta nói phục hồi nghĩa trang quân đội chế độ cũ, phục hồi thế nào tôi không biết, tôi thắc mắc trong việc làm ấy họ có phục hồi pho tượng Tiếc Thương bị giật đổ trước cổng nghĩa trang quân đội từ ba chục năm trước không. Sau 30-4-1975 hàng loạt tượng đài bị giật xập, và nay nghĩa trang sẽ để tên gì cho phải đạo làm người, mồ mả còn không. Tôi nghe mất mát cũng nhiều lắm, nếu còn thì là những nấm mồ hoang, kẻ nằm dưới đất kia là kẻ có tội, không ai được quyến thăm viếng vì thăm viếng là bị “văng miểng.” Tôi chỉ mong muốn được đến đấy, thắp lên một nén nhang tưởng niệm, dù mồ mả của những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà có còn hay đã mất. Tôi cho chuyện làm ấy hay lời hứa hẹn ấy là phiêu, chẳng có gì xất cả.

Tại tiệm phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng cuối đường Pasteur trong thành phố Sài Gòn, tôi thường gặp một anh bán báo, cụt cả hai tay, hai tay cụt đó được ráp hai tay sắt inox có kẹp, thao tác rất gọn ghẽ, anh kẹp những tờ báo đưa cho khách hàng hoặc nhận tiền, thối lại tiền bán
báo. Không biết anh bán báo ở đó đã bao nhiêu năm.

Một hôm anh mời tôi mua báo. Tôi lấy tiền ra biếu anh, vỉ sáng nay tôi đã mua báo ở sạp báo gần nhà. Anh ta nhìn tôi khẽ lắc đầu:

- Không, cám ơn ông tôi không thể nhận được.

- Vậy tôi mua báo. Tôi hỏi anh.

- Vâng ông chọn tờ nào?

Tôi chọn đại một tờ trong xấp báo mà anh ta ôm trên người, tôi đưa tiền cho anh ta, nói:

- Thôi anh khỏi phải thối lại.

- Vâng cám ơn ông.

Tôi nhìn kỹ anh ta hơn, tôi hỏi thăm về hai tay anh. Anh ta nói:

- Tôi không bị tai nạn mà là thương binh chế độ Cộng Hoà

- Anh thuộc binh chủng nào hồi trước? Tôi hỏi tiếp.

Anh ta không trả lời về binh chủng của anh chỉ nói:

- Hồi đó tôi bị thương cụt cả hai tay ở mặt trận Bình Long, chính quyền cũ làm cho tôi hai cánh tay này và tập cho tôi cách xử dụng. Gần ba chục năm nay tôi đi bán báo để sinh sống.

Vì lý do gì đó anh không nhắc tên binh chủng của mình. Nhưng khi tôi nói tên của vị tướng chỉ huy mặt trận, mắt anh ngời sáng. Tôi không ngờ đã mấy chục năm qua anh không quên và dành cho cấp chỉ huy mình sự tôn kính chân thành. Tôi ngưỡng mộ anh là người dũng cảm, liêm sỉ từ tư cách đến việc phải kiếm sống, làm một con người. Đó là điều hiếm có, ít có ai sống trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa dám biểu lộ cái tinh thần quật cường ấy. Có ngài Việt kiều ngày xưa từng giữ những chức vụ quan trọng, từng là “cựu” này “cựu” kia, ngày “đứt phim” chạy có cờ, bỏ đồng đội bỏ của chạy lấy người, nay về thăm quê hương phát biểu linh tinh chả ra cái giống ôn gì, so ra tư cách của ngài với anh chàng thương binh này, cách xa một trời một vực, thật là quá chán. Tôi nói với anh:

- Anh rất can đảm, tôi ngưỡng mộ anh.

- Có gì đâu, tôi còn thua ông tướng chỉ huy chúng tôi. Anh cười nhũn nhặn.

Tôi nghĩ đến tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ ở Bình Long Anh Dũng, người không trốn chạy mà tự sát như một số tướng lãnh khác của chế độ Cộng Hoà ngày 30 tháng Tư, sau khi “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng vô đìều kiện.

Báo đài ngày nào cũng có bài ca tụng về ngày lịch sử 30 tháng Tư, ngày chiến thắng vĩ đại của dân tộc, ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước. Đoàn quân chiến thắng kéo quân vào thành phố được sự đón tiếp nồng nhiệt của nhân dân thành phố, cùng nổi dậy với cách mạng, bao nhiêu người ra phất cờ chào đón đoàn quân. Một hoạt cảnh mà tôi, một phóng viên chiến trường đã hết thời, ghi nhận được đúng ngày hôm đó:

Cuộc bại trận nhanh quá, nhanh đến độ dân Sài Gòn phải ngỡ ngàng. Kẻ nào không chạy thoát theo những chuyến di tản thì đổ ra đường xem đoàn quân chiến thắng đi dép, đội mũ cối hay mũ tai bèo vào thành phố. Có những xác người dân hoặc lính chế độ cũ chưa được thu nhặt còn sót ở những góc đường, trên những quân trang quân dụng ném đầy trên đường đi, cả vũ khí nữa chưa kịp thu nhặt.

Những con người đang đứng ngơ ngác ngỡ ngàng ở đó, bị nhét vào tay những lá cờ giấy, và anh “cách mạng" đeo súng mang băng tay đỏ mặt gườm gườm những kẻ không nhiệt tình vẫy cờ chào đón các anh bộ đội cụ hồ tiến vào thành phố. Tôi thấy một người đàn ông cũng bị nhét vào tay một lá cờ, một anh mang băng đỏ đeo súng ra huých vào sườn người đàn ông đó một cái. Ông ta có lẽ hiểu ý liền nhẩy chồm lên phất cờ lia lịa, mồm la hoan hô liên tục. Thế cũng là quá đủ, tôi lủi vào đám đông kiếm đường chạy về nhà. Ngoài kia những dòng người dầy đặc dần trên đường, có người đang tìm kiếm người thân, người tung hô những khẩu hiệu chiến thắng, người ngơ ngác ngẩn ngơ đứng nhìn. Họ không chịu tin vào sự thực là Sài Gòn bị thất thủ.

Nguyễn Thụy Long



Đọc “Trí Quang tự truyện” - Trần Bình Nam





Trần Bình Nam
    Giới thiệu
Cuối năm 2011, thầy ThíchTrí Quang cho xuất bản ở trong nước cuốn “Trí Quang tự truyện” (2011 – Nhà Xuất bản Tổng hợp thành phố Sài gòn).

TriQuangTuTruyenThầy Trí Quang là một trong những nhân vật được dư luận thế giới quan tâm trong nửa thế kỷ trở lại đây. Trong thập niên 1960 khi ông cầm đầu cuộc vận động đòi bình đẳng tôn giáo tại Việt Nam, báo chí Mỹ tặng ông danh hiệu “Người làm rung chuyển nước Mỹ”. Sau ngày 30-4-1975 người Cộng sản để ông sống yên ổn và âm thầm tại chùa Ấn Quang ở Sài gòn. Nhưng lịch sử không để Thầy yên.

Các thế lực kình chống vẫn còn tìm cách bôi nhọ Thầy từ lập trường chính trị đến tác phong đạo đức. Người ta kết án Thầy và Phật giáo đã tiếp tay làmViệt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Người ta nói Thầy là đảng viên cộng sản cao cấp và còn đang âm thầm làm công tác chiến lược cho đảng. Sự thật ở đâu? Cuốn “Trí Quang tự truyện” giúp trả lời một phần các câu hỏi này.

Thầy Trí Quang là một tu sĩ Phật giáo chuyên trước tác và dịch kinh, nên hành văn của Thầy bị ảnh hưởng bởi lối văn kinh điển làm cho câu văn trong cuốn Tự truyện nhiều chỗ khó hiểu. Do đó, trước khi đi vào những vấn đề liên quan đến Tự truyện, tôi xin tóm tắt nội dung cuốn sách.
    Cuốn Tự Truyện lai lịch Thầy Trí Quang
Cuốn sách in khổ nhỏ, dày 222 trang gồm cả bìa, cỡ chữ 18, in 3000 bản.

Thầy Trí Quang sinh năm 1922 tại làng Diêm điền, tỉnh Quảng Bình, tên khai sinh Phạm Quang, tên tục là Do, năm nay 90 tuổi. Ông là con thứ tư trong gia đình có 6 anh em trai, hai anh đầu khác mẹ. Cho đến năm 2011, chỉ còn người anh Phạm Minh lớn hơn ông 1 tuổi còn sống tại Quảng Bình. Gia đình ông theo đạo Phật. Cha ông bán thế xuất gia với ngài Thích Đắc Quang, pháp danh Hồng Nhật.

Năm 1928 khi ông lên 6, bố mẹ cho ông học chữ Hán và chữ quốc ngữ cho đến khi hoàn tất chương trình tiểu học của sở Học Chánh Đông Dương. Sau đó bố mẹ ông tập cho ông làm đất làm nương trong 3 năm.

Cuối thập niên 1930 tỉnh hội Phật giáo Quảng Bình được thành lập sau khi bác sĩ Lê Đình Thám thành lập Tổng hội Phật giáo miền Trung tại Huế năm 1932. Năm 1938 bố mẹ ông quyết định cho ông xuất gia. Ông vào Huế theo học chương trình đào tạo tăng sĩ. Ông hoàn tất chương trình trong 6 năm, tốt nghiệp năm 1944.

