Tuesday, October 12, 2010

Hợp tác, thỏa hiệp có lợi cho ai? - Lại Thế Lãng



Lại Thế Lãng

Theo tinh thần của Công đồng Vaticano II người Công giáo vẫn có thể sống chung với người cộng sản. Tuy nhiên sống chung không có nghĩa là “câm nín và cúi đầu” trước sự dối trá và bất công. Sống chung cũng không có nghĩa là nhắm mắt bịt tai và chỉ biết gật đầu thỏa hiệp với tội ác.

Ngày 22/7/2007 HY Phạm Minh Mẫn có gửi cho linh mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ nhiệm CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình một lá thư để nhờ nơi này “Nghiên cứu và đề xuất bài học chính xác và trọn vẹn” cho những băn khoăn của Ngài. Lá thư đã nêu ra bảy điểm.

Trong điểm một và hai của lá thư, HY nhận định rằng “Năm 1954, trước CĐ Vat II Giáo hội Công giáo phía bắc có thái độ cứng rắn, bất hợp tác với nhà nước Cộng sản…”. Còn “Năm 1975, sau CĐ Vat II Giáo hội Công giáo phía nam có thái độ hợp tác, nhường quyền sử dụng trường, cô nhi viện, dưỡng lão viện và bệnh viện Công giáo cho nhà nước…”.

Trong bốn điểm tiếp theo lá thư nêu ra những tệ nạn trong xã hội hiện nay nhấn mạnh đến hai lãnh vực giáo dục và y tế. Về giáo dục lá thư viết “Sau 30 năm, tôi thấy báo chí thông tin kết quả của một cuộc điều tra xã hội: 30- 40% học sinh tiểu học nhiễm thói gian lận xen lẫn lừa dối, 40- 50% học sinh trung học nhiễm thói đó, lên đại học thì tỷ lệ là 50- 60%…”. Về y tế lá thư viết “Báo chí cũng thông tin những nghành liên hệ với y tế thì toa rập nhau trấn lột bệnh nhân. Hình như các nghành, thay vì biến giai cấp vô sản thành người đầy tớ phục vụ nhân dân theo như lời Bác dạy, thì thực tế cho thấy là giai cấp vô sản biến nhân dân thành vô sản, và tự biến mình thành một giai cấp mới mà tôi nghe nhiều người gọi là tư sản đỏ…”

Ở điển cuối cùng của lá thư, HY yêu cầu “CLB.NVB nghiên cứu xem coi thái độ bất hợp tác và thái độ hợp tác của Giáo hội trong lịch sử 50 năm qua mỗi thái độ có những lợi và hại nào …”

Với lời lẽ khá mạnh mẽ, lá thư cho thấy HY nghi ngờ về kết quả của sự hợp tác nếu không muốn nói là Ngài không tán đồng. Là vì sự hợp tác trong các lãnh vực nêu trên rõ ràng chỉ là tiếp tay làm cho xã hội thêm băng hoại. Vào thời gian đó lá thư thực sự đã làm mát lòng mát dạ nhiều người. Nhiều người tỏ ý vui mừng vì nghĩ rằng trong hàng giáo phẩm cũng đã có người lên án bất công và thối nát gây ra bởi chế độ cộng sản. Một nhà báo kỳ cựu người Việt Nam sống ở Hoa Kỳ đã hết lời ca ngợi HY về sự can đảm khi Ngài cho phổ biến lá thư này. Nhà báo này còn bày tỏ mối lo ngại về những bất lợi sẽ đến với HY. Ông cũng cảnh báo rằng nhà cầm quyền cộng sản đang dành sẵn cho Ngài một chỗ ở bên cạnh linh mục Nguyễn Văn Lý trong nhà tù Nam Hà.

Thế nhưng chỉ ba năm sau thì thái độ của Ngài đã khác hẳn. Qua những việc làm gần đây của TGP Sài gòn như việc vinh danh Đức cố TGM Nguyễn Văn Bình thì ai cũng thấy Ngài đang muốn đi theo con đường của Đức cố TGM Nguyễn Văn Bình, nhân vật được coi là tiêu biểu cho khuynh hướng hợp tác với nhà cầm quyền cộng sản. Tại sao thái độ của Ngài lại đổi chiều 180 độ như vậy?

Trong bài này xin không bàn về vấn đề đó. Chỉ xin đề cập đến đoạn cuối của lá thư HY gửi cho CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình “CLB NVB nghiên cứu xem coi thái độ bất hợp tác và thái độ hợp tác của Giáo hội trong lịch sử 50 năm qua mỗi thái độ có những lợi và hại nào, đối chiếu cái lợi và cái hại của hai thái độ và đề xuất bài học thực hành cho mọi thành phần tôn giáo và xã hội biết cách nào góp phần vừa xây dựng đất nước, vừa lành mạnh hóa đời sống dân tộc. Có được thế thì sự phát triển đất nước và con người mới vững bền”.

Không biết CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình đã trả lời cho HY chưa và đã trả lời như thế nào? Thật ra thì chỉ cần nhìn vào thực trạng của Giáo hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản suốt mấy chục năm qua thì dù chỉ là một người bình thường cũng có thể trả lời được những câu hỏi được nêu ra trong lá thư.

Cộng sản vẫn coi tôn giáo, nhất là Công giáo là một chướng ngại cần phải dẹp bỏ. Vì vậy ngay khi nắm quyền ở miền Bắc năm 1954 cũng như khi đã đặt được sự thống trị tại miền Nam 1975 họ đã có cùng một cách đối xử với Giáo hội Công giáo. Chính sách của họ đối với người Công giáo “trước sau như một” chẳng có gì khác biệt. Cho dù là hợp tác hay không hợp tác thì họ cũng đóng cửa chủng viện, trục xuất chủng sinh; giải tán dòng tu; chiếm dụng cơ sở vật chất của Giáo hội; cầm tù nhiều giáo sỹ, giáo dân … Và cho dù ở đâu, ngoài Bắc hay trong Nam, nhà nước cộng sản đều nhìn người Công giáo dưới con mắt ngờ vực. Ngay cả các cơ quan truyền thông của nhà nước cũng nhiễm tính kỳ thị đối với người Công giáo, trong ngôn từ họ luôn coi người Công giáo chỉ là công dân hạng hai.

Hãy xem thử cái lợi và cái hại đối với Giáo hội miền Bắc, nơi mà HY coi là có thái độ bất hợp tác. Cái hại trước hết là hàng giáo phẩm, giáo sỹ bị chèn ép, bị đối xử bất công. Chưa nói đến những ngày tháng gian khổ của Giáo hội miền Bắc sau năm 1954 mà chỉ nói tới thời gian gần đây thôi thì cũng đủ thấy những chủ chăn của Giáo hội miền Bắc bị đối xử như thế nào. Cụ thể là trường hợp của TGM Ngô Quang Kiệt và các linh mục Dòng CCT ở Thái Hà. Các vị đã phải chịu bao nhiêu cay đắng, bị nhục mạ, bị vu khống, bị đe dọa và còn phải hứng chịu bao nhiêu trò hèn hạ khác.

Nhưng cái lợi là chính trong hoàn cảnh khó khăn lại tạo được sự hiệp thông chặt chẽ trong hàng chủ chăn. Khi xảy ra sự kiện Thái Hà, Đức cha Cao Đình Thuyên của Giáo phận Vinh đã tuyên bố “Việc của Thái Hà cũng là việc của Giáo phận Vinh”. Và mặc dầu nhà cầm quyền đe dọa các Giám mục đến Thái Hà, nhiều Giám mục miền Bắc cũng vẫn cứ đến hiệp thông với Thái Hà. Bất chấp những lời đe dọa, Đức cha Nguyễn Văn Sang của Giáo phận Thái Bình dù tuổi gìa sức yếu cũng đã lặn lội đến Thái Hà cho bằng được. Sau đó khi trở về Giáo phận Ngài gửi lời “Chào các bạn tôi đi ở tù” như là một thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hành động trả thù của nhà cầm quyền cộng sản.

Giáo dân miền Bắc được trui rèn trong gian khổ đã trở nên bất khuất, xứng đáng là con cháu các thánh tử vì đạo Việt Nam. Họ sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi về phần mình để bảo vệ niềm tin và để gióng lên tiếng nói bảo vệ Sự thật và Công lý. Trong biến cố Tòa Khâm sứ càng gần đến giờ nhà cầm quyền Hà Nội đe dọa ra tay thì giáo dân lại càng kéo đến đông hơn. Tại Thái Hà, 8 giáo dân hiên ngang ra tòa không một chút nao núng. Họ ăn mặc đẹp đẽ, mặt mày tươi tỉnh, hùng dũng cùng với anh chị em đồng đạo tiến đến pháp đình vui như ngày hội. Ở Tam Tòa trước cảnh tượng các linh mục và giáo dân bị đánh đập tàn nhẫn, lòng người giáo dân ở Vinh đã sôi sục mà nếu không vì vâng lời bề trên thì chắc chắn đã xẩy ra xung đột mà hậu qủa không ai có thể lường được. Ở Đồng Chiêm ngay cả ông gìa bà lão cũng không hề khiếp sợ khi đạo quân bất lương kéo đến đập phá cây thánh gía trên núi Thờ.

Bây giờ thử xem qua Giáo hội miền Nam nơi mà HY cho là có thái độ hợp tác. Cái lợi trước mắt là hàng Giáo phẩm được ưu đãi, được vuốt ve. Cụ thể là trường hợp Đức cố TGM Nguyễn Văn Bình đã được nhà nước cộng sản ưu đãi bằng cách cho thiết lập một CLB mang tên Ngài. Nghe đâu ở Sài gòn còn có tên đường Nguyễn Văn Bình và có trường học cũng được đặt tên của Ngài. đặc biệt hồi đầu tháng 9 vừa qua TGP Sài Gòn đã long trọng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngài mà nhiều người cho rằng TGP Sài gòn đã làm theo đơn đặt hàng của nhà nước cộng sản để họ hó có cơ hội trả công cho một vị TGM đã có “thành tích” đến chết vẫn còn sợ.

Cái hại hiển nhiên là vì được vuốt ve, được trọng vọng khiến cho chủ chăn trở thành nhu nhược, thụ động, không còn có dũng khí để nói lên sự thật và chống lại bất công. Hậu qủa là hướng dẫn giáo dân đi vào lối sống ích kỷ, chỉ biết sống cho mình còn ai chết mặc ai, không còn có tình liên đới trước sự thống khổ của anh em đồng đạo cũng như đồng bào … (Có thể đây là cái hại theo cách nhìn của những người công chính, nhưng lại là cái lợi cho những người cơ hội hướng theo “thói đời”)

Một điều tai hại khác là để cho nhóm quốc doanh trong cái tổ chức “Ủy ban chia rẽ Công giáo” hoành hành. Tổ chức này, như mọi người đều biết rõ mục đích của nó, được cho ra đời ở miền Bắc với cái tên Ủy ban Liên lạc về sau đổi thành Ủy ban Đoàn kết nhưng nó chẳng làm được trò trống gì ở miền Bắc vì Giáo quyền miền Bắc đã tỏ thái độ dứt khoát đối với nó ngay từ đầu. Theo ông Vũ Sinh Hiên, tác gỉa bài nghiên cứu “Thái độ của các Giám mục miền Bắc đối với cộng sản từ năm 1945 đến 1975” thì tổ chức UBLL “đứng đầu là linh mục Vũ Xuân Kỷ, thuộc địa phận Hà Nội và bị Đức Giám mục treo chén. Cùng trong Uỷ ban này với cha Kỷ là linh mục Nguyễn Tất Tiên, cũng thuộc địa phận Hà Nội và cũng bị Đức Cha Khuê treo chén như cha Kỷ …”. Còn về phía giáo dân, cũng theo tác gỉa Vũ Sinh Hiên “có nơi bị giáo dân tẩy chay công khai. Cha Võ Thành Trinh từ miền Nam ra, trấn nhậm giáo xứ Hòn Gai, ngoài tầm kiểm soát của Giám mục, hành lễ vẫn có giáo dân tham dự vì kẹt hiếm hoi linh mục …. Thế nhưng khi cần tổ chức thánh lễ hôn phối, các đôi tân hôn vẫn không quản ngại đường xá xa xôi, đem nhau về Hải Phòng xin lễ cho chắc ăn. Để cha quốc doanh dâng lễ e không thành”

Trong khi đó vì giáo quyền của TGP Sài Gòn dung túng UBĐK ngay từ đầu khiến cho tổ chức này càng ngày càng lộng hành. Là một tổ chức quốc doanh hoạt động theo chỉ đạo của Mặt trận Tổ quốc, nhóm này đã theo túng mọi công việc ở TGP Sài gòn, chiếm giữ các vai trò then chốt trong website của HĐGM, dùng CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình để cổ xúy cho sự nhu nhược và ươn hèn.

Những điều trình bày trên cho thấy thái độ hợp tác chỉ có lợi cho các đấng bậc biết cúi đầu vâng phục nhà nước cộng sản nhưng lại hoàn toàn có hại cho Giáo hội. Chủ trương hợp tác chẳng qua chỉ là chạy theo những lợi ích trần thế mà bỏ qua sứ mạng chính của đạo Chúa là bênh vực người nghèo khổ, người cô thế, người bị áp bức bóc lột, người bị bỏ rơi.

Tất nhiên nói như vậy không có nghĩa là cổ võ cho thái độ “bất cộng đái thiên” với người cộng sản. Theo tinh thần của Công đồng Vaticano II người Công giáo vẫn có thể sống chung với người cộng sản. Tuy nhiên sống chung không có nghĩa là “câm nín và cúi đầu” trước sự dối trá và bất công. Sống chung cũng không có nghĩa là nhắm mắt bịt tai và chỉ biết gật đầu thỏa hiệp với tội ác.

Lại Thế Lãng
Vermont – USA

Monday, October 11, 2010

Sống Phúc Âm Theo Định Hướng Xuống Hàng Chó Ngựa

    Sống Phúc Âm Theo Định Hướng XHCN
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Sau ngày CS vào Sài Gòn, tất cả mọi sự đều thay đổị. Sự thay đổi này người CS gọi là cách mạng, còn người dân miền Nam gọi một cách mộc mạc dễ hiểu là đổi đời. Công cuộc cách mạng của người CS tại Sài Gòn điển hình và rõ nét nhất, ai cũng thấy được, là biến cái bảng hiệu của nhà thương Từ Dũ trên đường Cống Quỳnh từ “Bảo Sanh Viện” thành “Xưởng Đẻ”. Còn sự đổi đời của người dân Sài Gòn thì đâu đâu cũng thấy, rất đa dạng và đa vẻ. Câu đồng dao một thời “Đầu đường đại tá vá xe, cuối đường thiếu tá bán chè đậu đen” có thể diễn tả đầy đủ và linh hoạt nhất cuộc đổi đời sau năm 75 của người dân miền Nam. Nhưng cho dù là cách mạng hay đổi đời thì ý nghĩa thực nhất của cuộc sống con người miền Nam có lẽ nó nằm đâu đó trong mớ Lý Thuyết Tiến Hoá Theo Sự Lựa Chọn Tự Nhiên (Theory of Evolution by Natural Selection) của Charles Robert Darwin để cầu mong được sinh tồn mà thôi. Nói khác đi thì đó là cách phản ứng thích nghi để tồn tạị. Đó là bản năng tự nhiên mà mọi người, mọi sinh vật đều có. Người bình dân chất phác thì cứ để cho sự thích nghi xẩy ra một cách tự nhiên, chẳng cần màu mè, hoa lá hầu che đậy.

