Wednesday, September 8, 2010

Lời kêu gọi về việc chống Hiệp Hội Doanh Nhân việt cộng

    Tên giặc Cộng cắp ô đi trước
    Thằng gia nhân xách guốc chạy sau
    Miệng bảo giúp dân giàu
    Chân dẫm máu đồng bào chiến sĩ
Kính thưa quý đồng hương,

Anh em cựu quân nhân chúng tôi là những người được huấn luyện để cầm súng, không phải để cầm viết. Nhưng từ ngày tiếng súng tạm yên, trận địa giữa ta và VC đã chuyển từ núi cao, rừng rậm sang những trang giấy, những mạng điện tử. Hoàn cảnh bắt buộc, những người quen đổ máu hơn quen chấm mực như chúng tôi phải cầm bút để chiến đấu tiếp tục.

Ngày 25 tháng 9 sắp tới đây sẽ có cuộc biểu tình chống "Hiệp Hội Doanh Nhân Việt Nam Hải Ngoại", một tổ chức do CSVN đẻ ra. Đối với những người lưu tâm đến chính trị thì lý do chống tổ chức doanh nhân VC này đã hiển nhiên. Những người quan tâm vận mạng dân tộc đều biết những màn từ thiện trá hình, những show ca nhạc tuyên vận, những bả kim tiền là những bãi phục kích của giặc Cộng. Nhưng cũng có đồng hương không mấy quan tâm đến chính trị.

Có một nguyên tắc rất đơn giản mà hữu hiệu, đó là bất cứ chuyện gì của VC bày ra, thổi lên là ta chống. Nguyên tắc này không sai, vì có bao giờ VC bày ra trò gì mà không có lợi cho chúng, mà hễ có lợi cho VC tức là kéo dài sự thống trị độc tài, tham nhũng thối nát, cũng là kéo dài sự lầm than của dân tộc. Từ thiện, văn nghệ, mà ngay cả Hiệp Hội Doanh Nhân do VC bày ra cũng cùng một mục đích.

Nhưng không phải tất cả mọi người đều đồng ý và được thuyết phục bởi lập luận trên. VC sẽ tuyên truyền là Hiệp Hội Doanh Nhân này đưa lợi đến cho thương gia Việt kiều, tăng mối làm ăn cho người nước ngoài, từ đó tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người trong nước. VC sẽ bảo tham gia Hiệp Hội Doanh Nhân là tự giúp mình, đồng thời giúp nước.

Và sẽ có người lọt vào ổ phục kích của chúng. Thoạt nghe thì có vẻ như lời tuyên truyền của VC hữu lý, vì quỷ thuật ngụy luận của VC là nói đúng một phần, nhưng một phần của sự thật không phải là sự thật, mà là sự xảo trá.

Có phải hội "Gia Nhân" của VC mang quyền lợi kinh tế cho người dân trong nước chăng?

Đúng, nhưng chỉ đúng một phần trăm. Việt kiều làm ăn với VC thì người dân sẽ có ăn, dân có ăn một, còn VC sẽ ăn trăm, ăn ngàn. Ăn một thì đủ để không chết, còn giàu trăm, ngàn thì đủ để nắm quyền bính, cỡi cổ người dân suốt đời. Cuối cùng chú tiểu vẫn quét lá đa, người nghèo vẫn hoàn nghèo.

VC và tay sai sẽ bai bải chối! Chúng sẽ hỏi bằng chứng đâu?

Thưa, bằng chứng hiển hiện như ban ngày. Sau 35 VC cầm quyền, bình quân thu nhập của người dân VN xếp ở hàng mắc cá của thế giới, trong khi gian đảng VC thì giàu nức tường đổ vách. Chẳng có luận điệu đổ thừa đế quốc Mỹ, đổ thừa vết thương chiến tranh nào có thể che lấp được sự xảo trá, tham lam này của VC. Nếu bạo quyền không vơ vét thì tại sao khoảng cách giàu nghèo mỗi ngày một lớn.

Kính thưa đồng bào,

Vậy thì dưới ách bạo quyền, ông cha ta ta, tiền nhân anh hùng VN đã đối phó bằng cách nào?

Lê Lợi không làm từ thiện, Nguyễn Huệ không canh tác, Trần Hưng Đạo không buôn bán với nhà Nguyên, Nguyễn Thái Học không mở công ty! Trong lịch sử dân tộc, không có vị anh hùng dân tộc nào lo cho dân, giúp nước bằng cách hợp tác với bạo quyền cả! Dưới ách bạo quyền, chỉ có một con đường cứu dân, giúp nước là lật đổ chúng.