Mùa hè năm 1946 thầy Trí Quang được mời ra Hà Nội thành lập Phật học viện tại chùa Quán sứ. Cuối năm 1946 cuộc toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, việc thành lập Phật học viện dở dang. Thầy Trí Quang trở về Quảng Bình vừa kịp lúc thọ tang cha, và ở lại đó với Mẹ mấy tháng. Sau đó ông vào Huế tiếp tục tu học.
Thầy Trí Quang không có ý lập chùa, thu nhận đệ tử, truyền y bát. Tại Huế Thầy tu ở chùa Từ Đàm. Sau này vào miền Nam, khi thì Thầy ở chùa Ấn Quang, khi thì ở chùa Già Lam. Dành trọn thì giờ trước tác và dịch kinh điển. Công việc này được tiếp tục cho đến hôm nay. Ông nói bỏ thì giờ vài ba tuần để viết “Tự truyện” này ông cũng không yên tâm.

Thời gian tu học tại Huế (1938-1944) thầy Trí Quang trì chú tụng kinh, và ông tin sự trì tụng đã giúp ông thoát nạn nhiều lần.

Ngoài ra ông cũng từng để tâm suy nghĩ về “sự đô hộ của người Pháp và vị trí người tăng sĩ Phật giáo của ông”. Ông đọc nhiều sách báo Phật giáo như Hải triều âm, Phật giáo triết học của Phan Văn Hùm, Phật giáo đại quan của Phạm Quỳnh, tiểu phẩm của thánh Gandhi, tài liệu chuyền tay của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục như Thế giới Sử cương và Cách Mạng Tháng Mười … Thầy có đọc “Bản tường trình sự cần thiết thành lập Việt Minh” của Trường Chinh nói về quan điểm “giải phóng dân tộc”. Thầy Trí Quang nói Thầy hiểu sau “giải phóng dân tộc” còn gì nữa chứ không phải ngưng ở đó. Thầy ngụ ý Thầy lo ở cái “còn gì nữa” đó. Nhưng Thầy nghĩ vì các khuynh hướng chính trị chống Pháp khác đều bị làm cỏ cả thì còn có lựa chọn nào khác ngoài Việt Minh.

Đầu năm 1947 Pháp chiếm Quảng Bình, thầy Trí Quang cùng với Mẹ và dân làng tản cư lên vùng “Mãi Đắng” cách thành phố Quảng Bình 13km. Sau đó thầy Trí Quang từ biệt Mẹ vào chiến khu chống Pháp, phụ trách quận hội của Liên Việt. Tháng 10, 1947 ông được tin Mẹ bệnh nặng do Đại đội trưởng một đại đội tự vệ hoạt động trong thành phố tên là Thế cho biết. Được phép của Ủy ban kháng chiến và sự dẫn đường của Thế, ông đã vượt qua bao nhiêu gian lao nguy hiểm vào thành thăm Mẹ. Sau đó nhờ sự can thiệp của Thế ông được Tổ chức cho phép ở lại săn sóc Mẹ.

Ở với Mẹ được một năm Mẹ Thầy ngỏ ý muốn Thầy hoàn tục lấy vợ để nối dõi tông đường. Thầy từ chối. Đang dùng dằng với Mẹ thì thầy Trí Quang được giới tu sĩ tại Huế mời vào Huế.
    Thành lập Tổng Hội Phật GiáoViệt Nam

Năm 1950 Liên minh Hữu nghị Phật tử Thế giới (LMHN/PTTG) được thành lập tại Tích Lan. Hòa thượng Tố Liên đại diện phía Việt Nam quốc gia đi tham dự. Trở về HT Tố Liên vận động thành lập chi bộ Việt Nam của Liên Minh Phật tử Thế giới. Thầy Trí Quang đề nghị nhân dịp này thành lập một Tổng Hội Phật giáo Việt Nam (THPGVN) để họat động song hành với Liên Minh. THPGVN được tạm thời thành lập, suy cử Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết đương kim Pháp chủ Tăng Già miền Trung làm Tổng Hội chủ lâm thời, và Hòa Thượng Thích Trí Thủ đương kim Hội trưởng Hội Phật học miền Trung làm Trưởng ban Tổ chức để tổ chức đại hội chính thức thành lập THPGVN vào ngày lễ Phật Đản năm sau (1951).

Tại đại hội 1951 triệu tập tại chùa Từ Đàm, Huế, bài hát “Phật Giáo Việt Nam” được hát lên lần đầu tiên, Hiến chương THPGVN được công bố, và nghị quyết công nhận cờ Phật giáo thế giới của LMHN/PTTG được thông qua. Theo Hiến Chương THPGVN được đặt dưới sự lãnh đạo của Hội đồng Quản trị Trung ương (HĐQTTW) gồm Tổng hội chủ (HT Tịnh Khiết), một Phó Hội chủ Tăng già (HT Trí Hải), một Phó Hội chủ cư sĩ (cụ Lê Văn Định), một Tổng thư ký (ông Tráng Đinh), và nhiều thành viên phụ trách các Ban, trong đó có thầy Trí Quang .

Khi trình báo với chính quyền, ông tổng trưởng bộ Nội vụ yêu cầu THPGVN áp dụng Dụ số 10 do Quốc trưởng Bảo Đại ban hành năm 1950. Đạo Dụ này xem các tổ chức tôn giáo là những Hiệp hội như các hội Tiểu Thương, hội Đá Bóng, Hội Ái Hữu…ngoại trừ Điều 44 của đạo Dụ quy định một "Chế độ đặc biệt dành cho các Hội Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô, các Hoa Kiều Lý Sự Hội, sẽ được ấn định sau."

Chính quyền yều cầu tu chính Hiến chương tách Tăng Già ra khỏi Cư sĩ. Tiếp theo tòa đại biểu miền Trung lệnh cho Tổng hội hạ bảng trụ sở, nộp khuôn dấu, ép ông Lê Văn Định từ chức và bắt giam ông Tráng Đinh về tội thành lập THPGVN một cách bất hợp pháp. Đồng thời dấu hiệu kỳ thị Phật giáo bắt đầu xuất hiện nhiều nơi trên toàn quốc.

Tiếp theo là thời kỳ phân chia đất nước 1954-1955. Thầy Trí Quang ghi trong tự truyện: “Đây là thời điểm mà tổ quốc phân chia Nam Bắc. Tôi nghĩ tôi nên đứng ở cương vị thuần túy Phật giáo không nên có ý kiến về việc đời quan trong. Chỉ đánh dấu tâm tư bằng dấu ẩn mà thôi.”

Năm 1956 thầy Trí Quang được tin Mẹ bị đấu tố tại Quảng Bình . Thầy ghi trong tự truyện: “Mẹ khốn khổ của tôi bị đấu tố. Tôi không đủ can đảm nhớ lại cho hết, ghi lại cho đủ, chỉ đánh dấu vài dấu than mà thôi .” Thầy vào Nha Trang tu tâm dưỡng tánh trong 4 năm từ 1956 đến 1960. Thầy trở lại Huế mấy năm thì năm 1963 vụ “cấm treo cờ Phật giáo” xẩy ra.

Thầy vắn tắt thuật lại về tổ chức của THPGVN gồm 3 miền Bắc, Trung Nam, mỗi miền có hai tập đoàn tăng già và cư sĩ. Hai tập đoàn của miền Trung là Giáo Hội Tăng Già Trung phần và Hội Phật Giáo Trung phần đặt dưới sự lãnh đạo của một ban trị sự gọi là Tổng Trị Sự do thầy Trí Quang cầm đầu.Tám năm trước, chức vụ này do ngài Thích Tịnh Khiết, nhưng nay ngài cần tịnh trú. Và do cơ duyên đó thầy Trí Quang trở thành nhân vật chính trong cuộc “Vận động 1963 của Phật gíáo.”
    Cuộc “Vận động” 1963 của Phật giáo

Hằng năm nhân ngày Phật Đản thành phố Huế rực cờ Phật giáo Thế giới. Thường buổi lễ Phật Đản tổ chức buổi sáng tại chùa Từ Đàm, buổi chiều được đài phát thanh Huế phát lại. Ông Ngô Đình Cẩn là người luôn khuyến khích sinh hoạt tôn giáo hài hòa. Năm 1963 đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục muốn thấy quang cảnh tại Huế trong ngày Phật Đản ít tưng bừng hơn vì ông Giám mục đang vận động tòa thánh Vatican để trở thành Hồng Y. Ý muốn của đức Giám mục trở thành lệnh của chính quyền. Mấy ngày trước Phật Đản, ông tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế Nguyễn Văn Đẳng đến truyền lệnh và yêu cầu thầy Trí Quang khuyên Phật tử đừng treo cờ Phật gíao trong dịp Phật đản. Thầy Trí Quang từ chối.

Sáng ngày 14/4 âm lịch, ông cố vấn Ngô Đình Cẩn mời họp, trấn an thầy Trí Quang cho biết ông sẽ can thiệp để Sài gòn bỏ lệnh cấm treo cờ. Nhưng sự can thiệp của ông Cẩn không có kết quả. Chiều ngày 14 và trong đêm 14 rạng ngày 15 cảnh sát vẫn đi hạ cờ. Cả thành phố Huế náo động. Thầy Trí Quang quyết định sáng ngày 15/4 sẽ bày tỏ thái độ phản đối hành động kỳ thị tôn giáo của chính quyền trong khi hành lễ Phật Đản.

Buổi chiều ngày 15/4, khi không thấy đài phát thanh Huế phát thanh lại buổi lễ, Phật tử ùn ùn kéo đến đài (nằm đầu cầu Trường Tiền bên hữu ngạn sông Hương) hỏi lý do. Trong khi ông Thị trưởng, thầy Trí Quang và ông Giám đốc đài đang gặp nhau trao đổi ý kiến tìm cách giải quyết thì ngoài sân xe tăng bảo vệ đài cán vào người biểu tình và có tiếng nổ. Một số em Phật tử bị giết .