Nhưng trong đời sống chánh trị thì lại khác. Thích nghi cũng cần phải che đậy vì một mục đích nào đó, và thường là để cho đỡ mất thể diện. Ta thấy khi người CS ở vào cái thế đường cùng và trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh, khi cần phải thích nghi để sống thì cho dù là giáo điều CS, chúng cũng vứt bỏ hết để áp dụng lối làm ăn của tư bản. Chúng đưa ra chiêu bài Đổi Mới. Chúng làm kinh tế tư bản để sống nhưng vì sợ người ta cười chê là quân nhổ ra rồi lại liếm, nên phải móc thêm cái đuôi “Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa vào mấy chữ kinh tế thị trường cho đỡ bẽ mặt.

Phải thành thực và công bằng mà nhìn nhận rằng bọn cộng sản Việt Nam có ngu, có dốt thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn là một tay trùm trong lãnh vực chơi chữ. Chơi chữ ở đây nói khác đi là lừa bịp thiên hạ bằng ba cái thứ khẩu hiệu này nọ. Hoàn cảnh nào, thời nào chúng biết tung ra khẩu hiệu thích hợp cho hoàn cảnh đó, thời dó. Không phải chỉ có đám dân ngu cu đen mới bị bỏ bùa vì mấy cái trò bịp của VC, mà cả đến những thứ khoa bảng, đại trí thức, bằng cấp bề bề cũng chết mê chết mệt với những khẩu hiệu của CS. Thời đánh Pháp, VC trương khẩu hiệu ĐỘC LẬP thật là ăn khách. Đến thời chúng gây chiến tranh ở miền Nam, đem vào cả hàng chục sư đoàn, cùng với xe tăng, đại pháo để đánh dân miền Nam thì chúng lại lớn tiếng đề cao chiêu bài HOÀ BÌNH. Chúng vừa đánh người lại vừa hô hoán bị người ta đánh.

Thế mà vẫn không thiếu kẻ tin. Và như trên vừa nói, trong lúc thập tử nhất sinh khó mong sống nổi nữa thì chúng lại dở trò ĐỔI MỚI. Mà đổi cái nỗi gì. Chỉ là học đòi bắt chước lại những gì của miền Nam mà trước đó đã bị chúng chối bỏ. Khổ nỗi là bắt chước cũng chẳng thành thân. Chưa xứng đáng là thằng học trò hạng bét của tư bản. Khẩu hiệu của VC ngoài đặc tính thời trang, còn chắc lý như đinh đóng cột nữa. Ta hãy lấy một một câu làm thí dụ: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng là nhà nước, và nhà nước là đảng. Như thế thì VC nắm toàn quyền sinh sát rồị còn gì. Ông Chủ Nhân Dân kia còn làm chủ cái gì ?

Bất cứ cái gì CS cũng dán nhãn hiệu Nhân Dân, làm ra vẻ ta đây dân chủ lắm: nào quân đội nhân dân, nào uỷ ban nhân dân, nào công an nhân dân … nhưng về tiền bạc thì lại là Ngân Hàng Nhà Nước. Cái gì cũng là của nhân dân cả, nhưng riêng tiền bạc thì dứt khoát không thể là của nhân dân được. Như thế thì ai bảo là việt gian cộng sản ngu !

Nhưng nếu bảo rằng chỉ có thằng VC mới biết chơi khẩu hiệu thì là lầm to rồi đấy. Một tay chơi (khẩu hiệu) mới bước vào nghề nhưng đã tỏ ra có hạng, và lão luyện không kém. Thật lạ lùng, đó lại chính là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN). Thật vậy, trước năm 75, khi đất nước còn chia cắt, Giáo Hội Công Giáo VN (GHCGVN) chưa thống nhất, thì chẳng ai thấy Giáo Hội có khẩu hiệu gì, kể cả ngoài Bắc cũng như trong Nam. Nhưng từ ngày CS chiếm được miền Nam, Giáo Hội hợp nhất lại rồi thì người ta mới thấy trong đời sống của Giáo Hội xuất hiện những khẩu hiệụ. Trong khá nhiều khẩu hiệu được HĐGM nêu lên, câu “Giáo Hội Đồng Hành Cùng Dân Tộc” có thể nói được là một khẩu hiệu đứng hàng đầu mang tính chiến lược của Giáo Hội.

Cần để ý đến hai chữ “Dân Tộc” ở đây. Nhiều người có cảm tưởng là có nhiều từ ngữ chung trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam đã bị CS chiếm độc quyền mất rồi, chữ “đồng-chí” hay chữ “dân-tộc” này đây chẳng hạn. Cái gì CS cũng trương mấy chữ dân tộc ra làm chiêu bài, làm như chỉ có CS mới là dân tộc. Chữ Dân Tộc theo nghĩa chung nhất ngày nay là tập thể các sắc dân, các thành phần dân chúng cùng chung sống trong một quốc gia và làm chủ quốc gia đó. Nhưng theo thuật ngữ CS dùng thì dân tộc đồng nghĩa với đảng cộng sản: dân tộc là CS, và ngược lại, CS là dân tộc. Vì thế mới có câu: yêu nước (dân tộc) là yêu xã hội chủ nghĩạ. HĐGMVN kể ra thì cũng rất đáng khen.

Đáng khen ở chỗ đã biết mau mắn cuốn theo chiều gió, và dám bỏ đi cái điểm câu nệ của một con người có tư cách và biết tự trọng mà học đòi kiểu cách lòe thiên hạ của lũ bịp hạ cấp này. Các Ngài cũng đã trương được cái bảng hiệu Dân Tộc trên nhiều khẩu hiệu của các Ngài, như: Sống Phúc-Âm trong lòng Dân Tộc. Hoặc, GH đồng hành cùng Dân Tộc ... Như vậy ai bảo các cố đạo không thuộc câu: Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy ? Điểm thắc mắc ở đây là nếu hiểu dân tộc là đảng CS thì hoá ra GHCG đồng hành cùng đảng CSVN sao ?

Thực ra thì nói dzậy mà không phải dzậy ... nhưng lại đúng là như dzậy. Cái gì mà ba phải và lắt léo rứa ? Rồi, muốn nói cho ra lẽ thì cũng phải bàn sơ qua về mấy chữ Đồng-Hành trước cái đã.

Đồng hành nói nôm na là cùng đi chung với nhaụ. Một ông đồ nho đi hát cô đầu hay đến nhà bạn chơi tổ tôm có dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch theo sau, đứa cầm ô (dù), đứa cắp tráp, đứa sách giỏ trầu, đứa mang bầu rượu ... thì có phải họ đồng hành không ? Xin thưa ngay rằng họ cùng đi với nhau thật đấy, nhưng không phải đồng hành, vì ông đồ đi du hí, còn đám tiểu đồng đi hầu hạ phục dịch cho ông. Hay như một đám quan lính điệu một tử tội ra pháp trường có phải họ đồng hành không ? Cũng không phải, vì lính thì đi canh gác pháp trường, còn tử tội thì ra đó để bị chém đầu.

Như vậy thế nào mới được hiểu là đồng hành ? Trong ý nghĩa sâu xa của từ ngữ này, những thành phần tham dự cuộc hành trình phải là tự do và trong nhiều trường hợp còn phải đồng đẳng nữa. Và, cái đích tiến tới của họ cũng phải là mục tiêu chung. Đối với đảng CS, Giáo Hội không phải là một thực thể tự do, cũng chẳng đồng đẳng, và dĩ nhiên mục tiêu tiến tới của cả hai cũng khác nhaụ. Như thế Giáo Hội không thể nói là đồng hành với CS được. Đối với các thành phần dân tộc khác, cụ thể là các giáo hội của các tôn giáo bạn, thì tuy Giáo Hội cùng đi chung trên một con dường và cùng tiến đến mục tiêu chung là phục vụ xã hội, nhưng lại thiếu yếu tố tự do làm cản trở ý thức chọn lựa cách đi và cả mục tiêu đến. Như vậy thì Giáo Hội cũng không thể nói là đồng hành cùng dân tộc. Vả lại trong ý nghĩa tích cực của nó, chữ đồng hành còn hàm ý một sự ràng buộc tinh thần giữa những người cùng đi. Nghĩa là, nói theo người bình dân, có vui cùng chia, có khổ cùng chịu, sống chết có nhau.

Trong ý nghĩa này, GH có bao giờ tự xét mình xem có thực sự đồng hành cùng dân tộc không ? Trong khi tất cả các tôn giáo bạn đang bị CS đàn áp, tước đoạt quyền tự do hành đạo, tịch thu tài sản và các phương tiện phụng tự, cấm giảng kinh sách, bỏ tù hàng loạt các vị lãnh đạo, thì GH giữ thái độ im lặng, dửng dưng như người bàng quan, đã thế còn đi lậy lục, xin xỏ CS từng chút ơn huệ riêng tư cho mình. GH như thế rõ ràng đã tự chứng minh là kẻ phá rào ăn mảnh và thủ lợi riêng. Làm sao bảo là GH đồng hành với dân tộc ? Nói đồng hành như thế (xin cho được nói thẳng) là nói xạo. GH đã không đồng hành với tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam thì câu hỏi được đặt ra là GH đồng hành với ai như câu khẩu hiệu muốn ám chỉ ? Chữ dân tộc trong khẩu hiệu của HĐGM chỉ còn có thể hiểu ngầm là đảng CSVN mà thôi. Mặc dầu như trên chúng tôi đã trình bầy.

GH không đủ tư cách để đồng hành với đảng CS. Mọi người đều hiểu rằng, khẩu hiệu của HĐGM trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại mang ý nghĩa là sự rút gọn lại những lời giáo huấn của các đấng bề trên được coi như kim chỉ nam cho mọi tín hữu tuân theo. Nếu như vậy thì khẩu hiệu có sao đâu, miễn là mọi sự đều tốt đẹp cả. Nhưng vấn đề là khẩu hiệu có thật sự hàm chứa nội dung lời dậy dỗ trung thực của các đấng bề trên hay lại chỉ là trò chơi chữ, tức là dùng chữ nghĩa để che đậy những cái gì không tiện nói ra, hoặc giả để sơn phết cho một sự thực trần trụi khó coi nào đó cần dấu diếm ? Nếu là khẩu hiệu của CS thì đánh chết cũng chẳng ai tin, nhưng lại là của HĐGM thì việc tìm ra ý nghĩa đích thực của nó hoặc dụng ý trong đó hẳn là điều cần phải làm.

Có khá nhiều khẩu hiệu của HĐGM, và căn cứ vào các khẩu hiệu đó, người ta có thể nhìn thấy rõ toàn bộ chủ trương lối sống của Giáo Hội trong chế độ CS. Đạo Chúa là một tôn giáo nhập thế. Sống trong một quốc gia, người tín hữu là tín đồ, đồng thời còn là công dân, có trách nhiệm và bổn phận với dất nước, vì thế họ phải sống hoà nhập với tất cả mọi thành phần dân tộc. Sống đầy đủ bổn phận và trách nhiệm của mình, người tín hữu như thế là đã hoà đồng cùng mọi người, và như thế có thể được coi là tốt đạo đẹp đời rồi. Đồng hành cùng dân tộc chính là cuộc hành trình tới mục tiêu trần thế của Giáo Hội. Mục tiêu đó là con người được tự do về tinh thần, và hạnh phúc ấm no cho thân xác. Đạt tới mục tiêu đó, con người có thể coi là sống Thiên Đàng nơi trần thế rồi.

Nhưng ở Việt Nam hiện nay, cảm tưởng chung là người tín hữu chỉ được sống trong một thứ thiên đường vẽ. Đành rằng ở trần gian này chẳng ai hưởng được thiên đường hiện thực cả, nhưng ít nữa làm sao cái minh hoạ và cái hiện thực thể hiện được nguyên lý hỗ tương bổ túc cho nhau, chứ không phủ định nhau. Vậy thì tại sao các ngài giám mục lại nêu ra những khẩu hiệu nghe rất nổ kia để làm gì ? Có phải để ru ngủ các tín đồ không ? Hay là lặp lại lời hứa hẹn “gắng hy sinh đời ta tươi thắm hơn” như CS chăng ? Câu trả lời công bình nhất chắc không phải là một câu xác định, nhưng hầu như có đủ lý do để nghi ngờ rằng mục đích việc nêu khẩu hiệu là để nhắm che đậy một cái gì đó. Đến đây thì chúng tôi lại phải trở lại câu trả lời ba phải và lắt léo đã được nêu ra ở trên. Câu đó là : Nói vậy mà không phải vậy ... nhưng đúng là như vậy.

GH không đồng hành với Dân Tộc Việt Nam thì cách duy nhất chỉ còn có thể hiểu là GH đồng hành với đảng CS. Nhưng như trên đã phân tích, GH không thể được coi là đồng hành với đảng CS, vậy thì mục đích việc nêu câu khẩu hiệu “GH đồng hành cùng dân tộc” phải nói huỵch toẹt ra là GH muốn xác định đã tự nguyện phục tùng CS rồi, và khẳng định cùng đảng CS đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nói rõ hơn là để làm vừa lòng CS, qua câu khẩu hiệu này, GH đã phủ nhận lập trường chống cộng của các bậc tiền nhiệm của các Ngài trước đây, đồng thời xác nhận lập trường đứng về phía đảng CSVN.

Nên nhớ rằng HĐGMVN năm 1951 đã ra thư chung xác định CS vô thần là một mối đe doạ lớn nhất hiện nay và công khai cấm tín hữu hợp tác hoặc làm bất cứ việc gì có lợi cho CS. Phân tích trên đã tìm ra được ý nghĩ đích thực của câu khẩu hiệu “GH đồng hành với dân tộc”. Đây chính là sự chuyển hướng lập trường của HĐMGVN nguỵ trang một cách khéo léo dưới một dòng văn tự bóng bẩy. Kết qủa của sự chuyển hướng này đã đem đến cho GH một chút không khí dễ thở hơn trong sinh hoạt của GH. Nói khác đi là chiếc thòng lọng trên cổ của GH đã được CS nới lỏng hơn một chút so với các tôn giáo khác. Nếu không có sự chuyển hướng này, làm sao các đức cha được phép xuất ngoại ồn ào như đã thấy, làm sao các cha, các sơ có thể lũ lượt chu du nước ngoài thăm thân nhân, bạn bè, con chiên bổn đạo để xin tiền náo nhiệt đến thế ? Tuy nhiên cũng phải nói cho rõ, có người được đi thoải mái, nhưng cũng có người bước ra khỏi ngõ cũng còn khó, nói chi đến chuyện ra nước ngoài.