Luận như vậy thì VC sẽ cãi những anh hùng dân tộc ấy chống ngoại xâm.

Kính thưa quý vị,

Cuộc chiến Nam Bắc Mỹ để giải phóng nô lệ không có ngoại bang nào cả. Không thể giải phóng nô lệ bằng những cuộc buôn bán với bạo quyền, cũng chẳng thể làm từ thiện, mà chỉ có một con đường duy nhất: lật đổ bạo quyền.

Hợp tác với VC chỉ là giúp cho chúng củng cố vị trí độc tài. Hợp tác với VC là dẫm trên máu của những chiến sĩ đang đấu tranh cho VN tự do, dân chủ. Hợp tác với VC, củng cố thế lực của đám độc tài CSVN là phản dân, hại nước.

Nhưng tại sao có người còn gia nhập Hội "Gia Nhân" của VC? Có phải họ không biết hợp tác với VC là kéo dài sự lầm than của dân tộc? Câu trả lời cũng rõ như ban ngày. Chỉ vì hai chữ TƯ LỢI. Vì tư lợi họ tình nguyện làm "Gia Nhân" để theo đóm ăn tàn. Họ xung phong liếm gót quân gian để hưởng cặn bả mà chúng cho rơi rớt.

Kính thưa quý đồng hương,

Chúng ta đều mong muốn an cư lạc nghiệp. Không có bao nhiêu người không mơ ước cuộc sống sung túc, dư dả. Không ai trách người muốn làm giàu nhưng hôm nay chúng ta đã ở nước ngoài, đặc biệt là các thương gia đã có vốn liếng, có thừa miếng ăn, cái mặc.

Song hạnh phúc của con người không chỉ xây trên ăn mặc, nhà cửa, vật chất. Hạnh phúc của con người không chỉ xây trên đô la, mà còn xây trên niềm tự hào, sự được tôn trọng. Đã có ăn, có mặc, sao còn gục mặt làm gia nhân? Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc! Có ai cảm thấy hạnh phúc khi bị người khinh bỉ chăng? Hạnh phúc thế nào được khi bị đời phỉ nhổ vào mặt?

Kính thưa quý vị,

Đến đây có lẽ con người nào còn chút lương tri, còn chút lòng tự trọng, không ai vì đồng tiền mà bán linh hồn cho VC. Nhưng trong bãi cát trắng lúc nào cũng có vài hạt đen.

Lịch sử VN có Trần Bình Trọng, có Nguyễn Trãi, có Trần Hưng Đạo thì cũng có Lê Chiêu Thống. Quân đội VNCH có dũng tướng Lê văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, có trăm ngàn chiến sĩ vô danh, thì cũng sẽ có đâu đó lạc đàn những tên vô lại như Trần Bá Phúc.

Có lẽ Trần Bá Phúc, người tổ chức Hiệp Hội Gia Nhân của VC ở Melbourne, chỉ học được bốn chữ CƠM THỪA CANH CẶN nên hắn không biết chữ TỰ TRỌNG, chữ NGHĨA CẢ viết ra sao. Nhưng chính nhờ không biết hai chữ "tự trọng" mà sống lưng của hắn dẽo, chính vì không biết hai chữ "nghĩa cả" mà đầu gối của hắn mềm.

Kính thưa quý đồng hương cùng quý chiến hữu,

Với sự tiếp tay của những tên như Trần Bá Phúc, VC đã và đang đạp sang địa bàn tự do của chúng ta. Chúng ta có thể nào ngồi yên nhìn VC thôn tính phần đất tự do này? Ông cha ta, những người dựng nước và giữ nước, từng bỏ cày cầm kiếm, chẳng lẽ chúng ta, đàn con VN, lại bỏ kiếm để chỉ kéo cày? Hôm nay, cuộc chiến không còn đổ máu. Chúng ta không cần cầm kiếm, cũng không cần da ngựa bọc thây. Ngay cả anh em quân nhân, những người chỉ tập cầm súng, nay cũng đã cầm bút, cầm loa.

Chúng tôi xin kêu gọi quý đồng hương và anh em chiến hữu mỗi người bắc một cái loa, khoa một ngọn bút, bởi mỗi một tiếng nói, một dòng chữ sẽ là một viên tạc đạn chọc vào bức tường độc tài CS. Chúng ta phải đồng thanh lên tiếng, để cho những kẻ phản trắc như Trần Bá Phúc hiểu rằng tiền tài có thể làm cho đầu gối chúng gập xuống, nhưng chẳng thể làm cho đầu chúng ngẩng lên.