Thành phố Huế đình công bãi thị. Ngày 17/4 thầy Trí Quang và ban Tổng Trị Sự quyết định chọn ngày 21/4 âm lịch, ngày thất tuần đầu tiên của Phật tử tử nạn để phát động cuộc “Vận Động của Phật giáo”. HT Trí thủ làm Trưởng ban, HT Thiện Minh và Thiện Siêu thảo Tuyên Ngôn, thầy Trí Quang viết điện văn gởi ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc thông báo chính quyền Nam Việt Nam vi phạm nhân quyền. Điện văn gồm 3 điểm:
    (1) Chính quyền cản trở lễ Phật Đản,
    (2) Chính quyền triệt cờ Phật giáo thế giới,
    (3) Chính quyền khủng bố trắng sự phản kháng bất bạo động của Phật tử bằng chiến xa.

Ngày 18 tại chùa Từ Đàm thầy Trí Quang thuyết trình cho nhân sĩ và trí thức Huế về nội dung cuộc “Vận động” trọng tâm là phản đối “Dụ số 10” do quốc trưởng Bảo Đại ký ban hành năm 1950. Thầy cho biết năm 1956, sau khi trưng cầu dân ý hạ bệ Quốc trưởng Bảo Đại, tổng thống Ngô Đình Diệm hủy bỏ hầu hết các đạo Dụ do ông Bảo Đại ban hành, ngoại trừ Dụ số 10.

Thầy long trọng xác định lập trường của Phật giáo là: Bằng phương cách bất bạo động, Phật giáo chỉ phản đối chính sách ngược đãi Phật giáo của chính phủ, không bước qua điạ hạt quyền chức chính quyền. Phật giáo không xem Thiên chúa giáo là đối nghịch, hoàn toàn thông cảm thái độ của Tòa thánh La Mã, và yêu cầu hai bên đối trận (Nam và Bắc) đừng khai thác cuộc vận động của Phật giáo cho mục tiêu chính trị của mình.

Ngày 21/4 sau khi làm lễ tuần, công bố Tuyên Ngôn, ba đại lão Thuyền Tôn, Tây Thiên và Vạn Phước đều trên 100 tuổi cùng Phật tử đi bộ đến tỉnh đường trao tuyên ngôn.

Sau khi ra Tuyên Ngôn, thầy Trí Quang và Tỉnh hội Thừa Thiên chuẩn bị một cuộc biểu tình lớn trên toàn tỉnh vào ngày nhị thất trai tuần 28/4. Phía chính quyền cho phong tỏa chùa Từ Đàm, cắt điện cắt nước và cho xe thiết giáp trấn hai đường Nam giao và Bến ngự dẫn đến chùa.

Trong khi đó tại Sài gòn Hòa Thượng Tâm Châu và cư sĩ Mai Thọ Truyền thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo nhập cuộc tranh đấu. Ngày 27/4 âm lịch (nhằm ngày 11/6/1963 dương lịch) Hòa Thượng Thích Quảng Đức (trụ trì chùa Phước Hòa) tự thiêu trước tòa đại sứ Cambodia làm xúc động lương tâm tổng thống Diệm và toàn thể thế giới. Chính phủ kêu gọi Phật giáo bình tĩnh để nói chuyện hòa giải. Chùa Từ Đàm được giải tỏa.

Cuộc biểu tình vĩ đại dự trù vào ngày nhị thất trai tuần tại Huế được tạm ngưng. Hòa Thượng Tịnh Khiết, Thiện Minh và thầy Trí Quang được chính quyền cấp phương tiện bay vào Sài gòn dự hiệp thương hòa giải do chính quyền triệu tập ngày 13/6 và do Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ chủ tọa.

Một bản “Thông cáo chung” được ký kết ngày 16/6 giải quyết hầu hết các nguyện vọng của Phật giáo. Tổng thống Diệm bút phê chấp thuận “sau Hiến Pháp còn có tôi.” Để chứng tỏ thiện chí, đồng thời tránh căng thẳng gây đổ máu Ủy ban Liên Phái tạm ngưng tang lễ của HT Quảng Đức dự trù có sự tham dự của quần chúng trong ngày 16/6. Đến ngày 19/6 mới cử hành tang lễ và chỉ dành cho tăng ni tham dự.

Tuy nhiên tình hình đàn áp vẫn tiếp tục diễn ra tại các tỉnh, và những lời tuyên bố xúc phạm kết án Phật tử “nướng” Hòa thượng Quảng Đức của bà Ngô Đình Nhu làm cho không khí đấu tranh tại Sài gòn lại trở nên căng thẳng.

Trong “Tự truyện” Thầy Trí Quang thuật lại 3 cuộc biểu tình ông còn nhớ : Hòa Thượng Quảng Độ biểu tình tại chợ Bến Thành bị đánh vỡ đầu, chở lên xe cây đưa về nhốt tại An Dưỡng Địa. Cuộc biểu tình thứ hai do Đại đức Quảng Hương cùng với sự trợ lực của HT Tâm Châu, Đức Nghiệp kéo đến tư thất đại sứ Hoa Kỳ trương biểu ngữ yêu cầu Hoa Kỳ xét lại viện trợ cho một chính quyền đàn áp tôn giáo. Và cuộc biểu tình thứ ba do em Quách Thị Trang dẫn đầu tại bùng binh chợ Bến Thành sáng sớm ngày 21/8 sau khi tổng thống Diệm ban hành lệnh giới nghiêm càn quét các chùa Xá Lợi, Ấn Quang …bắt tất cả tăng ni các cấp về nhốt tại Rạch Dừa trong đêm 20/8. Em Quách Thị Trang, mình quấn biểu ngữ cùng các mẹ, các chị băng qua hàng rào cảnh sát miệng hô to “trả Thầy của chúng tôi” và bị bắn chết tại chỗ.

Tại Rạch Dừa trong đêm 20/8 cảnh sát lập lý lịch để bắt các Thầy lãnh đạo phong trào. Các HT Tâm Châu, Đức Nghiệp, Hộ Gíac, Tâm Giác đều sa lưới. Các sư đệ tìm cách bảo vệ tôi. Một thầy tách tôi ra khỏi nhóm Xá Lợi qua nhập với nhóm Già Lam. Mấy giờ sau cảnh sát dẫn cụ Mai Thọ Truyền vào hỏi ai là Trí Quang. Cụ Mai Thọ Truyền lướt nhìn một lượt, chúng tôi bốn mắt chạm nhau thật nhanh, và cụ Mai Thọ Truyền lắc đầu nói “không có, không có”. Cái màn khai lý lịch, lăn tay chụp hình mới ly kỳ. Thầy Nhật Thiện, sư đệ của tôi quan hệ thế nào với toán lập hồ sơ không biết. Tôi khai tên Đinh Văn Tánh thuộc chùa Pháp Quang. Khi chụp hình và lăn tay trên bản lý lịch thì lại là hai người khác. Cảnh sát làm việc không ngước mắt lên.

Ngày 29/8 (nhằm ngày 11/7 âm lịch) chính quyền lệnh cho các tăng ni về các chùa liên hệ ăn Vu Lan, cũng là dịp thanh lọc một lần nữa để tìm bắt thầy Trí Quang. Về đến chùa Pháp Quang, Thầy đang tắm rữa thì thấy cảnh sát vào chất vấn sư cụ trụ trì đòi nhận diện chư tăng mới được tha về. Biết bị lộ thầy Trí Quang nhanh trí giả đến xin sự trụ trì đi đến Ấn Quang đưa cái thư cám ơn sự cụ bảo mang đến cho HT Thiện Hòa mà chưa đi được. Sư cụ hiểu ý, khoát tay bảo đi nhanh lên. Cảnh sát không nghi ngờ.Thầy Trí Quang , thầy Nhật Thiện và một thầy nữa là sư Nhâm ra cổng lấy xe taxi đi Ấn Quang. Biết các taxi đều của cảnh sát trá hình công tác, ngồi trên xe thầy Trí Quang than phiền tu hành rắc rối và nói sau vụ này hoàn tục không tu nữa. Sau đó nhờ tài xế lái ra đường Hàm Nghi để mua thuốc nhức đầu rồi cả 3 người lẻn vào tòa đại sứ Mỹ xin tị nạn.

Thầy Trí Quang tỵ nạn ở đó cho đến ngày đảo chánh mới trở lại chùa. Thầy nói rằng nếu bị bắt ông sẽ bị thủ tiêu nên Thầy “không có cách nào khác hơn là đến tòa đại sứ Mỹ.” Và thầy Trí Quang cũng đã nói với viên chức tòa đại sứ rằng “tôi vào đây còn muốn nhìn thấy người Mỹ giải quyết như thế nào về vấn đề mà người Mỹ có trách nhiệm.” Khi ra về người Mỹ khuyên Thầy nên góp ý kiến với chế độ mới. Thầy Trí Quang nói thầy nghĩ đến tình hình Hàn quốc đảo chánh lên đảo chánh xuống sau khi Lý Thừa Vãn bị lật đổ nên nói “nhưng không nên đảo chánh nữa.” Viên chức tòa đại sứ Hoa Kỳ im lặng.

Sau đảo chánh thầy Trí Quang giúp thành lập GHPG/VNTN, và nói việc thành lập này “đối nội, đối ngoại đầy những sự khó vui.” GHPG/VNTN gồm hai Viện, Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo. Thầy Trí Quang xin giữ nhiệm vụ Chánh thư ký viện Tăng Thống để “ẩn mình” và tiếp tục “dịch giải kinh sách” như ý nguyện.

Trong Tự truyện thầy Trí Quang ghi lại việc làm của một số nhân vật liên hệ:

(1) Hòa thượng Chơn Trí và một nam huynh trưởng Gia đình Phật tử tên là Gái đã huy động lực lượng Phật tử hữu hiệu đóng góp cho hai ngày 14 & 15 tháng 4 âm lịch.