Theo sách lược đấu tranh tiêu diệt kẻ thù của CS, thì việc kẻ thù chịu đầu hàng tư tưởng mới chỉ là bước đầu. Bước kế tiếp và là bước quan trọng là việc kẻ thù bị khuất phục bằng hành động, nghĩa là đối phượng phải tự nguyện làm những gì mà CS muốn. Công thức của bước kế tiếp áp dụng vào hành động nằm gọn trong câu thần chú thường thấy: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, HĐGM (nhân dân) làm chủ. Việc HĐGM tuyên ngôn đồng hành với đảng CS mới chỉ là bước đầu trong âm mưu CS công cụ hoá GH.

Chúng ta có thể gọi đó là công tác định hướng xã hội chủ nghĩa đời sống Phúc Âm của GH giai đoạn một. Giai đoạn này tuy cần thiết nhưng không quan trọng, vì các giám mục có nói gì thì nói, CS cũng chẳng tin, chúng coi đó như chuyện nín thở qua sông của các Ngài mà thôi. Điều quan trọng đối với chúng là các Ngài phải thể hiện ý muốn đồng hành qua hành động. Việc quan trọng nhất trong các việc quan trọng mà HDGM đã thực hiện để được kể là thực lòng đồng hành với CS là các Ngài đã tự động trao trọn Quyền Tổ Chức GH vào tay đảng CS. Quyền Tổ Chức là quyền tuyển chọn, huấn luyện và đào tạo các cấp lãnh đạo cho GH, đặt để họ vào những vị trí thích hợp trong cơ chế GH ; hoạch định đường lối và các chánh sách của GH, duy trì sự hiệp nhất trong GH, và hơn nữa là trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ sự trong sáng và thống nhất của giáo lý Phúc-Âm của Chúa. Những trách nhiêm trọng đại và cao cả này HĐGMVN đã chu toàn đươc ra sao ?

1. Trách nhiệm tuyển chọn, đào tạo, truyền chức, và bổ nhiệm.

Vấn đề này đã được rất nhiều con cái có thiện chí của Giáo Hội nêu lên một cách quyết liệt và nghiêm túc, đòi hỏi HDGM phải dành lấy quyền làm chủ trong vấn đề này chứ không thể vô lý trao trọn vào tay CS như hiện nay. Có người lý luận là CS cướp lấy quyền này chứ không phải HDGM tự động trao. Thật ra cũng có phần nào đúng. Nhưng suy cho cùng thì nếu GH tạm thời không công khai tuyển sinh, không bổ nhiệm, nghĩa là tạm thời đình chỉ thi hành quyền, thì CS lấy gì mà tước đoạt ? Tuy có khi phải tù đầy hoặc đổ máu, nhưng GH vẫn sinh động và phát triển tại những quốc gia mà ta thường gọi là “GH sau bức màn sắt” qua cách thức tuyển sinh, truyền chức, và bổ nhiệm chui. Mới đây ĐC Nguyễn Văn Hoà, chủ tịch HĐGM, làm đơn xin CS bỏ bớt đi một vài cửa aỉ sàng lọc, nhưng CS đâu có chấp thuận. Với tiến trình tuyển chọn và đào tạo chủng sinh hiện nay của HĐGM, có người gọi đại chủng viện là trường đào tạo cán bộ nhà nước qủa là không sai chút nào.

2. Trách nhiệm hoạch định đường lối và các chánh sách của GH.

Mỗi khi họp HĐGM, văn phòng Tổng Thư Ký phải xin phép nhà nước, nạp trước nghị trình và các vấn đề thảo luận, khi họp phải có sự hiện diện của cán bộ CS, sau khi thảo luận, nghị quyết phải được nhà nước thông qua và chấp thuận thì mới được thi hành. Như vậy thử hỏi HĐGM còn có thể đề ra đường lối, chánh sách riêng của mình theo nhu cầu của GH được sao ?

3. Trách nhiệm duy trì sự hiệp nhất trong Giáo Hội.

Khỏi nói thì ai cũng thấy hiện nay GHCGVN phân hoá và lung lay hơn bao giờ hết. Sự hợp nhất chỉ có ở bề mặt. chia rẽ Bắc Nam, chia rẽ vì quyền lợi, chia rẽ về ý thức trách nhiệm của GH trong các vấn đề phải bảo vệ công lý và sự thật, chia rẽ về lập trường của GH trước các vấn đề của đất nước cũng như của GH, chia rẽ vì sự ù lỳ của HĐGM và sự lộng hành của bọn linh mục quốc doanh v.v. Sự thể hiển nhiên này nếu biết khiêm tốn nhìn nhận để sửa sai thì mới mong hàn gắn lại được.

4. Trách nhiệm bảo vệ Giáo lý.

Có thể nói được rằng chính vì GH đã được định hướng theo XHCN, một đảng chính trị vô thần, nên trong GHCGVN đã thấy có nhiều biểu hiện xa rời giáo lý của Phúc-Âm. LM Nhuận Đức viết trên báo Công Giáo và Dân Tộc: “Tôn giáo là một khí cụ bóc lột áp bức tinh vi nhất, kinh khủng nhất. Thực vậy khi con người bị con người khác bóc lột thì hy vọng giải phóng dù sao cũng tồn tại, vì sức lực quyền năng của kẻ thống trị vẫn có giới hạn. Trái lại nếu đã tin rằng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, quyền phép vô cùng và cũng tin rằng Thiên Chúa đó thống trị áp bức, bóc lột thì làm sao còn hy vọng giải phóng ? Tôn giáo là con dao hai lưỡi. Đức Giêsu chấp nhận cuộc chơi, chấp nhận thách đố, và trả bằng giá máu của mình. Vậy những ai ngày hôm nay tiếp tục giải phóng con người thoát khỏi xiềng xích gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo là những kẻ tiếp nối sự nghiệp Đức Kitô. Cuộc cách mạng Việt Nam chứng minh điều đó”.

Cũng trên tờ báo này, LM Trương Bá Cần viết: “Ý định của Thiên Chúa quả đã bắt đầu thực hiện trên đất nước Việt Nam nhờ công lao của Hồ chủ tịch. Nếu Hồ chủ tịch muốn vào nước Trời, người sẽ vào trước hơn ai hết”. Đức Cha Nguyễn Sơn Lâm còn mạnh bạo hơn: “Đảng CSVN luôn nhìn thẳng vào sự thật, đánh gía đúng vào sự thật, nói rõ sự thật.” Những phát biểu trên của một số cấp lãnh đạo của GH cho ta thấy một điều: người ta muốn đồng hoá công cuộc cứu độ của Chúa Cứu Thế với việc làm cách mạng của người CS. Nói khác đi, những đấng làm thầy và đồng thời làm quốc doanh này cho rằng Chúa Giêsu chẳng qua cũng chỉ là một nhà cách mạng vô sản như những người CS ngày nay mà thôi. Vậy Chúa và các tay tổ CS như Karl Marx, Lenin, Mao Trạch Dong, Hồ Chí Minh cũng “the same” chứ chẳng ai khác ai.

Chính các Tông Đồ của Chúa ngày nay đã kéo Thầy mình là Thiên Chúa xuống ngang tầm những người CS, thậm chí còn không được bằng người CS như GM Nguyễn Sơn Lâm khẳng định “Chỉ có đảng CS mới nói rõ sự thật”. Chẳng thế mà Nước Trời là nơi mà Hồ Chí Minh muốn ra muốn vô là tuỳ ý hắn như LM Trương Bá Cần khẳng định ! Thật không còn thể tượng tượng nổi. Nên nhớ là những vị trên là những người đã gia nhập vào hàng ngũ lãnh đạo GH trong thời chánh quyền Quốc Gia quản lý đất nước, chứ không phải thời CS sau này. Dưới chế độ Cộng Hoà mà VC còn chui vào GH không mấy khó khăn như thế, phương chi lúc này đây, CS nắm toàn quyền sinh sát GH thì việc biến một cán bộ CS thành một ông cha, thậm chí giám mục, nào có khó khăn gì ? Không phải chỉ có bấy nhiêu, mà còn xuất hiện nhiều biểu hiện khác nữa xem chừng khá xa lạ đối với Giáo Lý của Phúc Âm mà vì sợ dài dòng chúng tôi không dám trình bầy hết ra đây.

Việc CS cho cán bộ xâm nhập vào GH là điều có thật, chứ không còn phải là sản phẩm tưởng tượng của những đầu óc chống cộng cực đoan như một số người thường nghĩ. Có rất nhiều tài liệu mật của thế giới CS đã được phanh phui chứng minh điều đó. Báo cáo năm 1961 của KGB tiết lộ : “Có khoảng 600 người dự các lớp đào tạo giáo sĩ trong giáo phận Moscow và 5 chủng viện.

Phải khai thác để đáp ứng nhu cầu của chúng ta. Chúng ta phải gài người của chúng ta vào hàng ngũ các chủnh sinh này, để về sau họ sẽ gây ảnh hưởng lên các hoạt đông của GH Chính Thống Nga. Họ sẽ là nhân viên của chúng ta để gây ảnh hưởng đến tín đồ các tôn giáo ... ” Qua năm sau (1962), Gribanov, phụ tá giám đốc KGB báo cáo: “KGB đã thành công trong việc cho xâm nhập những điệp viên có khả năng, và giá trị vào các chức vụ cao cấp của giáo phận Moscow và các giáo phận của Công Giáo, và của GH Armenian Gregorian”. Ông ta còn tuyên bố: “Với những điệp viên này, chắc chắn chúng ta sẽ loại bỏ được bọn tu sĩ và giáo hội phản động ra khỏi chức vụ của họ”.

Ở Việt Nam, những tài liệu thuộc loại tuyệt mật như trên tin rằng không thiếu, nhưng CS chẳng bao giờ dám khui ra, mà chỉ mới thấy những tài liệu học tập tuy cũng mật nhưng đã được tiết lộ. Một tài liệu học tập của CS viết: “Làm cho Giáo Hội Thiên Chúa từ chỗ làm công cụ của chủ nghĩa đế quốc chống cách mạng, chống CS, trở thành một tôn giáo phục tùng nhà nước, có tinh thần yêu nước, đi với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, và biến cải giáo lý, tổ chức, luật lệ, lễ nghi theo hướng tiến bộ.”

Hoặc một tài liệu dùng cho cán bộ làm công tác tôn giáo giáo dục cán bộ: “Giúp đỡ các giáo hội xây dựng tổ chức và duy trì đường hướng hành đạo theo đúng tinh thần của nước Việt Nam độc lập, có chủ quyền. Làm tốt công tác nắm các chức sắc, chức việc, giáo sĩ để tranh thủ ho ... .” (Nên lưu ý chữ “giúp đỡ” bọn CS thường dùng có nghĩa là khống chế). Hiện nay, CS không cần phải gài người hay cấy người của chúng vào GH, vì chúng đã có toàn quyền việc tuyển chủng sinh, chọn người làm linh mục, và thậm chí quyết định việc bổ nhiệm giám mục.

Thời kỳ trước khi khi chiếm được miền Nam CS mới phải nhọc công làm chuyện gài hay cấy người. Việc đó có vẻ khó khăn trên lý thuyết, vì công việc đào tạo giáo sĩ của CG rất thận trọng và khó khăn. Nhưng CS cũng đã thành công được phần nàọ. Những ông cha ngày nay giáo dân gọi chính xác là linh mục chính uỷ không thiếu tại Việt Nam đã nói lên sự thành công của CS.

An 1871 caricature following publication of The Descent of Man was typical of many showing Darwin with an ape body, identifying him in popular culture as the leading author of evolutionary theory. [Tranh hý hoạ vẽ Darwin dưới hình vượn, như "dã nhân" tiền kiếp/hay "hậu sinh", theo thuyết Tiến Hoá /di truyền/ của chính Darwin].

Sự thành công của CS trong vấn đề này bất luận thế nào đi chăng nữa cũng có nghĩa là sự thất bại của GH, và đều mang lại thiệt hại. Nếu HĐGM chỉ dẫn dắt GH đồng hành với CS “bằng miệng” không thôi thì sự thiệt hại nếu có cũng chẳng đáng kể. Bất qúa bản thân các giám mục mất mát chút đỉnh uy tín thôị. Nhưng khi đã hết lòng đồng hành với CS trong tất cả mọi khía cạch của đời sống Giáo Hội thì sự thiệt hại không thể không có. Cứ cái đà này mà tiến, tương lai GH sẽ đi về đâu, người ta đã có thể nhìn thấy được. GH của Chúa sau này biến thành một hình tượng quái dị nào đó kiểu “Hồn Trương Ba, da hành thịt” là chuyện có thể lắm.

Làm thầy thuốc sai lầm giết một ngườị. Làm chính trị sai lầm giết một dân tộc. Làm văn hoá sai lầm giết nhiều thế hệ. Còn làm tông đồ của Chúa mà sai lầm thì không biết kết quả sẽ ra sao ? Xin để quý bạn đọc tự tìm lấy câu trả lời.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Sunday, October 3, 2010

LẠI LẬP LỜ CHUYỆN DANH NHÂN VĂN HÓA - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Sáng nay, Thứ Sáu 1-10-2010, Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long được khai mạc tại Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc, ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), bí thư thành ủy Hà Nội, sau khi ôn lại công đức của tiền nhân, đã xưng tụng Hồ Chí Minh, lãnh tụ sáng lập đảng CSVN như sau: “Người được toàn thể nhân dân tôn kính gọi là Bác Hồ; được nhân loại tôn vinh Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Người đã nêu cao chân lý của dân tộc, đồng thời cũng là chân lý lớn của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”

Câu nầy là một câu tuyên truyền mẫu của CSVN, cả hai vế:

1. Vế đầu nói rằng Hồ Chí Minh được nhân loại tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc”.
2. Vế thứ hai cho rằng Hồ Chí Minh được nhân loại tôn vinh là “danh nhân văn hóa thế giới”.

Cả hai vế nầy đều cần phải xét lại vì càng ngày người Việt Nam càng thấy rõ những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN, và chính Hồ Chí Minh là tội đồ dân tộc vì đã đưa dân tộc vào vòng lệ thuộc Trung Cộng. Riêng bài nầy xin đề cập đến vế thứ hai là Hồ Chí Minh có được nhân loại tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới hay không?

Sở dĩ bài nầy chỉ đề đến chuyện danh nhân văn hóa thế giới, vì trong lễ khai mạc sáng nay, có cô Irina Bokova, tổng giám đốc cơ quan UNESCO tham dự. UNESCO là chữ viết tắt của United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization tức Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (LHQ).

Trong bài diễn văn trình bày tại buổi lễ nầy, cô Irina Bokova nói như sau: “As it did for the centenary of the birth of Ho Chi Minh, the General Conference of UNESCO adopted a resolution calling upon the world’s countries to celebrate with you today.” (http://unesdoc.unesco.org/images/0018/001895/189527e.pdf)

Như thế rõ ràng cô Irina Bokova hoàn toàn không đề cập gì đến việc UNESCO phong tặng Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, vì sự thật, Hồ Chí Minh chưa bao giờ được UNESCO thừa nhận là một danh nhân văn hóa thế giới. Xin hãy trở lại từ đầu câu chuyện nầy.