Con cháu của chúng ta đã, đang và sẽ là những người thành đạt ở xứ người, có ăn ngon, có mặc đẹp. Gia tài mà chúng cần nhất không phải là những đồng đô la trên nước mắt của đồng bào, mà là nụ cười ngạo nghễ làm người dân Nam.
    Thà làm quỷ nước Nam,
    Ai làm gia nhân VC
Trân trọng

Huỳnh Bá Phụng
Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH UC/ Qld

Tuesday, September 7, 2010

Giáo hội Công giáo Việt Nam: Những kiểu “bịt miệng” và sự thật “thực”

Nữ Vương Công Lý

Sự kiện cha Nguyễn Văn Lý bị chính quyền cộng sản bịt miệng ngay tại phiên tòa xử ngài, vào năm 2007, gây bực tức, làm trò cười cho công luận quốc tế, tưởng đâu chỉ là sơ sót của một cá nhân quan chức cộng sản nào đó vì “trách nhiệm” nên phải ra tay bịt ngay “cái miệng nói sự thật” của cha Nguyễn Văn Lý.

Khốn nạn nổi tiếng nhất của nhà cầm quyền Cộng sản, có lẽ là màn cắt xén bài phát biểu của Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt tại UBNDTP Hà Nội và bịt miệng để vu cáo, thóa mạ một lãnh tụ tôn giáo.

Mới đây, tại Đại hội Nhà Văn, trò “bịt miệng” lại được các quan chức chính quyền diễn lại với Nhà văn Trần Mạnh Hảo, cũng chỉ vì nhà văn đã dám nói thật, nhưng rút kinh nghiệm lần trước, lần này, họ tinh vi hơn, thay vì bịt miệng thì họ lại ra tay “bịt ngay cái micrô” phương tiện truyền tải sự thật.

Những kiểu bịt miệng trong Giáo hội

Tưởng đâu chuyện bịt tai, bịt miệng chỉ có ngoài đời, nơi một xã hội cộng sản độc tài, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn gần đây, chuyện bịt miệng cũng xảy ra trong Giáo hội Công giáo Việt Nam bởi tay của một số vị lãnh đạo vẫn thường rêu rao chủ trương “đối thoại”.

Trong cuộc Tọa đàm mừng kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đức cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, tại Trung tâm Phaolô Nguyễn Văn Bình, Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã “động thủ” bằng cách gọi điện yêu cầu linh mục Chân Tín DCCT phải cắt bỏ những đoạn viết “nhạy cảm”. Cha Chân Tín sau đó đã không được đọc bài tham luận chỉ vì đã không chịu cắt bỏ theo yêu cầu. Cần biết đây là một bài tham luận công phu, do một linh mục 90 tuổi, từng là cố vấn một thời cho Đức cố Tổng Giám mục Phaolô và đích thân Ban Tổ chức đề nghị ngài viết bản tham luận trước đó.

Cao thủ trong hành động bịt tai, bịt miệng có lẽ phải kể đến Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri – giáo phận Đà Nẵng, ngài bịt mắt cả các Giám mục khác. Trong bức thư gửi tới Đức cha Chủ tịch HĐGMVN và các Giám mục trong HĐGMVN, ngày 19/7/2010, về vụ Cồn Dầu, Đức cha Châu Ngọc Tri cho biết: “Một tuần sau, khi việc làm mồ mả cho chồng, cha đã tạm ổn, chị Đoàn Thị Hồng Anh cùng cô con gái lớn là Nguyễn Thị Tường Vy, 25 tuổi, đã đến Tòa Giám mục cám ơn về cuộc viếng thăm của chúng con tại gia đình trong lúc tang chế.”

Thực tế, chị Đoàn Thị Hồng Anh và cô con gái của chị đã không tự đến Tòa Giám mục mà chính Đức cha Giuse đã mời chị lên với lời nhắn qua cha chính xứ Cồn Dầu Nguyễn Văn Lục để “giải độc” giúp ngài. Cô con gái lớn của chị Nguyễn Tường Vy lấy chồng theo chồng về một vùng quê ngoài Huế và chỉ trở lại Đà Nẵng mấy năm nay lo lam lũ làm ăn còn chưa xong, nói chi đến là “cư dân mạng” như Đức cha đã viết cho các Đức Giám mục.