(2) Ba thanh niên Bôi (Lê Hữu Bôi – đã qua đời), Nho (Nguyễn Trọng Nho?), và Doãn (?) đã hoạt động không ngại gian nguy sau ngày thiết quân luật.

(3) Ông tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng trong hoàn cảnh “trên đe dưới búa” đã hành xử xứng đáng là một công bộc và một Phật tử.

(4) Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế, ân nhân gia đình ông Diệm, đã hết lòng tham gia cuộc vận động 1963 của Phật giáo để bị mất sạch và tù đày.

(5) Thầy Nhất Hạnh và bác sĩ W. (Dr. Erich Wulff dạy Y khoa Huế 1961-1967. Mất tại Paris ngày 31/1/2010) ở nước ngoài đã giúp nhiều cho cuộc vận động.

(6) Bác sĩ Bửu Hội ân hận vì ở bên ngoài tuyên bố Phật giáo không bị kỳ thị, khi trở về thăm Mẹ là sư bà Diệu Huệ đã gíup mang 5 vali tài liệu với đầy đủ chứng cớ kỳ thị Phật giáo chuyển cho ông Tổng thư ký Liên hiệp quốc.

(7) HT Trí Quảng vận động học sinh tham gia cuộc vận động rất thành công.

(8) Hai HT Hộ Giác và Giác Đức vì công kích bà Ngô Đình Nhu khi bị bắt đã được cơ quan an ninh “hỏi thăm sức khỏe khá ân cần”.

Thầy Trí Quang còn thuật lại rằng:

Trong đêm giới nghiêm, trước khi Lực lượng Đặc biệt đánh chùa, tòa đại sứ Thái Lan và Nhật Bản cho người nhắn Thầy cho biết họ sẵn sàng mở cửa tòa đại sứ cho Thầy tá túc. Thầy Trí Quang khước từ .
    Vụ Phật giáo miền Trung chống chính quyền quân nhân năm 1966

Năm 1966, trong vụ một số sĩ quan và quân nhân Vùng I Chiến thuật bất tuân lệnh của chính phủ Trung ương có liên hệ đến vai trò của Phật giáo và cá nhân thầy Trí Quang thì Thầy chỉ ngắn gọn trong 17 trang sau cùng.

Thầy Trí Quang không hề nhắc tên một vị Tướng lãnh nào và chỉ tóm tắt rằng do cuộc vận động bầu Quốc hội Lập hiến, Phật giáo trở nên xung khắc với chính quyền quân nhân, và Thầy miêu tả Thầy “chữa lửa mà bị cho là đốt nhà”. Thầy nói khi đòi bầu Quốc hội Lập hiến Thầy “mong quần chúng có cơ cấu sinh hoạt chính trị, Phật giáo có thể rút mình ra.” Nhưng Thầy than: “họa hổ bất thành phản loại cẩu” (vẽ cọp biến thành vẽ chó).

Thầy cho rằng bản chất của vụ việc là các Tướng, tướng nào “cũng thấy mình có thể làm nên chuyện” và Phật giáo bị cuốn hút vào cuộc “là vì cái tính giữa đường thấy chuyện bất bình mà tha, nên bị lợi dụng.” Thầy Trí Quang bình luận rằng có ông Tướng “nghĩ mình dẹp lọan được” thì ngon. Không ngờ “bị buộc phải khuất thân đối với kẻ thật ra là ăn nhờ.” (TBN: thầy Trí Quang muốn nói ông Kỳ làm mà ông Thiệu hưởng).

Về vụ “bàn thờ Phật xuống đường” tại Huế , thầy Trí Quang kể lại rằng: Một đơn vị thiết giáp được gởi từ Quảng Trị vào. Đến cầu An Hòa, vị sĩ quan chỉ huy có sáng kiến bảo Phật tử mang bàn thờ ra đường để ông báo cáo cấp trên không tiến quân được. Trong một thời gian ngắn bàn thờ xuống đầy thành phố. Phật tử đến hỏi ý kiến. Thầy Trí Quang viết: “Tôi hỏi ông Thiện Siêu đang có mặt. Ông nói, thụ động chứ biết làm sao. Thực tế tôi cũng không thể bảo ngưng được nữa. Bàn Phật đã có sâu trong thành phố rồi. Chưa bao giờ, mà bây giờ, tôi phải xúc phạm sự tôn nghiêm đến mức độ này”.

Cuối tháng 5/1966 Thầy Trí Quang tuyệt thực phản đối khi quân chính phủ tiến vào thành phố Huế để ổn định tình hình. Thầy bị bắt đưa vào Sài gòn giam tại một bệnh viện tư (TBN: bệnh viện bác sĩ Nguyễn Duy Tài ở đường Duy Tân).

Thầy tiếp tục cuộc tuyệt thực 100 ngày và sống sót. Thầy kể trong thời gian tuyệt thực có 3 vận động quốc tế liên quan đến Thầy: (1) Một nữ giáo sư trẻ, dạy Luật, người Âu, đang dạy học tại Ấn độ nói thần linh bảo cô đến làm phép và săn sóc Thầy. Thầy Trí Quang bình luận “âm mưu rất tồi cũng được dùng tới” (2) Ý đại lợi cho xe ngoại giao đoàn mời Thầy sang Ý nghỉ ngơi, (3) Một dân biểu Nhật Bản nói thủ tướng Nhật nhờ chuyển lời mời Thầy qua Nhật. Thủ tướng Nhật dành một ngôi chùa rộng và để riêng 1 triệu mỹ kim cho Thầy tiêu dùng. Thầy Trí Quang trả lời Thầy không có ý định nhờ ai săn sóc và đi đâu cả.
    Cảm nghĩ của người đọc

Tôi thật bứt rứt khi đọc xong Tự truyện của thầy Trí Quang. Muốn hay không muốn thầy Trí Quang là một nhân vật lịch sử, gần như đi vào huyền thoại. Thầy đang sống mà có kẻ xem Thầy như Thánh. Nhưng cũng có những thế lực đen tối, những đệ tử của Phật bán linh hồn cho quỹ sứ tìm cách nhận chìm Thầy trong hỏa ngục. Tôi bứt rứt vì tự truyện của Thầy không soi sáng gì thêm cho lịch sử.

Về phương diện văn từ, ngoài việc Tự truyện bị ảnh hưởng văn của kinh điển nhà Phật, lối hành văn cũng thiếu khúc chiết.

Qua Tự truyện, giai đoạn “vận động đòi bình đẳng tôn giáo” trước và trong năm 1963 Thầy viết rõ với nhiều chi tiết. Nhưng giai đoạn từ 1963 đến 1975 Thầy viết rất ít về vai trò của Thầy và của Phật giáo, nhất là vụ đụng độ với chính quyền quân nhân năm 1966.

Những nét chấm phá của Thầy liên quan đến giai đoạn căng thẳng tại miền Trung trong năm 1966 quá đơn sơ. Nhưng không thể chỉ đơn giản “là vì cái tính giữa đường thấy chuyện bất bình mà tha, nên bị lợi dụng.”

Sau năm 1963 Phật giáo ảnh hưởng nhiều đến tình hình xã hội và chính trị tại miền Nam. Hai tu sĩ năng động nhất là HT Thiện Minh ở Sài gòn và thầy Trí Quang ở Huế, chính yếu là thầy Trí Quang. Huế, thành phố lớn của Vùng I chiến thuật trở thành trung tâm sinh hoạt của Phật giáo. Chương trình của Phật giáo là: Thứ nhất, tổ chức Gíao hội và duy trì đòan kết nội bộ (Bắc tông, Nam tông …). Thứ hai chống nạn quân phiệt. Thứ ba giải quyết chiến tranh. Chương trình này đụng chạm đến quyền lợi của tôn giáo khác, quyền lợi của các ông Tướng, và chính sách chiến tranh của Hoa Kỳ.

Chính phủ dân sự Phan Huy Quát được Phật giáo ủng hộ bị lật đổ giữa năm 1965 đưa tướng Nguyễn Cao Kỳ vào chức thủ tướng. Ông Kỳ, nhiều tham vọng, trong khi Phật giáo chống quân phiệt nên không ưa thầy Trí Quang. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Vùng I, trái lại dựa vào thế Phật giáo coi thường Kỳ.

Tháng 3/1966 tướng Kỳ cách chức tướng Thi. Phật giáo miền Trung phản đối, với sự ủng hộ của nhiều sĩ quan và binh sĩ Vùng I, và phát động nguyện vọng đòi bầu cử Quốc hội Lập hiến để thành lập chính phủ dân sự. Trong thâm tâm có thể thầy Trí Quang nghĩ một chính phủ dân sự có thể nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng (MTGP) miền Nam tạo thành một chính phủ đoàn kết dân tộc đi đến chấm dứt chiến tranh. Nhìn lại chương trình này là một ảo tưởng trước thực tế của chính sách Hoa Kỳ và quyết tâm của cộng sản Hà Nội dùng “con búp bê” MTGP để cộng sản hóa miền Nam. Sự sai lầm này trong sách lược hòa giải và chấm dứt chiến tranh của Phật giáo xuýt đưa đến nội chiến, mà kẻ hưởng lợi chỉ có thể là cộng sản Hà Nội.

Sau cùng nguyện vọng bầu cử Quốc hội Lập Hiến, thành lập chế độ dân sự của Phật giáo cũng được thực thi, nhưng chỉ thay cái bình để đổ vào đó thứ rượu cũ. Tướng Thiệu và tướng Kỳ trong hai bộ áo “dân sự” và tập đoàn tướng lãnh vẫn là tập đoàn lãnh đạo với chương trình chiến tranh trong tay người Mỹ.