Tổ chức UNESCO, trụ sở đặt tại Paris, hằng năm có thông lệ nhắc nhở sinh nhật thứ 100 của các vĩ nhân các nước thành viên LHQ. Vào năm 1987, phái đoàn Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), nhân được luân phiên tham gia vào ban Chấp hành Tiểu ban Văn hóa UNESCO, đã đề cử Hồ Chí Minh (1890?-1969), lãnh tụ sáng lập đảng CSVN, vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”, nhân dịp 100 năm sinh niên của nhà chính trị nầy (1990).(1)

Theo sách Records of the General Conference [Tổng kết Đại hội đồng) của Hội nghị khóa 24 của UNESCO diễn ra tại Paris từ ngày 20-10 đến ngày 20-11-1987, tập 1 (bằng Anh ngữ, 215 trang), chủ đề “Resolutions” [Quyết nghị], phần B là “General programme activities” [Chương trình hoạt động tổng quát]), mục 18 là “External relations and public information” [Quan hệ ngoại vi và thông tin cộng cộng], tiểu mục 18.65 ghi nhận việc đề cử vinh danh Hồ Chí Minh vào năm 1990 (trang 134-135), kết thúc như sau: “Yêu cầu ông Tổng giám đốc UNESCO thực hiện những giai đoạn thích hợp để kỷ niệm một trăm năm sinh niên chủ tịch Hồ Chí Minh, và yểm trợ những hoạt động tưởng niệm trong dịp nầy, đặc biệt những hoạt động tại Việt Nam.”(2)

1. Ngoài Hồ Chí Minh, trong danh sách được đề nghị vinh danh năm 1990 còn có các nhân vật: Phya Anuaman Rajadhon (Thái Lan), Thomas Munzer (Đức), Anton Semionovitch Makarenko (Liên Xô), Jawaharlal Nerhu (Ấn Độ) và Sinan (Thổ Nhĩ Kỳ). (UNESCO, sđd., phần “Mục lục”, tr. VII.) Lời tuyên dương tất cả các nhân vật được đề cử, kể cả Hồ Chí Minh, do nhà cầm quyền các nước liên hệ soạn trình. Sau khi được Tiểu ban Văn hóa chấp thuận, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua đề nghị trên mà không thảo luận. Lúc đó, Tổng giám đốc UNESCO là ông M’Bow, người Phi Châu. Ông M’Bow giữ chức vụ nầy hai nhiệm kỳ liên tiếp nhờ sự hậu thuẫn của Liên Xô, các nước cộng sản và các nước Á Phi chống đối Hoa Kỳ.

Quyết định đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới” bị Cộng đồng người Việt hải ngoại phản đối khắp nơi trên thế giới. Tại Paris, nơi đặt trụ sở của UNESCO, Uỷ Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh (UBTCTAHCM) được thành lập, do ông Nguyễn Văn Trần làm Tổng thư ký. Uỷ ban nầy đã hoạt động tích cực như sau:

1. UBTCTAHCM vận động người Việt và báo chí Việt ngữ ở hải ngoại (Bắc Mỹ, Úc Châu, Âu Châu, Nhật Bản) viết thư cho UNESCO vạch trần tội ác của Hồ Chí Minh và chế độ cộng sản trong nước, đồng thời phản đối việc đề cử Hồ Chí Minh vào danh sách danh nhân văn hóa thế giới. Ý kiến phản đối lên đến khoảng 20,000 thư, đều được Giám đốc phụ trách vùng Đông Nam Á của UNESCO chuyển cho Đại diện của Hà Nội tại UNESCO. Ngoài ra, có người còn viết sách tố cáo Hồ Chí Minh đã ăn cắp thơ của người khác làm thơ của mình trong tập thơ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). (Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990.)

2. UBTCTAHCM liên lạc và kêu gọi Uỷ Ban Tương Trợ Việt-Miên-Lào và Hội Người Pháp Đông Dương (ANAI: Association Nationale des Anciens D’Indochine) gồm gia đình Pháp kiều, cựu quân nhân Pháp phục vụ tại ba nước Đông Dương, lên tiếng tố cáo Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã vi phạm nhân quyền đối với tù binh Pháp sau chiến tranh Đông Dương. Lúc đó, một học giả Pháp nổi tiếng là Jean-François Revel, tác giả các sách: Ni Marx ni Jesus (1970), La tentation totalitaire (1976), Comment les démocraties finissent (1983), khi nghe tin UNESCO dự tính vinh danh Hồ Chí Minh đã viết một bài báo vào đầu năm 1990, nói rõ Hồ Chí Minh đã lợi dụng ước mơ tự do để nô lệ hóa dân chúng, và cho rằng “đây là một trường hợp phạm tội gia trọng, một vụ ăn cắp, một vụ lừa bịp không hơn kém…”(3)

3. UBTCTAHCM liên hệ với Thị xã Paris và một số dân biểu, nghị sĩ Pháp, đề nghị họ đưa vấn đề ra trước Quốc hội Pháp, nhằm yêu cầu chính phủ Pháp có ý kiến với UNESCO về đề nghị vinh danh HCM, vì trụ sở của tổ chức nầy đặt tại Paris.

Trong khi cuộc vận động đang diễn tiến, thì lúc đó có ba sự kiện quan trọng xảy ra:

1. Trong nội bộ UNESCO, ông tổng giám đốc M’Bow thôi giữ chức tổng giám đốc, và ông Frederic Mayer, nhân sĩ Tây Ban Nha, đắc cử chức Tổng giám đốc. Ông Mayer không ủng hộ nhóm thiên tả, và không ủng hộ việc đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”. Ông Mayor tuyên bố không thể hủy bỏ quyết nghị năm 1987 vì chỉ có Đại hội đồng của UNESCO mới có quyền nầy, nhưng ông cũng cho biết UNESCO sẽ không tổ chức lễ vinh danh Hồ Chí Minh. Thực tế là ngân khoản năm 1990 do ông tổng giám đốc Mayer soạn thảo không có ngân khoản cho công việc nầy. Ngoài ra, hồ sơ lưu trữ về những hoạt động trong hai năm 1990, 1991 của UNESCO hoàn toàn không đề cập gì đến việc vinh danh Hồ Chí Minh. (4)

2. Tại Việt Nam, số người vượt biên càng ngày càng cao. Từ năm 1975 đến năm 1989 (trước thời điểm Cao Uỷ Tỵ Nạn LHQ ra lệnh khóa sổ các trại tỵ nạn, không nhận người vượt biên), số người vượt biên đến được nơi tạm dung lên đến khoảng 900,000 người, không kể số người tử nạn trên đường vượt biên.(5)

3. Các nước cộng sản Đông Âu bắt đầu lung lay và sụp đổ từ cuối năm 1989 đầu năm 1990.

Cuộc vận động của UBTCTAHCM, phản ứng của Cộng đồng người Việt khắp thế giới, và ba sự kiện trên đây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến UNESCO. Cuối cùng UNESCO quyết định không thi hành việc đề cử Hồ Chí Minh vào “Danh sách danh nhân văn hóa thế giới”. UNESCO cũng thông báo cho nhà cầm quyền Hà Nội biết, đại để như sau:
    - UNESCO không tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm sinh niên của Hồ Chí Minh tại Paris, cũng thư tại Hà Nội.

    - Thuận cho Tòa Đại sứ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ở Paris thuê một phòng tại trụ sở UNESCO để tự tổ chức, nhưng UNESCO không cử đại diện tham dự lễ.

    - Trong buổi lễ, ban Tổ chức không được tuyên truyền rằng UNESCO đã đề cao Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, không được treo ảnh Hồ Chí Minh trong hội trường.

    - Thiệp mời chỉ được ghi là “tham dự buổi văn nghệ”.
Sau khi UNESCO quyết định như trên, để vớt vát thể diện, tòa Đại sứ CHXHCNVN tại Paris đã thuê một phòng tại trụ sở UNESCO ở Paris để tổ chức buổi trình diễn văn nghệ vào trưa ngày 12-5-1989, đúng một tuần lễ trước sinh nhật của Hồ Chí Minh.(6) Buổi trình diễn văn nghệ nầy, quy tụ khoảng 70 người hiện diện, bao gồm cả ban tổ chức và nhóm “Việt kiều Yêu nước” là tổ chức do CSVN lập ra. UNESCO và chính phủ Pháp không cử đại diện đến dự. Chỉ có các nước cộng sản gởi người đến tham dự là Cuba, Bắc Hàn, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Lào và Cambodia.

Trong buổi trình diễn văn nghệ nầy, ông Đại sứ CHXHCNVN tại Pháp là Phạm Bình không đọc diễn văn, mà chỉ có ông Nguyễn Kinh Tài, đại diện CHXHCNVN tại UNESCO đọc bài viết ngắn về ý nghĩa buổi lễ, ca tụng sự nghiệp của Hồ Chí Minh, nhưng theo đúng tinh thần quyết định sau cùng của UNESCO, là không đề cập gì đến vấn đề danh nhân văn hóa thế giới.

Tòa Đại sứ CSVN lập kế hoạch tổ chức trình diễn văn nghệ kỷ niệm lãnh tụ của họ vào buổi trưa ngày 12-9, đúng một tuần lễ trước ngày sinh của ông Hồ, nhắm tạo bất ngờ để tránh bị biểu tình phản đối, nhưng Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá (UBQTTVB) (mới được thành lập nên không là thành viên của UBTCTAHCM), đã kịp thời tổ chức một cuộc biểu tình phản kháng, gồm khoảng trên 100 người Việt, tại công trường Fontenoy, gần trụ sở UNESCO.

Đại diện của đoàn biểu tình là các ông Trần Văn Tòng, Chủ tịch UBQTTVB, cùng với học giả Oliver Todd, thành viên sáng lập UBQTTVB và bà Anne Marie Goussard, Tổng thư ký Hội Quốc tế Nhân quyền, đến gặp ban Giám đốc UNESCO để hỏi rõ mục đích và ý nghĩa của buổi sinh hoạt văn nghệ do CSVN tổ chức tại một phòng họp của UNESCO. Ban Giám đốc UNESCO xác nhận với phái đoàn Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá rằng, đây là buổi văn nghệ do Tòa Đại sứ CHXHCNVN tại Pháp tổ chức, chứ không phải là lễ vinh danh Hồ Chí Minh của UNESCO.

Sau khi ban Giám đốc UNESCO xác nhận như trên, trong cuộc họp của Uỷ ban Quốc tế Trần Văn Bá tại trung tâm Maubert Mutualité (Paris 5ème) vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày 12-5-1989, ông Oliver Todd đã lên diễn đàn tường trình lại cuộc tiếp xúc với Ban Giám đốc UNESCO. Trong khi tường trình, ít nhất ông Oliver Todd đã hai lần nói rõ rằng Ban Giám đốc UNESCO xác nhận rằng UNESCO không tổ chức vinh danh Hồ Chí Minh, và cũng cho biết buổi trình diễn văn nghệ nhân kỷ niệm một trăm năm sinh niên Hồ Chí Minh vào chiều hôm đó, là do sáng kiến của Tòa Đại sứ CHXHCNVN mà thôi.

Cũng cần ghi nhận thêm, ông Bùi Tín, vào năm 1990 còn là đại tá bộ đội CSVN, đã có mặt tại Hà Nội trong buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, do CSVN tổ chức tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 19-5-1990, cho biết không có đại diện của UNESCO đến dự. (7)

Như thế là rõ ràng là Hồ Chí Minh chưa bao giờ được tổ chức UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. Đó là sự thật của câu chuyện được các tài liệu của UNESCO ghi nhận. Nếu ai chưa tin, thì xin mời sưu tra hồ sơ lưu trữ của UNESCO. Hồ sơ của UNESCO vẫn còn đó, rộng mở cho tất cả những nhà nghiên cứu, kể cả những nhà nghiên cứu của CHXHCNVN. Thời đại nầy là thời đại thông tin tiến bộ, mọi dữ kiện đều được ghi nhận cụ thể, nên mọi người có thể sưu tra trong các văn khố, nhất là những nguồn tin không thuộc loại bí mật quốc gia, như việc vinh danh một nhà hoạt động chính trị, chẳng cần gì phải để thời hạn lâu ngày mới công bố.

Trong lễ khai mạc kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ chính trị đảng CSVN, bí thư thành ủy Hà Nội, thật sự cũng không dám nói là UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh. Ông chỉ lắt léo chơi chữ là Hồ Chí Minh được “nhân loại tôn vinh Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới ….” để tránh bị UNESCO khiển trách, nhưng đồng thời ông Phạm Quang Nghị lập lờ như thế nhằm kiếm cách đánh lừa người nghe trong nước có cảm tưỏng rằng Hồ Chí Minh đã được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới, vì ông đã trình bày điều đó ngay trước mặt cô Irina Bokova, tổng giám đốc UNESCO.

Đúng là trò tuyên truyền bịp bợm kiểu CVSN

Trần Gia Phụng
(Toronto, 1-10-2010)

CHÚ THÍCH:

1. Nghiêm Văn Thạch, tài liệu đưa lên Internet ngày 4-1-2005, và tài liệu Phan Văn Song đưa lên Internet vào cuối tháng 5-2005. Theo Bùi Tín, bài đưa lên Internet và các báo đăng lại vào tháng 8-2005, thì thư đề nghị do bộ trưởng cộng sản Võ Đông Giang, chủ tịch UNESCO của Việt Nam, ký ngày 14-7-1987.
2. Nguyên văn Anh ngữ: ”Requests the Director-General of UNESCO to take appropriate steps to celebrate the centenary of the birth of President Ho Chi Minh and to lend his support to commemorative activities organized on that occasion, in particular those taking place in Viet Nam.” Để truy tìm các quyết nghị của UNESO, xin vào: http://unesdoc.unesco.org/ulis/cfgdoc_25c.html, tại khung “Simple search”, điền chữ “Resolutions”. Muốn xem riêng quyết nghị năm 1987, xin kéo xuống “UNESCO. General Conference; 24th; 1987.”
3. Bản dịch đăng trên nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, California, số 120, tháng 4-1999, tt. 31-32.
4. Đại hội đồng UNESCO được triệu tập hai năm một lần, nên hai năm mới có một bản tổng kết sinh hoạt UNESCO. (1986-1987, 1988-1989, 1990-1991).
5. Theo thống kê do Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, được nhà báo Giao Chỉ ghi lại trong bài “Lịch sử 30 năm định cư tỵ nạn 1975-2005”, nhật báo Người Việt Online, ngày 1-4-2005.
6. Bài nói chuyện của bác sĩ Nguyễn Ngọc Quỳ, một nhà hoạt động chính trị kỳ cựu tại Paris, trước Cộng đồng Việt Nam tại Montréal, ngày Chủ nhật 25-4-2004.
7. Bùi Tín, bài báo đã dẫn.

Friday, October 1, 2010

VIỆT TÂN CŨNG LÀ VIỆT CỘNG? - Lê Văn Ấn

Lê Văn Ấn

Ở những bài trước, chúng tôi đã trích những tài liệu chính thức của Việt Tân để xác nhận Việt Tân và Việt Cộng đang cộng tác chặt chẽ với nhau từ trong nước ra hải ngoại. Ðiều đáng tủi hổ cho người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản là đảng Việt Tân lại cam tâm làm em hay tay sai đảng Việt Cộng! Chúng tôi cũng minh xác rằng từ trước đến nay, tuần báo Tiếng Dân vẫn gọi Việt Tân là Việt Cộng nối dài tại hải ngoại. Và sau khi chứng minh những điều xác định trên là đúng sự thật, chúng tôi cũng đã lưu ý đồng hương: chỉ tại đồng hương phần thì thiếu thận trọng, dễ tin, thiếu cương quyết, phần mau quên đã giúp Việt Tân phục vụ Việt Cộng đắc lực tại hải ngoại này. Chúng tôi cũng đưa ra mấy trường hợp ở các thời điểm khác nhau và các địa phương khác nhau để chứng minh: Việt Tân lúc nào cũng thế. Nói cách khác là Việt Tân ở Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu vẫn là em của Việt Cộng.