Một vị Giám mục khác, người luôn chủ trương “đối thoại” và rất tự hào về đường lối đối thoại của mình là Đức cha Antôn Vũ Huy Chương – Giám mục Hưng Hóa, thì lại có cách “bịt miệng” khác cũng không kém phần đáng nể:

Phục sinh năm 2010, chính quyền Sơn La khi đó đã ra một văn bản gửi tới các địa phương có đông người công giáo trong tỉnh, chỉ đạo cấp dưới những việc cần làm để ngăn cản giáo dân mừng lễ Phục sinh. Sau khi, Nữ Vương Công Lý đưa văn bản lên công luận, Đức cha Antôn Vũ Huy Chương đã gọi điện, mời các vị đại diện cộng đoàn đến để điều tra giúp công an xem ai là người đã cung cấp văn bản đó cho Nữ Vương Công Lý và yêu cầu từ nay không được cung cấp bất cứ thứ gì để đưa lên mạng nữa, khiến các giáo dân Sơn La một phen khiếp vía.

Một kiểu bịt miệng khác cũng rất lộng lẫy được một số vị Giám mục chủ trương “đối thoại” thực hiện, như gọi điện nhờ Bề trên các Nhà dòng yêu cầu các bề dưới không được nói hay viết điều gì mà các ngài cho là bất lợi cho HĐGMVN. Nạn nhân của trò bịt miệng này phải kể tới cha Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, Ofm. Nhiều lần cha Bề trên Dòng Phanxicô đã phải giải thích cho các cán bộ đạo đời rằng linh mục Tỉnh không hề phạm bất cứ điều luật nào trong luật Dòng.

Bản danh sách các đại diện dòng tu tham dự Đại Hội Dân Chúa, nhưng lại không có đại diện Dòng Chúa Cứu Thế một Dòng đã hy sinh và đóng góp nhiều cho GHVN trong suốt chiều dài lịch sử hiện diện ở đây. Phải chăng cũng là một kiểu “bịt miệng” nữa?

Trong cuộc họp của Ủy ban hỗn hợp Vatican và Việt Nam lần thứ 2 vừa qua tại Rôma, phía Việt Nam đã đề nghị Tòa thánh 4 điểm, trong đó có yêu cầu “trục xuất Dòng Chúa Cứu thế ra khỏi Việt Nam hoặc ít nhất ra khỏi Hà Nội, như Dòng Tên Chúa Giêsu hồi xưa”. Không biết có phải vì vậy mà để cho “tốt đời đẹp đạo” mà DCCT không được tham dự Đại hội Dân Chúa 2010 hay chăng?

Bịt miệng để làm gì?

Ngoài đời, cha Nguyễn Văn Lý, nhà văn Trần Mạnh Hảo bị chính quyền bịt miệng không ngoài mục đích ngăn không cho nói sự thật về một xã hội thối nát, đạo đức xuống cấp, tham nhũng lan tràn, dân oan ca thán. Mặc dù chính quan chức chóp bu cộng sản thừa biết rằng bịt miệng là một hành động vô luân và đáng xấu hổ với thế giới văn minh nên Nguyễn Minh Triết đã phải công nhận trước báo giới quốc tế “Bịt miệng là không nên, nhưng do cán bộ thừa hành sai”(?)

Trong đạo, xem qua những kiểu bịt miệng mới xảy ra, thì vấn đề vẫn là ngăn không cho nói sự thật “thực” về hiện trạng Giáo Hội Việt Nam, vẫn là kiểu không nên “vạch áo cho người xem lưng ghẻ” của Giáo hội mà nguyên nhân chính tạo nên các mụn ghẻ lại là những người chủ trương “bịt miệng” này.

Cũng có một kiểu bịt miệng khác, tinh vi hơn, kín đáo hơn, đó là dùng chính nạn nhân để che lấp các hành động xấu xa của mình đã được thực hiện. Thật nhẫn tâm và bất nhân khi dùng chính Đức Tổng GMHN Giuse Ngô Quang Kiệt trong bài gọi là “Trả lời phỏng vấn” của Website HĐGMVN do Đức giám mục phụ tá Sài Gòn Nguyễn Văn Khảm phụ trách với nhóm cộng sự thuộc tờ “Công giáo và Dân tộc” của cái gọi là “Ủy ban Đoàn Kết Công giáo” như Nguyễn Nghị – “Cựu” linh mục Dòng CCT – và Khổng Thành Ngọc dựng lên để che đậy những nguyên nhân sâu xa của sự hợp tác, thỏa hiệp với bạo quyền cộng sản nhằm “tống cổ” Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt ra khỏi chức vụ Tổng Giám mục Hà Nội, thậm chí đẩy ngài đi trong đêm 12/5.

Vấn đề khó hiểu là chính những vị lãnh đạo Giáo hội đang rêu rao và cổ võ cái chủ trương “Đối thoại” lại là người tích cực nhất trong việc “bịt miệng” các tiếng nói phản biện bằng cách cắt cúp hoặc kết án là “ma quỷ”, “phá Giáo hội” “vạch áo cho người xem lưng” này nọ?