Tôi tiếc qua Tự truyện thầy Trí Quang đã không nói hết. Tôi không hiểu tại sao Thầy không nói hết. Con chim sắp lià đời không kêu thì thôi, nếu kêu thì tiếng kêu thường thống thiết!
Kết thúc tự truyện Thầy viết: “Tôi không biết gì, không có ý gì nên cuộc đời tôi không vẫn hoàn không” là một tiếng kêu chân thật cho mọi cuộc đời kể cả cuộc đời của các vĩ nhân. Nghĩ cho cùng ai cũng là “chiếc lá giữa dòng”, hành động đúng sai, sai đúng rồi “không vẫn hoàn không”.

Thầy Trí Quang đã sống một cuộc đời của một người dân yêu nước, một người con Phật chân chính, đạo hạnh vẹn toàn. Đúng sai của Thầy không làm cho Thầy tốt hơn hay xấu hơn nếu trong mọi tình huốngThầy đã hành xử bằng cái tâm trong sáng của mình.

Nhưng khi Thầy lý giải Tự truyện này “không thể không có nên phải viết phải in” thì tôi tự hỏi: “Thầy đã nói gì đâu mà ‘không thể không có nên phải viết phải in’”!

Thầy Trí Quang là một nhân vật huyền thoại. Đọc Tự truyện của Thầy xong vẫn thấy Thầy còn là một huyền thoại./.

Trần Bình Nam

April 16, 2012

binhnam@sbcglobal.net


Trương Quốc Việt biểu tình trước sứ quán việt cộng, Canberra Úc châu




Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia
PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Tel: 0411 756 552
Email: sicmaa.nguyen@gmail.com


*****
THÔNG CÁO BÁO CHÍ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO ÚC CHÂU
Công bố ngày 23-4-2012

“Xin hãy trả căn nhà nhỏ cho gia đình tôi và căn nhà lớn cho Dân tộc tôi”


“Với tấm biển nhỏ đeo trước ngực này, anh Trương Quốc Việt, một người trẻ, công dân VN, người đã bị CSVN cướp đất, cướp nhà, đánh dập và bỏ tù, đã nói lên được phần nào những gì đã và đang xãy ra cho người dân và đất nước VN hiện nay”. Ông Nguyễn Thế Phong, Chủ tịch CĐNVTD-UC đã lên tiếng về một sự kiện lịch sữ vừa mới xảy ra trước Toà Đại sứ CSVN tại Canberra sáng sớm ngày 23-4-2012 hôm nay.

Vào 8 giờ sáng ngày 23-4-2012, một thanh niên VN từ VN sang Úc theo diện “Business visa” đã bắt đầu một cuộc biểu tình đơn độc trước cổng của Đại Sứ Quán VN tại thủ đô Canberra của Úc Châu để đòi công lý và đòi trả nhà và đất mà nhà nước CSVN đã cưỡng chiếm của gia đình anh vào năm 2009. Đây là lần đầu tiên một người VN, nạn nhân trực tiếp của hành động cướp nhà, cướp đất trong nước, biểu tình phản đối và lên án những hành động vi phạm nhân quyền của CSVN tại hải ngoại. Ông Phong cho biết.

“Việc cưỡng chiếm và cướp đoạt tài sản và nhà đất không bồi thường hay chỉ bồi thường một cách tượng trưng cho các nạn nhân thuộc thành phần “thấp cổ, bé miệng và nghèo túng” của Đảng và Nhà nước CSVN đã trở thành một chuyện thường ngày và lan tràn trên khắp mọi nơi từ thành thị đến thôn quê tại VN. Đảng Cộng Sản và nhà cầm quyền CSVN ngày nay đã trở thành và hành xữ như một đảng cướp có toàn quyền sinh sát, cướp đoạt, lên án, bỏ tù bất cứ một người dân nào bất chấp hiến pháp hay luật lệ mà chính họ đã ban ra. Hàng trăm ngàn tài sản, đất đai, ruộng nương của người dân vô tội và của các tôn giáo, thậm chí đến nghĩa địa, nơi chôn mồ mả ông bà của họ đã bị các cấp chánh quyền và giới lảnh đạo đảng CSVN cướp đoạt một cách trái phép hoặc ngang nhiên tịch thu bằng vũ lực dưới những chiêu bài như: “phát triển đô thị, quy hoạch đất đai hay nhà nước trưng thu”. Những ai cưỡng lại hay chống đối đều bị gán cho tội danh “chống người thi hành công vụ” bị đánh đập hay bỏ tù.” Ông Phong nói.

Ông tuyên bố: “Việc một người công dân VN đã phải ngồi phản đối và đòi hỏi công lý trước toà đại sứ của mình ở ngoại quốc như thế này là một bằng chứng hùng hồn về tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng của nhà cầm quyền CSVN hiện nay. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu ủng hộ hành động can đảm này của anh Trương Quốc Việt và yêu cầu nhà cầm quyền CSVN phải ngưng, ngăn chặn và trả lại những đất đai, tài sản cho những nạn nhân bao gồm cả những tài sản và đất đai của các tôn giáo mà họ đã chiếm đoạt một cách phi pháp và bằng vũ lực từ trước đến nay”.

“Chúng tôi kêu gọi Chính phủ và các vị Dân biểu của Quốc Hội Úc hãy bày tỏ sự quan tâm về trường hợp của anh Trương Quốc Việt nói riêng và tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN nói chung”

Ông Phong kêu gọi toàn thể cộng đồng người Việt tại Úc và những ai quan tâm đến tình trạng vi phạm, đàn áp nhân quyền tại VN trên toàn thế giới hãy đồng loạt tham gia ký vào một Kiến Nghị Thư trên mạng (on-line) đệ trình cho Thượng viện Quốc Hội Úc Châu đòi cải thiện Nhân Quyền tại VN đang do Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu khởi xướng qua địa chỉ: www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn Hạn chót để ký vào Kiến Nghị Thư này là ngày 17-6-2012.

Mọi chi tiết liên quan đến Thông cáo này, xin liên lạc với ông Nguyễn Thế Phong qua điện thoại số 0411 756 552

___________________________


Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu
Vietnamese Community in Australia

PO Box 2115 Footscray VIC 3011
Tel: 0411 756 552 Email: sicmaa.nguyen@gmail.com

MEDIA RELEASE
FROM THE VIETNAMESE COMMUNITY IN AUSTRALIA
(For immediate publication on 23-4-2012)

“Return the little house for my family and the COMMON house to the Vietnamese people”


“ With this small poster worn over his neck, Mr Truong Quoc Viet, a young man, citizen of the Socialist Republic of Vietnam, whose family’s house and land were destroyed, he himself was violently bashed and put into jail, represents what has been going on for the people of Vietnam today” Mr Phong Nguyen, Federal President of the Vietnamese Community in Australia commented about a historical event that took place in front of the Vietnamese Embassy in Canberra today 23-4-2012.

At 8am on 23-4-2012, a young Vietnamese man who comes to Australia from Viet-Nam on a Business visa has begun a sitting protest in front of the Vietnamese Embassy in Canberra, Capital of Australia, to demand justice and the return of the house and land that the Vietnamese Government has forcefully and illegally taken from his family in 2009. This is a first time ever, a robbed house and land owner and victim is protesting against the human rights abuse of the Vietnamese Communist Government outside Vietnam. Mr Phong informed.

“ The illegal stealing, robbing, confiscation and acquisition of property, house and/or land of the “poor and powerless” people for little or no compensations by the Vietnamese Communist Party members and government has become a daily occurrence and spread all over from large cities to small hamlets in Vietnam. The Vietnamese Communist Party and Government have behaved and turned themselves into a mafia organisation and regime. They gave themselves ALL the powers and rights to take away, to robe, to sentence, to put into jail any citizen who dares to protest against their illegal actions, ignoring all of the laws and the constitution they, themselves, have legislated. Hundreds of thousands of properties, buildings, farmlands, houses, privately owned lands of the innocent victims and of independent churches, even cemeteries and sacred burial sites, were illegally and forcibly “acquired” or stolen by the Vietnamese Communist party members and government officials under the guise and excuse of “rezoning, town planning or government acquisition” Anyone who opposes, stands up or tries to protect their property would be accused of “opposing the authorities from carrying out public duties” bashed or jailed or both”. Mr Phong said.

Mr Phong declared: “The fact that a Vietnamese citizen has to resort to siting-in to protest and demand justice in front of his own country’s embassy like this is a clear and strong evidence of the serious human rights violation of the Vietnamese Government today. The Vietnamese Community in Australia strongly supports this courageous act of Mr Truong Quoc Viet and demands that the Vietnamese Communist Government must stop, prevent and return all stolen and illegally acquired lands and properties, including properties and lands of independent churches to the victims”

“We call upon the Government and Parliamentary members of Australia to express their concern about Mr Truong Quoc Viet’s case and the worsen human rights situation in the Socialist Republic of Vietnam as a whole” Mr Phong said.

Mr Phong asked and encouraged everyone in the Vietnamese Community in Australia and those who are concerned about the violations of human rights in VN throughout the world to sign an on-line petition that the Vietnamese Community in Australia has set up at www.gopetition.com/petitions/nhanquyentaivn which has been sponsored by Senator Ron Boswell from the state of Queensland seeking greater control and scrutiny of the Parliament over the annual Australia-Vietnam Human Rights Dialogue and Australian Development Aids for VN. The petition is available for signing until 17th June 2012.

For further inquiries regarding this Media Release, please contact Mr. Nguyen The Phong on +61 411 756 552.

____________

    Tọa kháng trước toà đại sứ VC tại Canberra (thủ đô Úc Châu)

Canberra, ngày 23.04.2012

Hãy trả "nhà nhỏ" cho gia đình tôi và "NHÀ LỚN" cho dân tộc tôi! Return the "private house" to my family and return the "COMMON HOUSE" to my Vietnamese people!