- Trung Thu năm 1999 tại Houston, Texas, đảng Việt Tân đã lợi dụng Tết Thiếu Nhi để phân phối lén lút lồng đèn của Việt Cộng, lồng đèn nào cũng có khẩu hiệu của Việt Cộng Hồ Chí Minh: “Vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến”, cán bộ VC đi chân đất, đội nói cối. Sau khi bị lật tẩy với những chứng cớ không chối cãi được, Việt Tân đã phải công nhận các lồng đèn này của Việt Tân mua năm 1983 tại Hồng Kông?! Ðây là cái tình đồng chí của Việt Tân đối với Việt Cộng. Phải lén lút, rình chờ có dịp là biểu lộ tình cảm thắm thiết với Việt Cộng, nói Việt Tân là em Việt Cộng có oan không?

- Khi Trần Trường nịnh Việt Cộng để hình Hồ Chí Minh và lá cờ máu VC trong tiệm của hắn ta, đồng hương Nam Cali hợp cùng đồng hương các nơi khác về biểu tình 53 ngày đêm, ăn Tết luôn tại vỉa hè, trục xuất được Hồ Chí Minh và lá cờ máu. Trong 53 ngày đêm này, không thấy mặt mũi Ðỗ Hoàng Ðiềm và Ðoàn Thanh Niên Phan Bội Châu (của Việt Tân) đâu cả. Nhưng đến khi thấy Hồ Chí Minh và lá cờ máu phải cuốn gói, Ðỗ Hoàng Ðiềm liền xin phép Ban Tổ Chức Biểu tình tổ chức “Ðêm Không Ngủ”. Khi được chấp thuận, Ðỗ Hoàng Ðiềm cùng Ðoàn Thanh Niên này lập tức dùng hình ảnh, tài liệu Việt Cộng “Tội Ác Mỹ Ngụy” chiếu slideshow cho đồng bào coi, lại còn thả “bồ câu hòa bình” tâng bốc VC, bà Nguyễn Việt Nữ đã can ngăn nhưng chúng không chịu, đến khi bà tố cáo với đồng bào thì Ðỗ Hoàng Ðiềm năn nỉ “chị tha cho em một lần”. Ðỗ Hoàng Ðiềm và thanh niên “Phan Bội Châu” đã trả thù cho Trần Trường và Hồ Chí Minh cũng như lá cờ máu!

- Cách đây mấy năm, đài phát thanh Chân Trời Mới của Việt Tân đã phát thanh 5 tuần liên tiếp bài viết của tên Việt Cộng Hà Dương Dực tuyên truyền cho Việt Cộng, mạt sát người Quốc Gia thậm tệ, thế mà từ những tên chóp bu cho đến ban biên tập, ban kiểm tin, ban phát thanh vẫn phát đủ 5 lần. Bị đồng bào phản đối và chính Việt Tân cũng phải nhìn nhận đó là bài tuyên truyền cho Việt Cộng. Chỉ có Việt Tân và Việt Cộng là một mới có những hành động khốn nạn như vậy.

- Cộng đồng Việt Nam tại Vương Quốc Bỉ đang có đề án xây bia kỷ niệm và cảm tạ Vương Quốc Bỉ đã đùm bọc giúp đỡ người Việt tị nạn Cộng Sản mấy chục năm qua. Hội Chuyên Gia, một đoàn thể ngoại vi của Việt Tân lại phỗng tay trên, tự ý xin giấy phép và “mọi sự đã hoàn thành” chỉ xin các hội đoàn đóng góp để trả chi phí 7 ngàn euros! Nếu cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại Bỉ không cương quyết, không buộc được Hội Chuyên Gia này ngưng việc làm “phỗng tay trên” như vậy, chắc chắn cái bia đó sẽ có lợi cho Việt Cộng.

- Chủ trương hiện tại của Việt Tân là đánh phá các Ban Ðại Diện Cộng Ðồng địa phương, để rồi chúng đưa người của chúng vào, nếu thành công thì coi như Việt Cộng đã chiếm được chính quyền nơi đó. Mấy chữ “Quốc Gia chống Cộng” chỉ còn là cái vỏ, “vàng vỏ đỏ lòng” như tại Houston, Portland. Hiện nay, Việt Tân đang núp sau lưng LÐCT do những đảng viên Việt Tân giựt dây để lũng đoạn cơ chế cộng đồng tại Bắc California với chiêu bài ủng hộ Minh Dương hạ bệ Madison.

Tuy nhiên, vì những tên Việt Tân hiện nay tại San Jose nói riêng, Bắc Cali nói chung đã bị đồng hương nhẵn mặt như Hoàng Thế Dân, Hoàng Hồ, v.v… coi như đã bị cháy, nên bọn này rút vào bóng tối, chúng dùng lại những “cựu cán bộ” có thành tích “chống Cộng” để thi hành quỷ kế mà điển hình là Huỳnh Lương Thiện.

Tuần báo Tiếng Dân từ khi góp mặt với giới truyền thông ở Bắc California, đã liên tiếp tố cáo trước dư luận đồng hương: Mặt Trận Hoàng Cơ Minh lúc trước và Việt Tân bây giờ là bàn tay nối dài của Việt Cộng. Ðến nay, chẳng đặng đừng, Tiếng Dân mới vạch thẳng mặt sự cấu kết giữa LÐCT, UBBN 2 và Việt Tân, đồng hương mới nhận rõ bộ mặt Việt Tân cũng là Vệt Cộng đang phá hoại cộng đồng. Nhiều đồng hương đã kêu điện thoại cho chúng tôi và trách “TẠI SAO CHUYỆN ÐỘNG TRỜI NHƯ VẬY MÀ ÐẾN NAY MỚI TIẾT LỘ!”

Cái thâm độc của Việt Tân hiện nay là bất cứ ai ở trong nước hoạt động vì tự do dân chủ mà bị Việt Cộng bắt, Việt Tân ở hải ngoại lập tức vu cho họ là “đảng viên Việt Tân” để Việt Cộng dễ bề tra tấn, lên án họ một cách vô tội vạ. Trong cuộc phỏng vấn của đài RFA do phóng viên Mặc Lâm phụ trách, chính Ðỗ Hoàng Ðiềm, Chủ tịch đảng Việt Tân đã không dấu diếm chủ trương và hành động độc ác của Việt Tân là gây khốn khó cho các cá nhân, những nhà đấu tranh vì tự do dân chủ ở trong nước và gia đình của họ.

Khi được phóng viên Mặc Lâm hỏi: Thưa ông trên trang Web chính thức của Việt Tân ghi rằng “Phải đợi đến sau khi đảng Việt Tân lên tiếng tố cáo trước công luận, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam mới thú nhận viêc bắt giữ ông Phạm Minh Hoàng vào ngày 9 tháng 9 vừa qua”. Ông nghĩ sao nếu dư luận cho rằng đây là một hành động chứng tỏ Việt Tân đã trúng bẫy của Hà Nội?

Ðỗ Hoàng Ðiềm đã trả lời: “Dạ thưa chúng tôi quan niệm như thế này, Hà Nội đã thường xuyên bắt giữ rất nhiều người và không bao giờ xét xử hoặc đem ra trước công luận là một thủ đoạn rất nguy hiểm, cách làm việc đó của họ rất tai hại … thành ra chúng tôi phải làm sao cho những người này được dư luận quốc tế biết tới.”

Quý độc giả và đồng hương nên nhớ, trước hết, dư luận đã biết rất sớm việc VC bắt giữ giáo sư Phạm Minh Hoàng, vì sau khi chồng bị bắt, bà Kiều Oanh đã báo động với truyền thông quốc ngoại, đâu phải đợi tới khi Web của Việt Tân lên tiếng??!!. Và qua lời của Ðỗ Hoàng Ðiềm ai cũng hiểu rằng: vì mục đích “làm sao cho những người này được dư luận quốc tế biết tới” mà Việt Tân “buộc lòng” phải nhận họ là đảng viên Việt Tân, dù họ có là đảng viên hay không. Ðây là cách gắp lửa bỏ tay người của đảng Việt Tân. Nói cách khác đây là cách toa rập với Việt Cộng để hại người quốc gia chống Cộng. Vì ai cũng biết, một khi là đảng viên của một đảng chính trị thì phải biết ai móc nối mình, hệ thống tổ chức của đảng, hoạt động với ai, tài liệu, tài chánh ra sao, đã làm gì v.v… Nếu một người không phải là đảng viên, dù có tra tấn đến chết, nạn nhân cũng không thể khai báo gì cả, vì họ hoàn toàn không biết. Như vậy, chẳng những Việt Tân giúp Việt Cộng có cớ để “hãm hại” các nhà đấu tranh, mà đây còn là cơ hội để dàn dựng một tổ chức Việt Tân được dư luận biết đến như một đảng chính trị đang hoạt động tại nước ngoài và có nhiều đảng viên hoạt động đấu tranh trong nước. Sau cùng, vì có sự xác nhận của Việt Tân nên sự can thiệp của quốc tế sẽ không hiệu quả bằng một người dân bình thường vì bị áp bức mà nói lên tiếng nói công đạo. Ðây là những gì mà Việt Tân giúp Việt Cộng trừng trị bất cứ ai chống đối chúng, vì “họ là đảng viên Việt Tân” một đảng mà VC gán cho là khủng bố, mặc dù họ có một hành vi “khủng bố” duy nhất là “khủng bố dổm”, liệng chất nổ không có ngòi nổ.

Ðỗ Hoàng Ðiềm là một người bình thường, không chậm trí, không bị bệnh tâm thần mà còn là một người trí thức, được giữ chức vụ lớn nhất đảng, không thể nào lại có những suy nghĩ và hành động của người điên, hay chậm trí như vậy. Hơn nữa, đây là chủ trương của đảng Việt Tân, nghĩa là đã được “Trung Ương” thông qua.

Bà Kiều Oanh, vợ giáo sư Phạm Minh Hoàng đã “khôn ngoan” hơn cả đảng Việt Tân khi không chấp nhận chồng mình là đảng viên Việt Tân. Chính những người đã từng là học trò của giáo sư Phạm Minh Hoàng xác nhận giáo sư chẳng những khuyên sinh viên lo học trước đã, không nên gia nhập đảng phái kẻo vấp lầm nhất là đảng Việt Tân. Ðiều này cho thấy sự độc ác tàn bạo của Ðỗ Hoàng Ðiểm nói riêng và đảng Việt Tân nói chung. Việt Tân đã vu oan cho giáo sư Phạm Minh Hoàng, giúp cho Việt Cộng có cớ giam cầm giáo sư lâu ngày “vì nhu cầu điều tra”. Và khi đưa ra tòa VC có cớ để buộc tội nặng nề nạn nhân. (Ba Cây Trúc: Sábg nay 30/9/2010, tờ báo Le Soir cho biết tin từ Hà Nội, VC sẽ đưa giáo sư Hoàng ra toà án với hình phạt từ 5 năm cấm cố đến tử hình!) Trong lịch sử chính trị, chưa ai ngu dại đến nỗi khai ra tổ chức của mình. Và chính tổ chức mà người đó gia nhập cũng phủ nhận để đối phương không thể buộc tội nạn nhân. Thế mà Việt Tân chủ trương “cấp chứng minh thư” cho bất kỳ ai bị VC bắt. Việt Tân đã lên án sẵn để VC dễ bề trừng trị đối lập.

Ðỗ Hoàng Ðiềm cho rằng VC khi tuyên án không căn cứ vào người có đảng hay không, như nữ luật sư Lê Thị Công Nhân là phát ngôn viên của đảng Thăng Tiến bị 3 năm tù trong khi nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa không nằm trong đảng phái lại bị 6 năm tù, vì vậy “Sau khi cân nhắc như tôi vừa nói lúc nãy thì tôi quyết định phải công bố sự liên hệ của 4 người này đối với đảng Việt Tân để chúng tôi có thể huy động sự đấu tranh một cách hữu hiệu hơn”. Ðây lại là một thứ ngụy biện man trá và dại dột nếu cho rằng Việt Tân là đảng chống Cộng. Không thể lấy 2 trường hợp cá biệt để “vu vạ” cho những nạn nhân của Việt Cộng là đảng viên của mình. Ðộc ác hơn nữa là dành công lao đấu tranh của họ để đảng mình “có thành tích”. Việt Tân đã chủ trương hợp tác và xây dựng với Việt Cộng (nếu VC cho phép) và bảo đảm sự tồn tại của Việt Cộng trên đất nước cho đến năm 2025, như vậy thì Việt Tân chiếm đoạt “thành tích” đấu tranh của người khác làm gì? Ðỗ Hoàng Ðiềm đã dấu đầu lòi đuôi, lạy ông con ở bụi này. Cho dù có đấu tranh thực sự đi nữa, cũng không nên lấy công lao của người khác làm thành tích của mình, nếu là người có liêm sỉ, có tư cách. Tiếc thay, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh ngày trước, Việt Tân hôm nay, tập trung toàn những kẻ không tư cách và không liêm sỉ, vì nếu có tư cách và liêm sỉ họ không để lãnh tụ của họ chết 14 năm mới cho khai tử. Tàn bạo như vậy thì còn đâu là tư cách, còn đâu là liêm sỉ nữa?

Vấn đề dân oan là một vấn đề thuần túy xã hội, nguyên nhân là do cán bộ Việt Cộng tham nhũng, lạm dụng chức quyền để ăn cướp nhà đất ruộng vườn của đồng bào khiến họ phải đứng lên đấu tranh, nay Ðỗ Hoàng Ðiềm chứng nhận ông Nguyễn Thành Tâm, một “dân oan” là đảng viên Việt Tân, là chụp cái mũ chính trị cho dân oan để Việt Cộng thẳng tay đàn áp họ, vì họ muốn lật đổ chế độ chứ không phải vì bị ăn cướp mà khiếu nại. Nếu Ðỗ Hoàng Ðiềm điên thì có thể giải thích được, đằng này Ðỗ Hoàng Ðiềm và các lãnh tụ Việt Tân không điên, do đó, chỉ có thể giải thích là Việt Tân về hùa với VC để đàn áp dân chúng Việt Nam, để chính trị hóa vấn đề dân oan hay vấn đề VC ăn cướp của dân.