Câu hỏi đặt ra là: “Đối thoại thế nào và đối thoại với ai khi không thể đối thoại với con cái trong nhà? Phải chăng để đối thoại với chính quyền thì nhất định phải bịt miệng con cái Giáo hội?

Vậy, thực chất đằng sau chuyện giơ tay bịt miệng con cái là để làm gì?”

Chưa lâu, ngay khi được tin Tòa Thánh bổ nhiệm lên chức Giám mục GP Vinh, Đức GM Nguyễn Thái Hợp đã công bố “Phải chăng trước khi đối thoại với Nhà nước hay để có thể đối thoại hữu hiệu với bên ngoài cần “đối thoại thẳng thắn và công tác chân thành” với Cộng đồng Dân Chúa?”. Điều này đã làm dân Chúa hy vọng có một ĐGM thẳng thắn chân thành đối thoại ngay với cộng đồng dân Chúa. Thế nhưng, cũng chính ĐGM Nguyễn Thái Hợp – Chủ nhiệm CLB Nguyễn Văn Bình đã yêu cầu cắt xén bài phát biểu của Linh mục Chân Tín trong cuộc gọi là “tọa đàm” nhân 100 năm ngày sinh cố TGM Nguyễn Văn Bình. Và khi tác giả không nhất trí với trò cắt cúp, kiểm duyệt kiểu Cộng sản đó, thì linh mục Chân Tín đã không được phát biểu.

Điều này làm nhiều người ngỡ ngàng tự hỏi “Liệu lời nói và việc làm của vị mục tử mới này có khoảng cách bao xa”?

Từ nhiều năm nay, trong HĐGMVN, nhiều vị Giám mục vì lý do này nọ, đã liên kết cổ võ cho lập trường thỏa hiệp, với những mục tiêu cụ thể.

Mục tiêu đó là, đến năm 2015, thay vì xây dựng một mô hình Giáo Hội Yêu Nước kiểu Trung Quốc – bởi các vị này thừa biết xu thế thời đại và giáo dân Việt Nam không cho phép làm như vậy - do đó, các vị chủ trương sẽ chú tâm xây dựng một mô hình Giáo hội mới, với một tên gọi mới: “Giáo Hội Trung Thành”, với ba tiêu chí: “Trung thành với Dân tộc, Trung thành với Giáo Hoàng và Trung thành với Sứ mạng Xã hội hóa.”

Điều này giải thích tại sao khi vụ việc tại Tòa Khâm sứ – giáo xứ Thái Hà nổ ra, một số vị Giám mục đã chỉ trích Đức cha Ngô Quang Kiệt rằng “như thế là làm hỏng công việc của Giáo Hội”, đến độ, ngay cả một vị linh mục thân tín nhất được Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt tin tưởng đưa ra Hà Nội từ Miền Nam, giao cho các trọng trách quan trọng trong Tổng Giáo phận, khi có dịp gặp lại các nhóm giáo dân Miền Nam một thời gắn bó đã chia sẻ: “Đức cha Kiệt đã làm hỏng hết công việc đại sự của Giáo hội. Chúng tôi bây giờ đang phải chắp vá lại”, khiến một số giáo dân bức xúc bỏ về.

Không chỉ liên kết với nhau, cổ võ và phụng sự một “Giáo Hội Trung Thành” ngang qua các hành động, việc làm như đã thấy trong Giáo hội thời gian qua, nhóm chủ trương “đối thoại” còn nhiều lần qua giải độc và tìm kiếm sự hậu thuẫn tại Rôma. Với chủ trương, xây dựng một Giáo Hội “Trung thành với Dân tộc, Trung thành với Giáo Hoàng, Trung thành với Sứ mạng Xã hội hóa”, bằng cách vẽ ra những viễn tượng tốt đẹp, thì đến “Bộ rất Thánh” còn thích nữa là Đức thánh Cha.

Chính vì thế mà chúng ta hiểu tại sao, trong dịp Ad Limina 2010 vừa qua, cũng như trong các cuộc tiếp xúc gần đây với các giới chức trong đạo, Đức Giáo hoàng Benedicth 16, qua các vị Giám mục Việt Nam, luôn truyền đạt lại cho các giáo dân Việt Nam giáo huấn: “Phải trở nên người công dân tốt”.

Có thể nói rằng, giáo huấn “trở nên công dân tốt” của Giáo hoàng Benedicth 16 chính là kết quả của những chuyến giải độc, tìm kiếm sự hậu thuẫn của các Giám mục theo chủ trương thỏa hiệp trong các lần đi Rôma.