Đó là hai hàng chữ Anh-Việt mà anh Trương Quốc Việt đã mang trên ngực, toạ kháng trước toà đại sứ VC tại Canberra (thủ đô Úc Châu) để phản đối những hành động bạo ngược cướp đất, phá nhà, bắt dân của nhà cầm quyền CSVN.

Ở trong nước, có cả hàng ngàn, hàng chục ngàn dân oan và có thể nhiều hơn đã biểu tình, khiếu kiện với nhà cầm quyền CSVN trong hàng chục năm qua từ trung ương tới các địa phương xa xôi nhưng vẫn đất mất nhà tan, vẫn đói khổ lầm than.

Thì nay anh Trương Quốc Việt một người dân oan Việt Nam đã đem những điều oan ức ấy ra tới nước ngoài và đến ngay trước toà đại sứ của CSVN để bày tỏ sự phản đối của gia đình, bản thân một người dân oan và của chính dân tộc của anh - Dân Tộc Việt Nam.

















Nghê Lữ phỏng vấn anh Trương Quốc Việt. Dân oan từ Việt Nam tọa kháng trước toà Đại sứ CSVN tại Canberra (Úc) 
http://www.baocalitoday.com/index.php?option=com_content&view=article&id=5644:23041975-ky-gi-nghe-l-phng-vn-anh-trng-quc-vit-dan-oan-t-vit-nam-ta-khang-trc-toa-i-s-csvn-ti-canberra-uc-&catid=1:cng-ng&Itemid=49












Saturday, April 21, 2012

Nhân Ngày 30.4 - Nói chuyện với nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn

Đinh Lâm Thanh

Thưa Anh Nguyễn Ngọc Ngạn.

Nếu Anh là một nhân vật bình thường, ít ai biết đến, dĩ nhiên tôi chẳng có ý kiến gì, nhưng Anh là một nhà văn, một người làm truyền thông (MC đại nhạc hội) nổi tiếng thì một người cầm bút tranh đấu cũng không thể bỏ qua được. Anh trốn thoát chế độ cộng sản cũng như tôi, đã phải trả một giá rất đắt bằng cách đổi mạng sống với công an, với may rủi thời cơ và sống chết với biển cả…thì tôi thiết tưởng, khi nói chuyện với Anh cũng không đến nổi vô ích như phải nói chuyện với đầu gối. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng người cầm viết, làm MC thì thường chú tâm đến ý kiến của độc giả cũng như khán giả. Qua các vidéo tân nhạc Thúy Nga Paris tôi thường thấy Anh đem thư độc giả ra ‘bình phẩm’ trên các chương trình do Anh và Nguyễn Cao Kỳ Duyện điều khiển, vậy thư (email) nầy có một mục đích rất đơn giản, không cần Anh đem ra bình phẩm mà để giúp Anh suy nghĩ và nhìn thấy con người thật của Anh rõ ràng hơn.

Vì lý do sinh sống thì Anh hợp tác với ai, làm chuyện gì là quyền tự do của một người đang sống trong một chế độ tự do. Nhưng thưa Anh, người xưa thường nói ‘đánh đĩ mười phương cũng phải chừa một phương để lấy chồng’. Tôi thấy câu nầy thật thích hợp, cần nêu ra đây để nhắn nhủ Anh ! Do đó, tôi muốn đề cập đến việc Anh hợp tác với các nhóm cộng sản nằm vùng để tổ chức ba buổi văn nghệ ‘Mừng Đại Thắng 30.4’ năm nầy tại NaUy, Pháp cũng như Đức trong những ngày 29.4. 30.4 và 01.5.2012. Như vậy có thể nói rằng ‘Cuộc đời Anh đã đánh đĩ mười phương, chỉ còn một phương dành để lấy chồng, nhưng vì tiền, Anh cũng không bỏ sót’. Anh vẫn cạn tàu ráo mán với khối người Việt Quốc Gia hải ngoại ! Họ là những người đã một thời thương yêu, ủng hộ, đùm bọc và nuôi Anh khi Anh bơ vơ đặt chân đến vùng trời tự do. Nhưng rồi trong thời gian cộng tác với Trung Tâm Thúy Nga, Anh bất chấp phản ứng của những người bỏ nước ra đi vì cộng sản…Họ đã đóng góp giúp Anh tiến lên và trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng, giàu có. Trong lúc đó Anh lại dùng văn chương và nước bọt để ca tụng chế độ cộng sản và vuốt mặt quay về Việt Nam kiếm tiền tại các đại nhạc hội tổ chức trong nước. Do đó, những người ái mộ đã có thái độ đối với Anh, là một người chồng, người cha vô tình bạc nghĩa đã quên hẳn cái chết đau thương của vợ con, của một nghệ sĩ đã dùng dao đâm vào tim những người đã tạo cho Anh một chỗ đứng xứng đáng trong văn đàn cũng như nghệ thuật ca hát. Anh đã quay lại 180 độ chống lại tập thể người Việt Tỵ Nạn trên thế giới, đó chẳng qua là mắt Anh đã bị mù và đầu Anh đã biến thành bã đậu, vì Anh chỉ biết kiếm tiền cho cái túi tham của một khối thịt biết đi và cái vô liêm sỉ của một người cầm bút !!!

Đã 37 năm, tháng tư là thời gian đau buồn của dân Miền Nam, và 30.4 là ngày đại tang của người Việt Tự Do trong cũng như ngoài nước, nhất là những người đã bỏ xứ ra đi vì không chấp nhận chế độ tàn ác cộng sản. Vài đám nằm vùng tay sai được yểm trợ tài chánh của cộng sản, chúng thường tổ chức hằng năm vào các ngày cuối tháng Tư những buỗi lễ ‘Ghi Ơn’ ‘Vinh Danh’ ‘Tưởng Niệm’ già Hồ hoặc văn nghệ mừng Đại Thắng… không ngoài việc đánh phá, làm phai mờ ý nghĩa ngày Quốc Hận. Nếu bị chống đối, tổ chức không thành công thì chúng cũng tạo được cơ hội gây xáo trộn cộng đồng…Những năm gần đây Anh đã lộ rõ bộ mặt thách thức, đâm vào lưng cộng đồng người Việt tự do hải ngoại. Vậy tội của một người cầm bút và làm truyền thông như Anh thì nặng gấp hàng ngàn lần người lính cầm súng ra trận.

Nhân tiện đây xin hỏi Anh Nguyễn Ngọc Ngạn, không biết Anh còn nhớ không ? Những tiếng kêu gào xé nát con tim, những thân xác vật vã bất tỉnh, những uất ức nghẹn ngào, những dồn nén từ tâm cang Anh cũng như những hình ảnh chết chóc của vợ con anh và những người cùng chung thuyền là động lực đã khơi động tiềm thức trong con người của anh, và chính những dư âm nầy là động lực giúp anh trở thành một nhà văn chống cộng. Nhưng tại sao bây giờ Anh lại phản bội những cái đau đớn tình cảm ruột thịt, những suy tư tiềm tàng trong trí óc và con tim Anh ? Chính những hình ảnh đau thương nầy đã bộc phát lên giấy giúp Anh thành văn sĩ, thoát ra từ hơi thở giúp Anh thành một MC. Anh đã vô tình hay bội bạc quên những ai, những gì đã giúp Anh thành công và đứng vững đến ngày hôm nay trên văn đàn cũng như truyền thông ? Nếu Anh quên thì tôi xin nhắc để Anh nhớ đời:

Đó là ba hình ảnh vợ con anh đã chết trong lòng biển, hành động dã man tàn bạo của chế độ cộng sản và vòng tay thân ái của cộng đồng người Việt Tự Do hải ngoại. Hai hình ảnh vợ con anh và vòng tay ân tình của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngại là những dấu ấn trọng đại nhất trong cuộc đời tỵ nạn của Anh, nhưng tiếc thay, Anh không nhớ ! Nhưng Anh lại tri ân cái tập đoàn Việt gian cộng sản khốn nạn đã xua gia đình Anh ra biển...và ngày nay Anh quay trở lại ca tụng bọn người mà chính chúng nó đã gán cho anh và gia đình một danh từ bất hủ khi trốn xuống ghe ‘bọn trộm cướp đĩ điếm’ vượt biên qua làm nô lệ cho Mỹ. Và rồi 30.4 năm nay, Anh còn đi qua Châu-Âu hợp tác với thành phần cộng sản nằm vùng để tổ chức ‘Mừng Xuân Đại Thắng 30.4’ đánh dấu ngày giặc vào cướp nước.

Vậy, Anh là người vô liêm sỉ, đã mất linh hồn, mắt thì mù và đầu chỉ toàn là bã đậu. Có đúng không ?

Đinh Lâm Thanh
Paris, 22.4.2012

Friday, April 20, 2012

Để Mãi Mãi Nhớ Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 - Trần Văn Giang

Trần Văn Giang

Ai vui? Ai buồn?

Ngày 30 tháng 4, ngày có “hàng triệu người vui, hàng triệu người buồn” như lời nhận xét của “cựu thủ tướng” cs Võ Văn Kiệt, “người” này cũng giống như một số “người” lãnh đạo csvn khác phải chờ đến mãi buổi xế chiều của cuộc đời thì bỗng dưng phải gió rồi trở giọng “phản động”. Phải chi mấy “người” này tỉnh táo một chút vào lúc đang còn quyền cao chức rộng thì đám dân đen cũng được nhờ (!) và đã nhiều sinh mạng không phải oan thác.