Trong câu hỏi chót, phóng viên Mặc Lâm đã bác bỏ luận điệu ngoan cố của Ðỗ Hoàng Ðiềm, vì những đảng mà Ðỗ Hoàng Ðiềm vừa nêu đều là những đảng đang hoạt động ở trong nước, tôn chỉ mục đích rõ ràng là bất bạo động. Còn đảng Việt Tân thì xuất phát từ hải ngoại, lại đã tạo được “thành tích khủng bố cuội”, liệng chất nổ ở ngoài cổng Tòa Lãnh Sự Việt Cộng mà lại không có ngòi nổ. Không ngờ, đây chính là dụng ý của Việt Tân, để Việt Cộng dựa vào đó lên án “cuội” Việt Tân là khủng bố, để những ai Việt Tân xác nhận là đảng viên của mình đều là những kẻ khủng bố. Khủng bố là một cái gì đáng ghê tởm, đáng lên án nặng nề. Ðó là dụng ý của 2 anh em Việt Tân và Việt Cộng để đàn áp dã man những ai đấu tranh chống lại Việt Cộng, dù họ không phải là kẻ khủng bố, dù họ không phải là đảng viên Việt Tân.

Một người tầm cỡ như Ðỗ Hoàng Ðiềm tất phải hiểu biết rằng trong khi bị địch bắt, họ có quyền tự do quyết định lời khai của họ, tùy theo trường hợp, hoàn cảnh và sự suy luận cá nhân. Ðằng này, Việt Tân tròng vào đầu họ một bản cáo trạng nặng nề là đảng viên Việt Tân, một đảng khủng bố. Việt Tân nói chung, Ðỗ Hoàng Ðiềm nói riêng phải bị luật pháp Hoa Kỳ trừng trị một khi các nạn nhân của chúng khiếu kiện.

Qua những thành tích của Việt Tân trong quá khứ cũng như những gì mà Việt Tân vu vạ cho các nhà đấu tranh ở trong nước, phải chăng chúng ta có thể kết luận Việt Tân chính là Việt Cộng??. Hơn bao giờ hết, đồng hương tị nạn Cộng Sản, nhất là đồng hương Nam Bắc California xin hãy đề cao cảnh giác, tránh những cạm bẫy của Việt Tân cũng là cạm bẫy của Việt Cộng.

Lê Văn Ấn



Friday, September 24, 2010

Mơ được gặp Chúa - Huy Nguyễn


Chào Bác giữa đêm,

Nhận meo Bác cả tháng rồi mà mãi đến nay Tèo mới phúc đáp được. Lý do chậm trể là lòng dạTèo đang cực kỳ hoang mang, trăm mối tơ vò trước “việc đạo” nhà Tèo xem ra đang có mòi “đổi mới tư duy” quy lụy “việc đời”xã hội chủ nghĩa. Tâm tư của Tèo lúc này ngẫm ra hao hao tâm tư tổng thống thiệu, “mất đất nước là mất tất cả”, việc nhà đạo cũng đang có mòi mất luôn, Tèo buồn quá chẳng còn muồn nói năng chi, chẳng buồn i-meo i-miếc chút nào nữa. Xin Bác lượng thứ.

Đang khi Satan tinh ranh nắm hết tình hình “các đấng”, thấu rõ tâm tư con chiên Tèo dao động, chộp thời cơ đến dụ dỗ Tèo bỏ đạo quách, đi theo nó cho rồi, Tèo may còn chút phúc đức ông bà được ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bổng nhớ lời hát “Bỏ Ngài con biết theo ai”.

“Ngài” đây là Đức Chúa Trời mà các vị từng nằm úp mặt xuống trước cung thánh nhà thờ thề thốt khi nhận thiên chức “ngôn sứ” của Ngài, các vị mà Tèo đã gửi trọn niềm tin tưởng bấy lâu, nay chẳng chịu ngôn lời nào trước bao cảnh lầm than của muôn dân, dân “bên đạo” lẫn dân “bên đời”, đang cam chịu bao oan trái dưới bạo quyền đầy mưu ma chước qủy gian tham và tàn ác.Trông mong vào các vị “thay mặt Chúa” lên tiếng hoài mãi thì chỉ thấy các đấng cứ thin thít, đến khi bị đàn chiên hoạch họe, các vị lại dỡ trò “lên tiếng hay không lên tiếng” nhằm biện hộ “chủ trương lớn” tiếp tục ngậm miệng, Tèo muốn gào lên, Chúa đâu rồi?

Quả là Chúa lòng lành vô cùng và thông hết mọi sự nên đêm qua Ngài đã hiện ra với Tèo. Chính xác, phải nói là Tèo được diễm phúc gặp Chúa trong mơ. (Chứ sức mấy, hơi đâu Chúa lại hiện ra với tên tội lỗi đầy mình, nhơ nhuốc lấm lem thuộc “diện”.. Cu Tèo này)’. Đêm qua Tèo mơ gặp Chúa Trời”. Nhờ vậy mà Tèo như được phục sinh, lấy lại tinh thần, leo lên mạng reply meo Bác .

“Cái thằng Tèo này, hết mơ gặp bác Obama nay lại mơ gặp Chúa, mà chẳng khi nào chịu mơ gặp Bác Hồ”. Tèo đoán thế nào Bác cũng ghen, cũng trách, nhưng biết làm sao được. Nói thật thì mất lòng Bác: lúc xưa Tèo hát là hát vậy chứ lòng nào có dám mơ tưởng gì gặp bác, vì cả ông bà nội lẫn ông bà ngoại mỗi lần nghe Tèo nghêu ngao “đêm qua em mơ gặp bác Hồ” là các ngài mắng Tèo như tát nước vào mặt. Nào là “mày mà đi theo cái thằng già khốn nạn ấy thì ra khỏi nhà này”, nào là “bà dì mày nuôi chúng làm cách mạng thành công là chúng nó cắt mạng bà dì mày liền tù tì, còn ngồi đó mà mơ gặp bác ...” vân và vân vân ...

Kể chuyện Chúa hiện ra với Tèo cho Bác phải chăng là trò vô duyên như đem đàn gảy tai trâu , hay thậm chí tựa việc khuơ khuơ Thánh Giá trước mặt quỷ? Không đâu. Tèo tin chắc như bắp là hôm nay Bác, do thấm đòn kách mệnh, đang thiết tha ơn cứu độ lắm, và lại, Tèo nghe thiên hạ đồn rằng, lúc sắp sửa “đi gặp cụ Mác cụ Lê”, Bác cũng đã từng năn nỉ các chú bu quanh, (mà tâm địa hầu hết các chú ấy đang “vòng ngoài bảy chữ” giả đò khóc thương Bác, song le “vòng trong tám nghề” lại thực tình mong bác chóng đi), cho Bác được gặp Đức cha Trịnh như Khuê. Thôi, biết Bác đang sốt ruột muốn nghe, à quên, đọc chuyện Đêm Qua Tèo Mơ Gặp Chúa, Tèo kể ngay đâỵ

Không như lần Tèo mơ gặp bác Obama, chỉ thấy hai hòn bi và một cái bàn chải trắng xóa giữa đêm đen, làm Tèo hú hồn, Chúa đến với Tèo trong hào quang rực rỡ, mặt mày sáng láng oai phong mà nhân từ, Tèo nhận ra Chúa ngay, chứ không phải chờ nghe kiểu “I am Obama, The President of the US”. Chúa rõ ràng như vậy mà Ngài còn chìa hai bàn tay có dấu đinh cho Tèo xem. Thấy Tèo run lẩy bẩy lập cập, Ngài mỉm môi thật là duyên, rồi phán, ”Con đừng sợ, Ta xuống đây đêm nay để an ủi con đang thất vọng não nề với nhưng kẻ Ta đã sai đi”. Tèo chỉ biết “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi!”. Lâu nay Tèo phàn nàn sao Chúa cứ để mặc các đấng ”Chúa chọn” thế này thế nọ mà không ra tay gì ráo; vậy mà nay được Chúa đích thân hiển hiện trước mặt, Tèo lại hồn viá lên mây. Nhưng mà nếu Tèo có nói được cũng bằng thừa, Chúa đã thông hết mọi sự trong lòng Tèo. Chúa phán:

“Con yên tâm. Ta hiểu, trước những chuyện tày trời như Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Toà, Đồng Chiêm, Cồn Dầu, TGM Ngô Quang Kiệt phải rời toà TGM, Đại Hội Dân Chúa mà có người gọi là ĐH Giết Chúa, Cha xứ Vườn Xoài. Linh mục Quốc Doanh, Giám mục Bịt miệng, Tiến lên Hồng Binh, Kiệu Đức Mẹ đứng chung với già Hồ, linh mục bị đánh đập, giáo dân bị hành hung tù đày, có kẻ mất mạng; khắp nước thì oan kiên chồng chất, đạo đức suy đồi, giáo dục xuống cấp, học đường biến thành cái chợ mua bán bằng cấp, chùa chiền thì bị tà quyền giả dạng “quần chúng tự phát” dở trò cồn đồ với ni sư, tu sinh như vụ Chùa Bát Nhã, kể ra bao giờ cho hết ... mà các người thay mặt Ta chẳng những không hé môi lên tiếng bênh vực kẻ bị áp bức, chống lại bất công xã hội, lên án những việc làm xấu xa, trái lại có khi còn tỏ thái độ toa rập với quyền lực thế gian, không chỉ mình con, mà hầu hết đoàn chiên ta thất vọng buồn nản khi nhìn về Giáo Hội”.

Nghe Chúa thao thao một mạch, Tèo phấn khởi quá đâm ra nhanh nhẩu đoảng: ”Chúa không bị tường lửa hay đám CAM của tướng VC Vũ Hải Triều tặc tin à ?”, mà quên mất Chúa quyền năng từ trời cao mà vẫn thấy rõ cả phần dưới bụng con kiến đen nằm dưới cục đá đen trong một đêm trời tối đen ( Tèo xin mượn lời cố LM. Trần Thanh Ngoạn giảng ở nhà thờ chánh tòa Banmêthuột thập niên 60 của thế kỷ trước) đâu cần lên mạng như bác cháu ta lên mạng lâu nay. May nhờ Chúa chẳng chấp nhất gì nên chỉ nhìn Tèo cười khẩy rồi phán tiếp:

“Ta cũng biết con có đức tin khá vào đạo Chúa, chứ không thì con đã bỏ đạo lâu rồi khi con bị những kẻ dám nhân danh Ta mà làm việc ám muội toan hại chính đời con; đặc biệt hơn nữa là trước cách hành xử hiện tại của những người đang cầm đầu giáo hội ta trên mãnh đất đau khổ Việt Nam của con. Có được niềm tin vào Ta như thế thì con cứ bình tâm tin rằng, mọi việc đang xảy ra đều do ý Ta cả đó con à!

“Con nhớ lại đi, năm 1974, sau Hiệp Định Paris, Miền Nam có cha Chân Tín viết trên nguyêt san Đối Diện bài “Miền Bắc 20 Năm Xây Dựng XHCN” với luận điệu ca ngợi CS khiến con tức giận, nhưng chính khi bọn linh mục quốc doanh lũng đoạn hàng giáo phẩm nhằm hủy bỏ chuyện Giáo Hội phong thánh cho 117 vị tử đạo VN, cha Tín đã lên tiếng bênh vực mạnh mẽ quyết định của Tòa Thánh hơn cả hàng giám mục”. Tất cả chỉ là cái roi như cái roi chủ nghĩa CS chính ta sinh ra để vừa trừng phạt vừa cho sáng mắt ra loài người tội lỗi u mê. Trái đất con ở đang vào giai đoạn vàng thau lẫn lộn mà thau lắm hơn vàng; Giáo Hội Công Giáo VN lúc này lại càng cần phải thanh tẩy ưu tiên hàng đầu.

“Ta dạy con như thế không phải để con xem tình trạng hiện tại là do ý Chúa để rồi bắt chước ngậm miệng. Ta rất hài lòng thấy gã Hatka vẽ lại Ta trong bữa Tiệc Ly mắt lườm tên Giu Đa thời nay đó con .

“Ngày xửa ngày xưa, quân Giu Dêu vì lầm mà đóng đanh ta một lần, nay kẻ tự hào thông thạo Thánh Kinh, đã biết rõ Ta lại đóng đánh Ta nhiều lần, chẳng hạn như linh mục đêm đêm mò vợ mà sáng sáng dang tay “Chúa ở cùng anh chị em” rồi truyền phép thánh của Ta, như đám linh mục quốc doanh do Huỳnh Công Minh cầm đầu xua đuổi môn đệ đích thực của ta Giám mục Nguyễn Văn Thuận năm 1975 nay lại bày trò tuyên dương chính ngài trong “thánh lễ” trông rất là “hoành tráng” có mời đại diện bạo quyền đến dự. Lại còn trò “Đại Hội Dân Chúa” mà thực ra là Đại Hội Giết Chúa khi người tổ chức lại loại trừ chính anh em mình, như Dòng CCT, Dòng Đồng Công là những nơi dám lên tiếng bênh vực kẻ bị áp bức, chống điều gian ác .Ta đớn đau dường nào.” ..

Nghe đến đây, Tèo thương Chúa quá, khóc rống lên, Tèo phu nhân giật mình thức giấc, kéo vai Tèo, “anh anh”.

Tỉnh giấc Mơ Được Gặp Chúa, Tèo lấy lại được niềm tin tưởng chừng đang vụt mất. Tèo hứa sẽ góp bàn tay thương tích ốm o tiếp sức với mọi người quét rác rưởi khỏi nhà Chúa.

Chào tạm biệt Bác,

Cu Tèo


Thursday, September 23, 2010

VIỆT TÂN THÌ Ở ÐÂU CŨNG THẾ! - Lê Văn Ấn

Lê Văn Ấn

Mỗi khi đề cập đến Việt Tân là người ta nghĩ đến mấy chữ “mập mờ đánh lận con đen”. Cái mập mờ quan trọng bậc nhất của đảng Việt Tân là sự liên hệ giữa đảng Cộng Sản và đảng Việt Tân, nó như một mớ bòng bong không biết đâu mà gỡ. Ngay cả những điều Việt Tân đã viết ra giấy đã tuyên bố chính thức nhưng đến khi mặt giáp mặt và được hỏi tại diện tiền, Việt Tân cũng cắt nghĩa rất “lăn ba vi bộ”. Tuy vậy, những điều cốt lõi của Việt Tân được viết ra giấy và những việc Việt Tân làm tạo thành bộ mặt thật của Việt Tân không thể chối cãi. “Việt Tân ở đâu cũng thế”, ở thời điểm nào cũng vậy, ở Vương Quốc Bỉ trong vụ Hội Chuyên Gia Việt Nam mạo danh Cộng Ðồng Người Việt tị nạn Cộng Sản để “nhảy vào họng” Cộng Ðồng Việt Nam tại đây, dành quyền lập Bia Tri Ân và Cảm Tạ Vương Quốc Bỉ đã đón tiếp người Việt Nam tị nạn Cộng Sản 35 năm qua, đến vụ Việt Tân đang dồn mọi nỗ lực gây xáo trộn trong Cộng Ðồng Việt Nam tại San Jose để len lỏi vào nắm chính quyền. Cũng như vụ Những cái lồng đèn với biểu tượng Việt Cộng và lời của tên Hồ Chí Minh “Vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến.”. Một trăm vụ lợi dụng kiểu tu hú đều bị người Việt tị nạn Cộng Sản phanh phui cả trăm vụ, nhưng hai yếu tố quan trọng đã giúp cho Việt Tân thành công: đó là sự lỳ lợm của Việt Tân“tính hời hợt và hay quên” của người Quốc Gia chống Cộng, khiến cho Việt Tân vẫn bày trò và vẫn thành công.