Chủ trương xây dựng một “Giáo hội Trung thành” quả là một phát kiến vĩ đại trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam.

Tuy nhiên, cho tới giờ này, với những bước đi nhắm “chắp vá” bằng cách “im lặng trước bất công”, “hoàn thành việc đưa đức cha Kiệt ra khỏi Hà Nội”, “tổ chức hoàng tráng lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đức cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình”, “bịt miệng cha Chân Tín” và biết đâu ngay cả việc “không cho DCCT tham dự Đại Hội Dân Chúa”, khiến người ta chỉ thấy một Giáo Hội: “Trung thành với đảng cộng sản, đến độ im lặng trước những bất công, “đồng sinh đồng tử” trong các quyết định của cộng sản đang gây an nguy cho anh ninh của quốc gia, dân tộc như Bauxite, Biên giới và Hải đảo.”

Cũng vậy, một khi đã trung thành với đảng cộng sản, thì nói rằng “trung thành với Giáo hoàng” chỉ là cái bánh vẽ, phỉnh gạt cấp trên và với những kiểu “bịt miệng” như kể trên, thì ngay cả việc “trung thành với sứ mạng xã hội hóa” cũng chẳng bao giờ xảy ra, bởi làm sao có thể “xã hội hóa’ nếu như không “dân chủ hóa” trong Giáo hội.

Theo thông tin chúng tôi được biết, Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, trong các cuộc chuyện trò với những người thân tín đã than thở: “đã trót đâm lao thì phải theo lao”. Nếu sự thật “thực” là vậy, thì không biết Giáo hội Việt Nam sẽ “lao” về đâu?

07/9/2010

Nữ Vương Công Lý
Source: http://www.nuvuongcongly.net/xa-hoi/binh-luan/giao-h%E1%BB%99i-cong-giao-vi%E1%BB%87t-nam-nh%E1%BB%AFng-ki%E1%BB%83u-%E2%80%9Cb%E1%BB%8Bt-mi%E1%BB%87ng%E2%80%9D-va-s%E1%BB%B1-th%E1%BA%ADt-%E2%80%9Cth%E1%BB%B1c%E2%80%9D/



Saturday, September 4, 2010

Tội ác tày trời của Hồ Chí Minh và đảng việt gian csVN nạn đói năm 1945


Em Bé Lên Sáu Tuổi
Hoàng Cầm

Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn

Bố: cường hào nợ máu
Đã trả trước nông dân

Mẹ bỏ con lay lất
Đi tuột vào trong Nam

Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mềm
Nào biết mình sung sướng

Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót

Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua:
Bố mẹ nó không còn
Bỗng thương tình côi cút

Cụ nhường cho miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe

Đứng nhìn đời bỡ ngỡ:
- “Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm, thầy ơi!”

Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài

Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chỉ mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ

Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa

Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
- "Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy“

Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đứa bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người

Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ

Chị nghĩ: “Sau lấy chồng
Sinh con bồng bụ sữa”

Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo

Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ
Đã lâu nằm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con người máy
Đầy gân thiếu trái tim

Nào “liên quan phản động”
“Mất cảnh giác lập trường”
Mấy đêm khóc ròng rã

Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn hỏi câu hỏi:

“Sao thương con kẻ thù?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu!”


Hoàng Cầm



Nguyễn Tấn Dũng đáng tởm

    MITTON: Odious Dung
    Hanoi leader crushes dissent and the economy
Thursday, September 2, 2010

By Roger Mitton - The Washington Times

HO CHI MINH CITY

Let's take the really bad news first. Not only did it stink, but the Obama administration, which should lambast this kind of thing, held its nose and instead ramped up its ongoing courtship of Hanoi as a hedge against China.

Last week, at the 65th anniversary of Vietnam's public security forces, Prime Minister Nguyen Tan Dung urged the police to continue to crush relentlessly any fledgling political bodies that might threaten the dominance of the ruling communist regime.

He told the massed ranks of the state security services to fight the "cunning plots of hostile forces and to prevent political opposition parties setting up to threaten our government."

Vietnam's constitution forbids the creation of any political party except the Communist Party of Vietnam. Keep that in mind when you castigate nearby Burma, which may oppress opposition parties horribly but at least allows them to exist.

Days before Mr. Dung's odious exhortation, its effects were demonstrated starkly once again when the police arrested professor Pham Minh Hoang, a lecturer in applied mathematics at the Ho Chi Minh City Institute of Technology.

Mr. Hoang was charged with belonging to an opposition group, and during his arrest, the police read out Article 79 of Vietnam's penal code, which bars "activities aimed at overthrowing the government."

Under this provision, the authorities have detained dozens of pro-democracy activists, teachers, lawyers and independent bloggers and sentenced them to many years in jail.