CS vẫn tiếp tục hân hoan vui mừng “nhiệt liệt” hợp ca cái điệp khúc “ngày chiến thắng huy hoàng”, “là một (ngày) thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.” (sic) (Lời của Đại tướng gốc thợ may Văn Tiến Dũng).

Kỷ niệm chiến thắng, bắn pháo hoa “diễu binh” ăn mừng ngày 30/4, mà ngay bên lề đường còn nhiều đám dân đen xếp hàng kêu oan bị cướp mất đất, bà già run rẩy ăn xin, em bé bỏ học bán vé số… Ăn mừng ngày đánh “Mĩ cút ngụy nhào.” Oái oăm, ngày này cũng là ngày ăn mừng “đổi mới,” trải thảm đỏ mời đón Mỹ trở lại đầu tư vì “đảng ta” vừa mới định hướng kinh tế thị trường XHCN và cảm thấy “bị tư bản bóc lột” là chuyện “tiên tiến, tốt” phải làm trong giai đoạn phát triển kinh tế quốc gia. Ngày này cũng là ngày các lãnh tụ csvn vĩ đại kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” về xây dựng quê hương vì sau mấy chục năm chiến thắng vinh qunag “đảng ta” vẫn chỉ giỏi ở cái mảng phá hoại và tham ô.

Đám chăn trâu, thợ thiến heo, ở đợ, cướp cạn, thất học… đi bộ từ trong rừng ra với áo không lành giầy không vớ “ăn mừng” vì bỗng nhiên một sớm một chiều trở thành tiến sĩ, đại gia, cán bộ cao cấp lèo lái “con thuyền không bến” Việt Nam đến vinh quang vô địch (?)

Ăn mừng vì “thép đã tôi thế đấy” đội ngũ cán bộ lãnh đạo (từ chính quyền trung ương đến cơ sở chính quyền địa phương) thành một lũ vô cảm, dửng dưng trước những đau khỗ quằn quại của đồng loại, coi thường dân, không dám nhận chịu trách nhiệm về những sai trái. Ăn mừng vui vì “tụi nó” cướp của người khác chứ không (chưa) cướp đến của nhà mình?!

Ngược lại, cũng có nhiều người ở cùng chiến tuyến với cs rất buồn vì đã tự “giác ngộ.” Họ nhìn ra là họ đã bỏ phí cả thời xuân xanh, tài sản để chạy theo cs rồi bây giờ sau mấy chục năm ròng mới nhận ra cái ngu xuẩn của mình và ngu xuẩn của chính sách cs; Mặc dù họ mới chợt “phản tỉnh” và tuyên bố “phản động” này nọ nhưng cũng chỉ làm cho có chuyện, làm để lấy tiếng ngu vì cô thế (người quốc gia còn bán tín bán nghi, không buồn để ý đến họ), sức đã mòn, chợ đã chiều… không thay đổi cái quái gì được nữa!

Có những “cựu” cảm tình viên cs, “hùa” viên cs (loại này rất đông đảo – Họ hầu như mù tịt về cs nhưng lại thích làm dáng cs; lọai “Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng / Nếu là hoa tôi sẽ là hoa hướng dương / Nếu là người tôi sẽ là người cộng sản… Người quốc gia cỡ phó thường dân thôi cũng hiểu là cs không phải là bồ câu trắng; và cs cũng chẳng có ưa gì hoa hướng dương, hoa hướng âm gì ráo trọi!) thích và mơ tưởng thiên đường bánh vẽ cs; ăn cơm quốc gia thờ ma cs. Đám đông này trước đây rất ồn áo, đã từng nhẩy múa điên cuồng theo nhịp đập trống bịp bợm của cs rồi bây giờ rất buồn; đành phải im lặng vì cái thực tế cs quá bẽ bàng làm họ không thể nói và làm gì hơn để biện minh cho cái sự kiện “bé cái lầm” của mình.

Có những gia đình gồm nhiều thế hệ dù không bao giờ chấp nhận cs nhưng không tìm được lối thoát thân. Họ rất buồn vì phải đón chịu tất cả những trận đòn thù hận, tù đày, bao vây kinh tế… từ mafia cs.

Có trên 3 triệu người tị nạn ở hải ngoại rất buồn, nhìn về ngày 30/4 như một ngày quốc hận, một tháng Tư đen; một ngày đau đớn cay đắng nhiều nước mắt nhất trong suốt 4000 ngàn năm lịch sử dân tộc Việt.

Ai thắng? Ai thua?

Sau một cuộc chiến tranh thì phải có kẻ chiến thắng, người bại trận. Cứ theo như luận điệu như csvn đang “ăn mừng” thì mọi người phải hiểu là “Mĩ và Ngụy đã thua?!” Mà có thiệt vậy không hà?

Hãy nhìn nước (“đế quốc”) Mỹ từ ngày 30/4/1975 cho đến hôm nay. Họ không có tỏ cái vẻ gì là một nước bại trận. Họ vẫn là một cường quốc mà các lãnh đạo csvn lần lượt thay phiên nhau xin đến thăm viếng (sau cấm vận!). Các chuyến thăm viếng của lãnh tụ csvn vẫn được báo lề phải cs tường trình như một niềm hãnh diện “Chủ tịch, Thủ tướng nước ta được Tổng thống Mĩ tiếp đón tại Nhà trắng, tại phòng Bầu dục, tại vườn Hồng… ”. Rõ ràng là các Tổng thống Clinton, Bush đã đến Việt Nam mà vẫn được dân chúng Việt Nam niềm nở háo hức tiếp đón … Họ không hề đến Việt Nam để ký giấy đầu hàng hay xin xỏ csvn bất cứ chuyện gì?!

“Ngụy” (một danh từ có nghĩa xấu mà cs đã gán cho tất cả người dân, chính quyền hay bất cứ sự kiện gì có dính dáng đến “đế quốc Mĩ!”) có thua thiệt không?. Chiến tranh đã chấm dứt nhưng sự tranh đấu của “Ngụy” đâu đã thấy chấm dứt! Thực ra, sự tranh đấu của “Ngụy” mỗi ngày mỗi mạnh hơn; nhất là từ hải ngoại. Cờ vàng vẫn tung bay hiên ngang oai hùng trước công đường thế giới trong khi cờ đỏ cs phải lén lút đi vào cửa sau. Cơ hội “Ngụy quân, Ngụy quyền” trở lại Việt Nam (khi csvn bị giải thể) không còn là chuyện “không tưởng.” Người dân Việt Nam (nhất là dân miền Nam) đâu còn giấu diếm e dè gì khi họ cần tỏ thái độ là “thà sống với Mỹ làm Ngụy như người Nhật, Đức, Nam hàn, Đài loan… vẫn còn hơn là vinh quang cúi đầu dưới “4 cái tốt” và “16 chữ vàng” của kẻ tử thù truyền kiếp TQ. Chẳng thà sống lưu vong làm Ngụy hơn là sống dưới cái nhà tù lớn CSVN lập ra.”

Cs một mặt kêu gọi “hòa giải và hòa hợp dân tộc” mà tại sao mặt khác, bao nhiêu năm trôi qua, vẫn gọi những người “phía bên kia chiến tuyến” là “ngụy quân, ngụy quyền?”. Vẫn gọi Mỹ là “đế quốc tư bản” mà thích gởi con cháu họ sang Mỹ du học để được học… cách bóc lột của đế quốc tư bản?

Ôi cộng sản Việt Nam!!!. Một sự nghịch lý lố bịch cuối cùng còn xót lại trên hành tinh này!

Ai giải phóng ai? Giải phóng cái gì?

Theo tự điển tiếng Việt, chữ “Giải phóng” có nghĩa là “Làm cho thoát khỏi tình trạng bị nô dịch, bị chiếm đóng. Làm cho được tự do; thoát khỏi sự ràng buộc bất hợp lý.”

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người dân miền Nam lại bị cưỡng chế nô dịch (đi tù, đi kinh tế mới, bị quản chế, bị cô lập, hoàn toàn mất tự do, mất quyền công dân… ) Người dân miền Nam có cần được cs bắc Việt giải phóng họ hay không? Nếu gọi là “đã được giải phóng” thì đời sống của họ phải khá hơn, tốt đẹp hơn lúc chưa “được giải phóng.” Hãy nhìn, đọc những con số không biết nói dối. Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn – rời Việt Nam năm 1981 sang định cư tại Úc năm 1982 là Giáo sư Đại học New South Wales (Úc) – đã trình bày một cách cụ thể kết quả (bằng số) trước và sau ngày “giải phóng” 30 tháng 4 năm 1975 như sau: (Trích nguyên văn – tuy hơi dài nhưng đáng đọc; đáng đồng tiền bát gạo)

Tính từ ngày 30/4/1975. Nhân dịp đọc một cuốn sách cũ, tôi thấy có vài thông tin về kinh tế của miền nam Việt Nam trước 1975 cũng có ý nghĩa so sánh nào đó …

Về thu nhập bình quân, theo “số liệu kinh tế – GDP” bình quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 150 USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ, và Pakistan. Ba mươi sáu năm sau, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).

Về giáo dục đại chúng, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, năm 1973, tỉ lệ dân số biết đọc, biết viết là 70%, rất cao so với các nước Á châu láng giềng hồi đó. Hiện nay, tỉ lệ dân số biết đọc và viết là 90%. Ba mươi sáu năm, chỉ tăng 20%?

Hôm nọ, khi tôi viết rằng thời trước 1975, du học sinh Thái Lan sang đại học miền Nam học, còn bây giờ thì mình sang đó… du học. Chẳng có gì xấu hổ. Người ta giỏi hơn mình thì mình học người ta. Nhưng nói ra sự thật ấy làm tôi nao lòng và buồn về sử đổi đời. Có người từ miền Bắc hỏi tôi có bằng chứng gì giáo dục miền Nam tốt hơn bây giờ? Tôi nói chính tôi là sản phẩm của nền giáo dục thời trước 1975 đây. Còn hàng vạn “sản phẩm” của nền giáo dục trước 1975 đang ở nước ngoài và họ cũng thành danh, thành tài. Đó là một bằng chứng của nền giáo dục trước kia.