Sự liên hệ anh em giữa Việt Tân và Việt Cộng rõ ràng trên giấy trắng mực đen, thế mà nhiều người nghe đó rồi bỏ đó, để mỗi khi có vụ lường gạt của Việt Tân mới đưa ra “bàn thảo” lại thì đã quá muộn.

Liên hệ Việt Tân và Việt Cộng ra sao?

Tài liệu có tựa đề “Giải pháp xây dựng Dân chủ cho Việt Nam” của đảng Việt Tân có đoạn liên hệ đến đảng Cộng Sản, tài liệu này ghi nguyên văn như sau: "Vai trò của các thành phần dân tộc trong tiến trình chuyển hóa dân chủ:

- Lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam,
- Những đảng viên tiến bộ trong đảng Cộng Sản Việt Nam,
- Những lực lượng dân tộc, dân chủ,
- Ðồng bào trong nước,
- Ðồng bào ngoài nước”

Trong 5 thành phần này, lãnh đạo đảng Cộng Sản và những đảng viên tiến bộ trong đảng Cộng Sản chiếm 2/5. Riêng “đồng bào ngoài nước” thì một tài liệu khác xác nhận “khi cần thì hy sinh 3 triệu đồng bào ngoài nước để chỉ chọn đồng bào trong nước!”. Chưa hết, cái gọi là “Tiến trình Dân chủ” của Việt Tân được chỉ thị rằng phải “kêu gọi đảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận tiến trình dân chủ”. Nói cách khác là xin phép Cộng Sản để Việt Tân đội lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam “những đảng viên Cộng Sản tiến bộ” lên đầu để phục vụ, còn 3 triệu người Việt ở hải ngoại khi cần là hy sinh không tiếc nuối, không gớm tay.

Lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam từ trước tới nay chỉ phục vụ cho ngoại bang, những ngày gần đây, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng, tự đặt mình làm tôi tớ Trung Cộng, toàn dân đang trông mong một sự lật đổ thì đảng Việt Tân vẫn khư khư giữ bọn lãnh đạo này trên đầu để phục vụ, không có văn bản nào “mời” bọn lãnh đạo xuống. Ðáng tiếc cho dân tộc Việt Nam đã có đảng Cộng Sản, lại còn bồi thêm Ðảng Việt Tân. Ðiều nguy hiểm nhất là Việt Tân coi người Việt hải ngoại khi cần thì hy sinh, thế mà người Việt hải ngoại vẫn cắm đầu, cắm cổ nghe theo Việt Tân hay không chống đối Việt Tân một cách tích cực khi chúng dở trò lợi dụng.

Gần đây, vì nhu cầu công tác, đảng Việt Tân đã “tách làm 2” bên “chính thống” và bên “chệch hướng”. Nhưng qua những sự kiện xảy ra tại Vương Quốc Bỉ trong những ngày đầu của tháng 9 năm 2010 do Hội Chuyên Gia, một hội ngoại vi của Việt Tân, cũng như bài báo của bác sĩ Trần Xuân Ninh một lãnh tụ Việt Tân “chính cống”, người ta ngao ngán mà thấy rằng chệch hướng hay chính thống chỉ là bề ngoài, bề trong cũng như nhau và vẫn khắng khít với nhau. Bằng chứng là trong một tài liệu khác Việt Tân xác nhận chấp nhận chế độ Việt Cộng sẽ tồn tại cho đến năm 2025. Khắng khít như vậy thử hỏi chuyện Việt Cộng công khai lên án Việt Tân là bọn khủng bố, Việt Tân thì vội vàng công nhận bất kỳ ai ở trong nước bị VC bắt đều là “đảng viên Việt Tân”, để Việt Cộng tha hồ muốn kết án họ cách nào cũng được.

Sự kiện Hội Chuyên Gia của Việt Tân “phỗng tay trên” toàn thể người Việt tị nạn Cộng Sản trong vụ lập bia Tri Ân và Cảm Tạ Vương Quốc Bỉ. Ðây là một sự kiện mới toanh, đang xảy ra tại Bỉ, xin thuật lại đầu đuôi để đồng hương tị nạn Cộng Sản “nắm” vững và “thấm thía” cái truyền thống Mặt Trận lúc trước và Việt Tân sau này:

Cách đây 5 năm, Cộng Ðồng Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam tại Vương Quốc Bỉ gồm nhiều hội đoàn (khoảng 9, 10 Hội đoàn, trong đó có Hội Chuyên Gia của Việt Tân) đã đưa ra dự án lập Bia “Cảm Tạ và Tri Ân Vương Quốc Bỉ” đã giúp đỡ người Việt định cư ở Vương quốc này. Công việc đang tiến hành thì đùng một cái, các đoàn thể nhận được một thư thông báo của Hội Chuyên Gia, thông báo rằng Hội Chuyên Gia đã xin giấy phép và địa điểm là trong thành phố Bruxelles, bia đã điêu khắc và kiểu mẫu đã được vẽ, các hội đoàn chỉ việc chia nhau đóng góp 7 ngàn euros. Các hội đoàn đã họp lại và phản đối, vì Hội Chuyên Gia đã phỗng tay trên mọi người. Cái quan trọng và nguy hiểm cho toàn thể đồng hương tị nạn Cộng Sản tại Vương Quốc Bỉ là không biết trên tấm bia đó vẽ những gì, viết những gì, có lợi cho Việt Cộng hay không. Hội Chuyên Gia Việt Tân chỉ yêu cầu các đoàn thể đóng tiền. Trong cuộc họp của tất cả các hội đoàn tại Vương Quốc Bỉ ngày 11.9.2010, để bàn thảo vấn đề này thì Hội Chuyên Gia không đến! Hội đoàn nào cũng phản đối cách làm việc độc đoán của Hội Chuyên Gia, nhưng qua biên bản cuộc họp, mọi người không đưa ra được một quyết định tích cực nào. Ðó là khuyết điểm tiêu cực và mau quên của người Việt tị nạn Cộng Sản chẳng những ở Vương Quốc Bỉ mà các nơi khác cũng vậy. Đó là yếu tố quan trọng giúp Việt Tân phục vụ Việt Cộng một cách hữu hiệu!

Ðiều hèn hạ của Việt Tân mà bất cứ người nào cũng không thể chấp nhận được, đó là Việt Tân đã lợi dụng cuộc vui của trẻ em ngày Tết Trung Thu để tuyên truyền cho Việt Cộng. Chuyện xảy ra đã lâu, từ ngày 24.9.1999 tại Houston, Texas. một màn “đánh lận con đen” của Việt Tân bằng cách lén phát lồng đèn Trung Thu mà nhiều người cho rằng do Việt Cộng sản xuất: tất cả “thiếu nhi” đều đội nón cối, đi chân đất, mặt trăng màu đỏ cam, và lồng đèn nào cũng có câu nói mà cán bộ VC thường cho là của “Bác Hồ” của chúng nói: "Vì các cháu thiếu nhi, toàn dân ta kháng chiến”. Sau một hồi chối quanh, chối quẩn, Việt Tân phải ra thông báo thú nhận đó là lồng đèn do chúng phát ra. Vụ việc này thực là đê hèn, nhưng đối với Việt Tân cũng như Việt Cộng, chúng luôn chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Chúng ta đọc “lời bình” của một trong hầu hết báo chí tại Houston lên án Việt Tân hay Việt Cộng như sau: "Có rất nhiều vấn đề phức tạp quanh vụ chiếc lồng đèn, nhưng có điều đáng nói là bọn Cộng Sản quá lộng hành khi thực hiện công tác này…”. Việt Tân đã ra thông cáo chính thức công nhận chính bọn chúng đã phân phát loại lồng đèn “kiểu Việt Cộng” đó. Như vậy có phải Việt Tân và Việt Cộng là một không?

Tại San Jose này, Việt Tân cũng đang lợi dụng LÐCT và một vài “cựu” thành viên Mặt Trận hay Việt Tân như Huỳnh Lương Thiện để đánh phá cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại đây. “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Cứu cánh của Huỳnh Lương Thiện là gây xáo trộn tối đa cho cộng đồng người Việt tại San Jose để lên án Ban Ðại Diện Cộng Ðồng mà chính xác là ông Nguyễn Ngọc Tiên với mục đích thay ông Tiên bằng người của chúng như những nơi khác đã làm và đã thành công, còn phương tiện là gây cảnh máu đổ đầu rơi, tù tội cho những thành phần Quốc Gia chống Cộng. Từ 2 tuần nay, khi báo Tiếng Dân vạch rõ âm mưu đen tối xấu xa của Huỳnh Lương Thiện, có nhiều đồng hương đã “giựt mình” vì họ đang “ôm cọp mà ngủ”. Chúng tôi cũng vạch rõ “ủng hộ ứng cử viên Minh Dương chỉ là chiêu bài”, vì chúng cốt ý binh vực Hồ Phương theo chủ trương của Việt Cộng từ trước khi chuyện ứng cử, bầu cử chưa xảy ra. Nói cách khác là âm mưu phá hoại cộng đồng mới chính là chủ trương của chúng.

Ðiều đáng chú ý và cũng là yếu tố để nhận diện Việt Tân mỗi khi có những sự kiện bất thường xảy ra trong cộng đồng là luôn luôn binh vực Việt Cộng hay làm lợi cho Việt Cộng bằng cách tuyên truyền – nhưng luôn luôn núp dưới danh nghĩa người quốc gia. Suốt mấy tháng trời, Việt Tân San Jose đã tích cực binh vực và ủng hộ Madison Nguyễn trong vụ recall, vì trước đó, Madison Nguyễn đã công khai tuyên bố y thị chống tên Little Saigon chỉ vì nó có nghĩa chống Cộng.

Việt Tân ở đâu cũng giống nhau, thời nào cũng một chủ trương ủng hộ Việt Cộng.

Lê Văn Ấn

Friday, September 17, 2010

Thư ngỏ của giáo dân kính gửi HĐGMCGVN - An Đức



An Đức
    Kinh gửi HĐGMVN,

    Kính thưa quý GM,
Với tư cách một giáo dân CG thuộc Tổng Giáo Phận Saigon, chúng tôi kính gửi quý GM bức thư này, nhân dịp quý GM sắp họp khóa hai năm 2010.

Khóa họp này diễn ra trong lúc có rất nhiều dư luận bàn tán về thực trạng của GH và về hoạt động của quý GM trong thời gian gần đây. Dù ai vô tư đến đâu cũng thấy rằng HĐGM cần lên tiếng để giải thích và trấn an Dân Chúa.

Theo một số giáo sĩ và giáo dân thì có những vấn đề cần làm rõ sau đây:

Quý GM có đang tránh né thực tại vì sợ; vì muốn tránh những tranh chấp có tính chính trị? Cũng cần làm rõ về cách quý GM yêu thương, tha thứ và về cách quý GM đồng hành với dân tộc.

Bàn luận cùng quý GM về những vấn đề gai góc này, chúng tôi cảm thấy mình như đang “đánh trống qua cửa nhà sấm”. Trong số quý GM có rất nhiều vị có tiến sĩ về thần học, giáo luật, xã hội v.v.. của các trường đại học rất danh tiếng trên thế giới. Trong lúc chúng tôi là một người giáo dân bình thường, chưa từng ra nước ngoài, dù để du lịch. Vốn liếng hiểu biết về Đạo Chúa của chúng tôi chỉ là những lời giáo huấn của cha mẹ, là những bài học giáo lý với các dì phước ở nhà xứ và các bài giảng của các LM trong thánh lễ chủ nhật và trong các cuộc tĩnh tâm cho giáo dân.

Nhưng chúng tôi vẫn xin phép để thưa chuyện với quý GM với hy vọng quý GM biết những tâm tư của một giáo dân bình thường. Qúy GM là mẹ là thầy của chúng tôi, vậy cha mẹ và thầy giáo cũng nên hiểu về con, về học trò của mình, có phải không ạ?

Vậy xin lần lượt phân tích từng vấn đề:

1. Các GM trong HĐGMVN sợ?

Điều này không lạ và cũng không có gì xấu hổ. Trong Cựu Ước, các vị được xức dầu để làm Ngôn sứ cũng sợ. Ta có thể kể Ngôn Sứ Vĩ Đại Môi Sen, khi biết ý Chúa chọn ngài làm người phát ngôn của Chúa thì ngài đã sợ và thưa: Lạy Chúa, con nói lắp (cà lăm) làm sao con đối đáp với Pharaông được. Một Ngôn sứ khác cũng nổi tiếng vì cuộc đào thoát không thành khỏi chức vụ Ngôn sứ: Tiên tri Giona. Sợ cũng không thoái thác được, Chúa chọn thì phải làm.

a. Các vị GM sợ thiệt hại cho GH và cho giáo dân?

Điều sợ hãi này cũng có lý. Vì là những vị có trách nhiệm với GH và cộng đoàn, quý vị sợ lên tiếng về vấn đề này, khác có thể gây căng thẳng làm thiệt hại cho GH. Chẳng hạn: khó khăn trong việc xây cất thánh đường mới và sửa chữa các thánh đường đổ nát. Khó khăn trong việc thuyên chuyển, sắp xếp các linh mục, khó khăn trong việc tổ chức các việc đạo đức, rước xách linh đình, sợ giáo dân bị khó dễ v.v….

Xin được mạn phép nói: Đừng lo lắng lắm vì Chúa là Đấng đã phán “Trời là ngai Ta ngự. Đất là bệ chân Ta”. Thực ra làm gì có tòa nhà nào xứng với sự cao trọng của Chúa? Những ngôi thánh đường dù gì cũng là gỗ đá, được xây dựng cũng vì các giáo dân, các giáo sĩ và tu sĩ mà thôi,tức là vì con người. Nhiều giáo đường, tu viện ở Âu Châu nay đã bị đóng cửa hoặc bị bán đi (dù đã được Thánh hiến và nhiều Thánh lễ đã được dâng ở đó) vì thiếu giáo dân, tức là thiếu con người. Vậy xin Quý GM lo cho con người nhiều hơn là sợ thánh đường mới không được xây .

Còn việc lo cho giáo dân bị làm khó dễ, thì xin đọc lại sách MaCaBê quyển II, đoạn 7, thuật chuyện tử đạo của bảy anh em, câu chuyện bi hùng này khá dài. Tạm tóm tắt như sau:Vua Antiôkhô bắt một bà mẹ và bảy người con trai, buộc họ bỏ đạo. Vua cho dùng cực hình để buộc từng người bỏ đạo. Với người con nào bà mẹ cũng khuyến khích họ trung thành với Chúa, và tất cả bảy người lần lượt tử đạo. Trước khi người con thứ bảy chịu chết, người mẹ đã dạy con: ”Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm ra tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này, nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ”. Người con út đã vâng lời và khẳng khái nhận cái chết. Cuối cùng bà mẹ cũng chết theo các con.

Quý GM thương GH thương con chiên, nhưng dám chắc lòng thương của quý GM không thể hơn được tình thương của người mẹ này thương các con .Vậy hãy khuyên chúng tôi nên kính sợ Chúa và giữ giới răn của Ngài hơn là sợ hãi những tạo vật khác.