Last month, the noted lawyer Le Cong Dinh lost his appeal against a five-year sentence for "trying to overthrow the state" and went back to his cell along with his fellow pro-democracy advocates - one of whom was sentenced to 16 years.

These men also were convicted of espousing "peaceful evolution" - the notion that as a country develops economically, there will be a concurrent societal evolution that will permit greater political openness.

This idea, often touted by quislinglike Western governments as they lean over backward to excuse certain "strategically valuable" regimes such as Vietnam, Saudi Arabia and Ethiopia, has proved fallacious more often than not.

That certainly has been the case in Vietnam, where economic development has, if anything, been accompanied by more and more draconian moves against any form of political pluralism.

A Canadian diplomat in Hanoi told me that the country was going backward and its brutal crackdown on citizens espousing peaceful evolution made him "despair."

One of his American diplomatic colleagues informed me that public security officials claimed quite aggressively that political dissidents were criminals. "That is stupid and offensive," he said.

Yet there was a stunningly muted response from Foggy Bottom and the White House and even from Congress.

Indeed, last month, on the 15th anniversary of the normalization of ties between Washington and Hanoi, the Senate Foreign Relations chairman and great liberal Democrat Sen. John Kerry, said, "Vietnam's domestic politics are gradually changing, becoming more open and transparent."

Of course they are. That's why the Vietnamese arrested Mr. Hoang and Mr. Dinh and all the rest. That's why they ban all other political parties.

That's why they rigorously censor the Internet.

That's why, every Tuesday, the nation's editors-in-chief troop over to the Information Ministry to be told what they can and can't write.

Sure, Mr. Kerry, things are getting more open and transparent in Vietnam. And pigs are flying higher, too, you know.

Memo to Hanoi: There is nothing wrong with people getting involved in politics. As President Kennedy said: "Political action is the highest responsibility of a citizen."

And now the bad news:

Vietnam has a collapsing currency. On Aug. 17, the same day when Mr. Hoang was arrested, Mr. Dung's government devalued the dong for the third time since November.

After the official 2.1 percent devaluation, the dong plummeted further and was not helped when a government adviser let slip that Vietnam risked a foreign-currency liquidity "shock."

Its currency has now slumped 5.2 percent this year - the worst performance of 17 monitored Asian currencies.

Vietnam also has racked up a catastrophic trade deficit this year that has nearly doubled to $7.4 billion in the seven months to July.

It also has the world's worst-performing stock market. The benchmark VN Index has dropped 8.4 percent this month - the most of 93 markets tracked by Bloomberg globally.

Mr. Dung's communist regime is not only throwing innocent pro-democracy advocates into jail, but it has proved utterly inept at running an economy.

Second memo to the dinosaurs: Consider why, despite social unrest, Thailand's economy is booming.

The reason lies in last week's comment by Industry Minister Chaiwuti Bannawat, who said, "The government has a role to play in supporting the private sector, but not leading it. I don't believe the government is more capable than the private sector."

That last sentence should be blown up and hung over the desk of every Vietnamese official involved in leading its still largely state-run economy into bankruptcy.

And the sleeping apologists down at Foggy Bottom, along with the misguided strategists at the Pentagon who are coddling Hanoi in order to curb the rise of China, would be strongly advised to take a long, cold look at what's going wrong in Vietnam.

Roger Mitton is a former senior correspondent with Asiaweek and a former bureau chief in Washington and Hanoi for the Straits Times of Singapore.



Friday, September 3, 2010

Dòng Chính - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Lúc này, từ ngữ “Dòng Chính” được sử dụng khá phổ biến trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Nhan nhản trên báo chí, trên radio, trên talkshow, trên internet, người ta không ngớt nói đến báo chí dòng chính, chính trị dòng chính. Thiển nghĩ, trong tương lai, biết đâu sẽ có thêm: Tôn giáo dòng chính, Thương mại dòng chính, Kỹ nghệ dòng chính, Dịch vụ dòng chính nữa v.v. Những chữ mới ước đoán chưa đi vào sử dụng, chúng tôi chưa dám bàn tới, chỉ xin tản mạn đôi điều về hai từ ngữ đang được nói hoặc viết nhiều là các chữ truyền thông dòng chính, và chính trị dòng chính thôi.