Về trình độ của giới cầm quyền, 36 năm sau nước (CHXHCN) ta đã có 50% bộ trưởng có văn bằng tiến sĩ. Thời trước 1975, tôi không có con số chính xác, nhưng chỉ nhớ số bộ trưởng có bằng tiến sĩ chỉ đếm đầu ngón tay. Ngay cả ông Hoàng Đức Nhã với bằng thạc sĩ (MS degree) nhưng được giới báo chí và công chúng nể lắm rồi. Nhưng theo Giáo sư Đặng Phong thì tuy họ học không cao, nhưng trình độ thật thì cao và đáng nể: “Cần phải phân biệt rõ: nền chính trị thối nát (không phải tôi nói, mà người Mỹ và người trong giới chính trị Sài Gòn nói) với bộ máy kinh tế chuyên nghiệp. Những cấp cao nhất, tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng… phần lớn là dân võ biền, là lính sang làm chính trị như Thiệu, Kỳ, Khiêm… Nói chung, họ không có mấy kinh nghiệm để điều hành một xã hội dân sự văn minh. Nhưng điều đặc biệt là cấp dưới của họ (bộ trưởng, tổng trưởng…) và các chuyên gia hàng đầu đều là những người có học vấn, kiến thức kinh tế – xã hội rất giỏi để vận hành khối lượng tiền, hàng cực lớn. Bằng chứng là Nam VN khi đó đã có hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế, bảo hiểm… trình độ quốc tế, hoạt động toàn cầu. Dân đã xài séc (checks), các công cụ tín dụng, công sở xài máy tính IBM, tổ chức nền kinh tế đã sử dụng các phương tiện hiện đại, mà bây giờ chúng ta mới chập chững tiến vào.”

Ngày xưa (thời VNCH) cũng có tham nhũng, nhưng hình như bản chất hơi khác với thời nay. Ngày xưa, giới quan chức VNCH tham nhũng chủ yếu là ăn chận tiền tài trợ của Mĩ. Thật ra, tham nhũng của VNCH là có lợi cho “cách mạng,” vì lợi dụng đó mà du kích mới có tiếp viện! Tham nhũng thời VNCH theo Gs Đặng Phong là “một nguồn hậu cần quan trọng giúp chúng ta thành người chiến thắng.” Còn ngày nay, cứ như báo chí phản ảnh thì quan chức ăn chận tiền của… dân. Họ cũng ăn chận (hay ăn cắp?) tài nguyên đất nước. Hình thức tham nhũng nào cũng nguy hiểm, nhưng ăn chận tiền dân và tài nguyên quốc gia thì đúng là nguy hiểm và […]. Giáo sư Đặng Phong nói: “Tham nhũng cũng là một cách ra đời tầng lớp hữu sản cho nên đạo lý kém hơn, chụp giật hơn, lưu manh hơn.”

Ngày 30/4 thường được nhắc đến như là một “ngày chiến thắng,” “ngày giải phóng miền Nam.” Đứng trên quan điểm kẻ thắng người thua, thì chắc cũng có lí do để gọi đó là ngày chiến thắng. Nhưng thử hỏi với cả 4 triệu (?) người phải bỏ mạng trong cuộc chiến đó, cộng thêm hàng trăm ngàn bỏ mạng trên biển, và 3 triệu người lưu vong, thì chiến thắng đó có vẻ vang không? Chẳng lẽ ăn mừng chiến thắng trên xác người? Còn giải phóng thì có nghĩa là giải phóng từ nô lệ, gông cùm của bọn đế quốc, nhưng trong thực tế ngày xưa đâu có nô lệ, và bọn đế quốc Mĩ cũng đâu có gông cùm gì; chúng vẫn phát triển giáo dục tốt, hệ thống y tế tốt, kinh tế gia đình khá no ấm, học trò lễ phép, báo chí nói khá thoải mái (diễu cợt ông Thiệu, ông Kỳ liên miên). Do đó, hai chữ “giải phóng” e rằng không thích hợp với thực tế của những con số vừa trình bày. (nguồn Nguyễn Văn Tuấn Blog)
(hết trích)

Như đã trình bày hơi dài giòng, “giải phóng” là thay đổi cái (chế độ chính trị) cũ bằng một cái khác tốt đẹp hơn. Ai cũng biết nhạc sĩ thân cộng Trịnh Công Sơn, sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã lên đài phát thanh Sàigòn kêu gọi “anh em văn nghệ sĩ và học sinh sinh viên miền Nam Việt Nam” như sau:

(Tôi xin ghi lại nguyên văn từ tài liệu audio của “youTube”)
Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=KSnXiyymlKk&feature=related



“Tôi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động được gặp và nói chuyện với tất cả anh em văn nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này (!). Hôm nay (ngày 30 tháng 4 năm 1975) là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta. Đó là ngày mà chúng ta đã giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam; cũng như những mơ ước của các bạn (?) bấy lâu về sự độc lập, tự do và thống nhất… Hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả… Chúng tôi đang ở đài phát thanh Sàigòn… Tôi xin hát lại cái bài Nối vòng tay lớn… Hôm nay thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết… Rừng núi dang tay nối lại biển xa… ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà..”(sic)

Cũng “cái ngày hôm nay,” ai đã từng nghe bài “Em còn nhớ hay em đã quên” của con vẹt TCS thì chắc phải nhớ câu hát “Em ra đi nơi này vẫn thế.” Trịnh Công Sơn viết:

“Em ra đi nơi này vẫn thế
Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ”

Hay nhỉ? “Nơi này vẫn thế” là thế nào? Tại sao lại có sự mù lòa lạ lùng như vậy? Chuyện “Lá vẫn xanh” là chuyện dễ hiểu, tất nhiên. Bạo quyền và chủ nghĩa cs đâu có tài thánh nào đổi mầu lá cây từ xanh sang đỏ được? “Nơi này vẫn thế” là thế nào? Chỉ một thời gian ngắn sau khi lên đài phát thanh Sài gòn “kêu gọi và hót” “rừng núi dang tay nối lại biển xa…” để “mừng ngày chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước” thì Trịnh Công Sơn đã phải trở ra sống ở Huế và “tham gia” vào những chuyến lao động trồng khoai sắn trên những cánh đồng còn đầy rẫy mìn ở Cồn Thiên, gần vĩ tuyến 17 chứ đâu có còn được các tướng tá của chính phủ Sài gòn che chở cho sống ung dung và tự do đi hát nhạc phản chiến ở Sài gòn…

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nếu toàn dân miền Nam được sống một cuộc sống “vẫn thế” thì đâu có hàng triệu người dân Việt phải liều mạng vượt biên vượt biển đi tị nạn ở nước ngoài (Ậy! Đến ngay cả cô “Em” nào đó của TCS cũng phải“ra đi” một cách “phản động.”) Người ở lại đã và đang sống một cuộc sống thê thảm nhất trong lịch sử dân tộc chứ đâu có cái chuyện “Nơi này vẫn thế?” Thật là chuyện trơ trẽn! Ốt dột!

Anh là ai? Ai là anh?

Trong chiến tranh, anh (cs) tự cho anh là anh hùng vì anh có can đảm ném lựu đạn, gài bom plastic, pháo kích vào chỗ đông dân lành tự nhiên như “người Hà lội.” Anh tự hào là anh rất giỏi về môn phá hoại cầu cống, đắp mô đường xá. Anh tự hào có can đảm cầm súng bắn, ám sát, thủ tiêu, thảm sát hàng trăm hàng nghìn người không có cái gì để tự vệ Anh vẫn cho anh là anh hùng là vô địch vì anh đã đứng lên, đã thành công trong việc giải phóng dân tộc trong khi các nước láng giềng của anh không cần có lãnh tụ kiệt xuất như HCM và cũng chẳng cần một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vinh quang như của anh mà dân họ vẫn độc lập ấm no tự do hơn dân tộc anh!…

Sau chiến tranh anh (cs) chứng tỏ anh là một thằng hèn nhất lịch sử. Anh đem đất liền và đảo của tiền nhân dâng nhượng cho TQ rồi anh bảo đó là chuyện nhỏ. Anh không dám phản kháng và anh cũng cấm dân của anh biểu tình lên tiếng bày tỏ phản kháng khi TQ chiếm đất lấn biển. Anh làm ngơ khi dân anh bị TQ tàn sát ở ngoài biển, ở biên giới. Anh làm ngơ để các đối tác TQ đánh đập dân anh ngay ở quanh các vùng nội địa mà anh cho phép họ khai thác tài nguyên quốc gia. Anh rất hèn khi anh cưỡng bức tài sản, đất đai của dân nghèo. Anh rất hèn hạ bịt mồm, đánh xập các tiếng nói oan ức chính đáng của dân.

Chẳng sớm thì muộn, anh sẽ đền tội với dân… Chân lý đó chỉ là vấn đề thời gian. Anh cũng biết thừa là cái bánh xe thời cuộc sẽ phải lăn theo chiều hướng không còn thuận lợi cho chính sách cướp bóc sát nhân của anh… Cho nên trong lúc này, khi còn nắm chút quyền hành, anh cố vơ vét tham nhũng càng nhiều càng tốt và anh dự định xây sẵn một cái ống cống để anh có cơ hội chui, vượt thoát…

Tương lai của các anh có lẽ cũng chẳng sáng sủa gì hơn kết cuộc của con chuột Gaddafi.

Chờ xem…

Trần Văn Giang