Còn nếu không được rước xách linh đình thì cũng không sao. Trên Thiên quốc chắc có những cuộc rước đông vui hơn và có Chúa và Mẹ Maria thật để chúng ta chiêm ngắm.

b. Các GM sợ hãi cho chính bản thân?

Điều này cũng hợp lý, là thọ tạo, ai mà chẳng có sự sợ hãi. Gương của các đầng tiền nhiệm sờ sờ ra đó. Tù tội, chết chóc như chơi. Còn nếu ôn hòa, tránh đối đầu thì dễ chịu lắm: Rước sách rình rang, mũ cao áo dài, được đưa đón trọng vọng cả phần đạo lẫn phần đời. Các chuyến xuất ngoại dễ dàng, thường xuyên v.v…

Đến đây lại xin giở sách Macabê quyển II, đoạn 6, chuyện kinh sư Elada. Ông đã chín mươi tuổi đầu, bị vua buộc phải ăn thịt heo (Luật Môisen cấm). Các người thi hành lệnh của vua vì thương ông lớn tuổi nên đã bảo ông rằng: “Chúng tôi cho mang thịt ông được phép ăn tới và ông ăn, giả vờ là ăn thịt heo. Chúng tôi sẽ báo với vua là ông đã vâng lời vua, như vậy ông sẽ thoát chết”. Ông đã khước từ và chịu mọi cực hình. Ông nói với lý hình: “Ở tuổi tôi, giả vờ là điều bất xứng, e rằng có nhiều thanh niên sẽ nghĩ là ông già E la da đã chín mươi tuổi đầu mà còn theo những lề thói dân ngoại. Rồi bởi tôi đã giả vờ và ham sống thêm một ít lâu nữa, nên họ bị lầm lạc vì tôi, còn tôi thì chuốc lấy vết nhơ và ô nhục cho tuổi già. Dù hiện nay tôi có tránh được hình phạt của người ta, thì sống hay chết tôi cũng sẽ không thoát khỏi bàn tay của Đấng Toàn Năng. Vậy giờ đây, khi can đảm từ giã cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già”.

Con người ấy đã giã từ cuộc đời như thế đó. Cái chết của ông để lại không những cho các thanh niên, mà còn cho đại đa số dân chúng một tấm gương về lòng cao thượng và một hình ảnh đáng ghi nhớ về lòng trung thành.

Vậy, tuy có nhiều điều đáng sợ thật, nhưng xin quý GM đừng sợ và hãy làm gương cho chúng tôi.

2. Các GM trong HĐGMVN không muốn dính đến chính trị?

Sau những chuyện đáng tiếc xảy ra thời trung cổ, Hội Thánh Công Giáo La Mã đã dứt khoát không làm chính trị, không can dự vào các cuộc chiến tranh và phế lập ở Châu Âu. Hội Thánh Công Giáo La mã cũng cấm các Hội Thánh Công Giáo các địa phương không can dự vào việc tranh dành quyền hành ở nước mình. GHCGVN cũng vâng lời. Không can thiệp, không tranh chấp, không đảm nhiệm chức vụ trong chính quyền. Đây là một điều đúng đắn. Tuy nhiên vì quá sợ dây vào chính trị mà GHCGVN ít lâu nay không hề có ý kiến gì liên quan đến công bằng, bác ái, đến an nguy của đất nước. Thái độ mũ ni che tai này đã biến GH chúng ta thành một tập thể vô cảm trước những vấn đề lớn của xã hội, dân tộc. Qua những cuộc rước xách, phong giám mục, khai mạc Năm Thánh v.v… chúng ta tự phô bày như một tập thể vô tư, vui tươi, hớn hở với hàng đoàn GM mũ cao áo dài mới tinh, rực rỡ ai cũng đẹp đẽ, rạng rỡ, xưng tụng nhau những câu ngất trời và chúng ta hãnh diện vì Chúa ở cùng chúng ta. Giáo dân cũng vui tươi, ăn mặc đẹp và lòe loẹt, hớn hở … Kèn trống ầm ầm và “cùng nhau đi hồng binh” nữa chứ. Thật sự nhìn bề ngoài, các anh em không CG chẳng phân biệt nổi cuộc lễ cũa chúng ta và những cuộc cúng thần thành hoàng hoăc các cuộc rước đa thần khác.

Ở đây xin góp ý kiến. Không một hành vi nào của quý GM mà không mang tiếng là có một thái độ chính trị đâu. Khi ĐGM Ngô Quang Kiệt tuyên bố: ”Tôn Giáo là quyền, không phải là ân huệ xin – cho” thì ĐGM mang tiếng chống đối. Khi ĐTGM Nguyễn văn Nhơn kêu gọi giáo dân HN tham dự lễ hội “Mừng ngàn năm Thăng Long” thì ĐTGM mang tiếng ủng hộ, lấy lòng chính quyền.

Vậy xin hãy làm việc và tuyên bố theo lương tâm và nhiệm vụ, không sợ câu nói việc làm của Quý GM có ảnh hưởng thế nào đến chính trị. Mục đích cuộc đời của quý GM không phải là làm đẹp lòng ai, mà là để công bố tin mừng và phục vụ những anh em nhỏ bé nhất của Chúa Giêsu.

3. Các GM trong HĐGMVN muốn tha thứ cho anh em và tội của anh em?

Tha thứ cho anh em là luật buộc. Nếu có anh em nào xúc phạm đến ta, thì ta phải tha thứ. Nếu một người không xúc phạm ta, mà lại xử bất công với anh em khác. Ta khuyên nhủ nạn nhân tha thứ, nhưng nếu ta không nói phải quấy với người anh em phạm lỗi và nhất là không ngăn chặn họ tái phạm là ta đã lỗi đức bác ái với nạn nhân.

Là cương vị chủ chăn thì việc này càng rõ nét. Là những Ngôn sứ ( quý GM không thể thoái thác nhiệm vụ này) nhiệm vụ bênh vực sự thật, bênh vực công lý, bênh vực những người cô thế, những người không cất tiếng kêu được (vì kêu trời không thấu). Quý vị phải đứng bên công lý, đứng bên sự thật, đứng bên người thấp cổ bé miệng và lên tiếng thay họ, vì họ.

Đọc lại tin mừng ta thấy Chúa tha thứ và nhắc tội nhân: “Ta không kết tội con, hãy ra về và đừng phạm tội nữa”. Xin quý GM hãy cứ tha thứ cho tội nhân, nhưng hãy ghét tội của họ và ngăn đừng để họ phạm tội nữa (ít nhất là lên tiếng can gián ), nhất là khi họ phạm đến những anh em bé nhỏ của Chúa.

4. Các GM trong HĐGMVN muốn sống phúc âm trong lòng dân tộc?

Đây không phải là phát kiến mới, độc quyền của HĐGMVN.

Trong thư chung số 11, Cố Hồng Y Trịnh Như Khuê cũng đã kêu gọi Dân Chúa Yêu Thương Đồng Bào và thư chung số 3 ngày 1-11-1950 của ngài có câu : “Yêu nước, thời nay người ta nói đến rất nhiều, có khi Anh em không nói nhiều bằng người khác. Chúng ta hãy làm nhiều hơn nói”.

Cố Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã làm một bài thơ về Tô Quốc, trong đó có câu:
    Là người Công Giáo Việt Nam,
    Con phải yêu Tổ Quốc gấp bội.
    Chúa dạy con, Hội Thánh bảo con.
    Cha mong giòng máu ái quốc,
    Sôi trào trong huyết quản con.
Các khái niệm yêu thương đồng bào, yêu nước, yêu tổ quốc, sống phúc âm trong lòng dân tộc khác nhau về chữ viết, nhưng ý nghĩa chung quy cũng rất gần nhau. Vậy sao lại có cách hành xử khác nhau giữa các vị Cố Hồng Y và các vị GM đương thời.

Có thể tìm hiểu theo ngữ nguyên:

Sống phúc âm là sống theo Tin Mừng của Chúa. Tóm gọn là sống kính mến Chúa và thương yêu đồng loại. Nếu muốn gọn thêm nữa thì là yêu thương đồng loại, kể cả người tội lỗi,như cách Chúa yêu.

Dân tộc Việt Nam gồm tất cả người Việt Nam sống trên lãnh thổ nước Việt Nam, không phân biệt sắc dân, không phân biệt chính kiến, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt nam nữ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt nguồn gốc (gốc Hoa, gốc Miên v.v…) và những người có dính líu đến nguồn gốc Việt Nam ở nước ngoài, mà vẫn còn muốn nhận mình là người Việt.

Trong lòng dân tộc: có nghĩa là ở trong dân tộc, chịu chia vui sẽ buồn, hy vọng, thất vọng, nỗ lực, thất bại, vinh quang, tủi nhục cùng dân tộc. Để dễ hiểu hơn ta có thể liên tưởng đến cụm từ: ”sống chung trong nhà”, người sống chung trong nhà chia sẻ hết mọi điều, vui buồn có nhau, hỗ trợ nhau, săn sóc nhau khi bệnh tật, bênh đỡ nhau khi có người đến bắt nạt người nhà.

Vậy sống phúc âm trong lòng dân tộc là sống với tinh thần yêu thương sẻ chia với dân tộc như Chúa yêu thương. Với cách ví “sống chung trong nhà” chúng tôi liên tưởng đến đời sống lứa đôi, từ đó lại nhớ đến sách Nhã Ca: Chúa yêu thương dân của Ngài đến nỗi Chúa gọi dân Ngài là Hiền Thê. Chúa Giêsu cũng nhận Hội Thánh Công Giáo như vậy.

Vậy khi nhận sống phúc âm giữa lòng dân tộc, GHCGVN như đã kết ước với dân tộc là sẽ lo lắng, yêu thương và sẻ chia mọi nỗi niềm với dân tộc và sẵn sàng hy sinh cho dân tộc như những người bạn đời hy sinh cho nhau.

Tuy nhiên cần có một định nghĩa đúng về “dân tộc”.

Dân tộc là dân tộc. Dân tộc không phải là một trong số các thành phần góp thành dân tộc. Ông A là ông A. Bàn tay của ông A không thể là ông A. Bàn tay ông A góp với những bộ phận khác của ông A họp thành ông A. Dân tộc Việt Nam có từ nhiều ngàn năm. Mỗi thời kỳ Dân Tộc Việt Nam lại có những thành phần khác để họp thành. Vì thế không thể nhầm ý chí của một thành phần dân tộc là ý chí của dân tộc. Không thể nói nếu không theo nhóm ông A là không theo dân tộc. Và cũng không thể nói nghe theo lời nhóm ông A là theo dân tộc.

Quý GM, xin quý GM hãy phân biệt kỹ điều này.

Vậy GHCG cần làm gì để sống phúc âm trong lòng dân tộc?

Điều này tưởng rắc rối (vì đang có sự bất đồng trong GHCGVN cũng vì câu hỏi trên)

Thật ra lại khá đơn giản . Theo chúng tôi chỉ cần thay chữ “dân tộc” vào chữ “người” ở trong điiều luật trọng nhất “mến Chúa yêu người”.

Chúng ta hãy mến Chúa và yêu dân tộc theo như Chúa dạy.

Thử áp dụng luật mến Chúa và yêu dân tộc vào thực tại: Giới luật của Chúa cấm giết người. Trước vấn nạn phá thai tràn lan. Nếu xét về tỷ lệ thì VN hiện đứng hạng nhất thế giới.Trên trang Sức Khỏe và Đời Sống (cơ quan ngôn luận của Bộ Y Tế VN) mỗi năm có từ 1,2 đến 1,6 triệu trường hợp phá thai ở nước ta, chưa kể những phòng phá thai chui. Theo niềm tin của đạo CG thì phá thai là một tội trọng vì giết người một cách đê hèn, giết người không thể tự vệ.

Vậy HĐGMVN đã làm gì? Rõ ràng một bộ phận lớn Dân Tộc bị tước đoạt quyền sống. Nhưng HĐGMVN chưa yêu dân tộc đủ để lên tiếng mạnh mẽ và lên tiếng bền bỉ để ngăn chặn cuộc tàn sát này. HĐGMVN cũng chưa có nỗ lực để thuyết phục các phụ nữ có thai vì lỡ lầm ngưng việc giết con mình và giúp đỡ họ nếu họ thay đổi ý giết con. Cũng chẳng có nỗ lực nào có tính cách hệ thống, (chẳng hạn của các Tòa GM) để đón nhận xác những nạn nhân bị bức tử này và chôn cất theo nghi lễ Công giáo (chôn xác kẻ chết là một điều được dạy trong “Thương xác bảy mối”). Ở đây chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn nỗ lực của một số LM và tu sĩ DCCT cũng như các anh chị em rất nghèo (về tiền bạc) ở một số địa phương đã cố gắng thuyết phục các thai phụ không phá thai và giúp đỡ họ trong thời gian thai nghén và cũng nhận xác các thai nhi về chôn từ nhiều năm nay.

Trong kinh “Thương người có mười bốn mối” có: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc và cho khách đỗ nhà. Thực tế ở các địa phương trên cả nước, đã có quá nhiều nông dân bị mất đất canh tác, mất nhà cửa cho các dự án kinh tế, khu du lịch, khu công nghiệp và các dự án sân golf (quá nhiều dự án sân golf). Họ sẽ là những người không có thức ăn, không có nước uống, không có áo quần và cũng không có nhà (họ có được đền bù một ít tiền, nhưng không đất canh tác, không nghề, không đủ vốn liếng, hết tiền thì họ đi đâu? Và cả nước sẽ thiệt mất bao nhiêu lương thực (vì đất canh tác thành sân golf, khu du lịch v.v…). Dân tộc đang gặp cảnh cơ cực như thế, HĐGMVN đã và sẽ làm gì, ngoài mấy dòng góp ý từ mấy năm trước. Nói cho có nói vậy và buông trôi thì sao có thể nói chia ngọt sẻ bùi với dân tộc.

Môi trường sống của dân tộc, an ninh của đất nước đang tốt xấu ra sao? HĐGMVN có ý kiến gì không? Những người liệt lào, người tù tội trong cộng đoàn Dân Tộc của chúng ta có được an ủi bởi tuyên úy nhà thương, tuyên úy nhà giam hay không? Kinh “thương xác bảy mối” yêu cầu thăm viếng, an ủi những người này, nhưng có bao giờ HĐGMVN đã đặt vấn đề và đòi được lo cho họ ...

Đã thề nguyền sẻ chia, khổ sướng có nhau, sao HĐGMVN nỡ để Dân Tộc cô đơn một mình giữa những khó khăn như vậy.

Đến đây chúng tôi xin được ngừng bài góp ý vì nếu thêm nữa chúng tôi sẽ sa đà vào việc phê phán lê thê.

Một lần nữa chúng tôi xin lỗi nếu có điều gì thất thố, nhưng xin lặp lại trên đây là những điều được viết từ đáy lòng của một giáo dân Công Giáo Việt Nam và cũng là một người thuộc Dân Tộc Việt Nam, mong được thấy một HĐGMVN mạnh mẽ trung thành với Chúa và sống thật sự hiệp thông với Dân Tộc.

Kính chào Quý GM trong HĐGMVN.

Kính chúc bình an.

An Đức