Truyền Thông Dòng Chính

Nhóm chữ “truyền thông dòng chính” là một chuyển ngữ từ Mainstream Media của tiếng Mỹ. Chắc chắn thế rồi. Đã “chính”, thì tất nhiên phải có “tà”. Chính/tà là hai phạm trù đối nghịch. Đã có truyền thông dòng chính thì ắt phải có truyền thông dòng tà, nhưng không nghe ai nói đến truyền thông dòng tà. Cũng vậy, có chính thì không thể không có phụ. Chính/phụ là hai giá trị đẳng cấp. Có truyền thông dòng chính, nhưng không thấy có truyền thông dòng phụ ở nước Mỹ này. Ít nữa bên VN hiện nay, người ta còn phân biệt ra báo chí lề phải của bọn thống trị, với báo chí lề trái tức báo chui của người dân bị trị. Hoặc, thông tin trong luồng do các ống loa chính thức phát ra, với thông tin ngoài luồng của dân chúng ngoài đường, ngoài chợ. Chung nhất, có cái chính thì ít ra cũng phải có cái gọi là “không chính” nào đó. Như thế mới phải. Nhưng đáng tiếc, chúng ta đã không có truyền thông nào là truyền thông ngoài dòng chính cả. Như thế có phải truyền thông dòng chính một mình một chợ trong cái chế độ dân chủ đa nguyên của nước Mỹ mà chúng ta đang sống không? Tò mò một chút, đi tìm câu giải đáp cho cái thắc mắc này có lẽ cũng không phải là chuyện vô ích.

Trong Thế Chiến I, qua những thỏa thuận bí mật và xảo quyệt, sau khi nước Mỹ cam kết tham gia vào cuộc chiến, các chiến lược gia chính trị nhận ra rằng mọi sự đã sẵn sàng, nhưng còn có một cái gì đó chưa ổn, đó là vấn đề lòng dân. Làm sao chinh phục được cảm tình của quần chúng là vấn đề cần phải đặt ra. Lúc đó Wall Street kiểm soát nhiều bộ phận quan trọng đáng kể của ngành truyền thông. Gia đình Morgan, một thế lực nổi tiếng về ngành ngân hàng, phát triển tới mức thành một đế quốc tài chánh và kỹ nghệ, đã lựa chọn những nhà quản lý hàng đầu để điều khiển nhà phát hành Harper & Brothers lúc đó đang gặp khó khăn. Riêng trong lãnh vực báo chí, Pierpont Morgan đã kiểm soát các tờ The New York Sun, The Boston, News Bureau, Barron’s magazine, và The Wall Street Journal. Tháng 3 năm 1915, khả năng của nhà Morgan, của các ngành sắt thép, đóng tầu và vũ khí, cũng như những cơ sở phụ thuộc của họ đã tập hợp được 12 nhà báo thượng thặng trên thế giới. Những nhà báo này được mướn để làm công việc là lựa ra một số tờ báo có ảnh hưởng nhất tại Hoa Kỳ và đủ hữu hiệu để kiểm soát chính sách chung hàng ngày của báo chí. Họ thấy rằng cần phải mua chuộc sự kiểm soát của 25 tờ báo và các hãng tin lớn như NewYork Times, Washington Post, NBC, CBS v.v. Sự thỏa thuận đạt được tức là đường lối của tờ báo đã bị mua đứt. Mỗi tờ báo được đặt một chủ bút để giám sát cặn kẽ mọi thông tin liên hệ tới các vấn đề thời sự, quân sự, các chính sách về tài chánh, và tất cả các vấn đề quốc gia cũng như quốc tế được coi là sống còn đối với lợi ích của những người đã bỏ tiền mua các tờ báo đó. Đến năm 1937, tập đoàn Morgan đã kiểm soát được dịch vụ quảng cáo hơn bất cứ một nhóm tài chánh đơn độc nào. Đấy là bước khởi đầu báo chí Mỹ sắp hàng đi vào hệ thống, có lãnh đạo, và được chỉ đạo cho mục đích làm ăn của các “đại gia”.

Qua thời gian và qua những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, truyền thông trở thành một sức mạnh có thể nói là vô địch. Kết quả thần sầu quỉ khốc của chiến dịch phản chiến của hệ thống truyền thông Mỹ trong cuộc chiến VN là một thí dụ điển hình nhất. Thời Đệ I VNCH, trong biến cố HT Thích Quảng Đức “tự thiêu”, chỉ có hai nhà báo thuộc truyền thông dòng chính Mỹ được mời đến chụp hình và làm phóng sự là David Halberstam của New York Times và Malcolm Brownes của AP. Hai nhà báo này sau đó được lãnh giải thưởng Pulitzer vì công lao thổi lửa thiêu rụi được cả chế độ Đệ I VNCH, đưa miền Nam dần đến chỗ mất nước hoàn toàn. Hệ thống này bao gồm không những báo viết, radio, mà lợi hại nhất là truyền hình và internet. Chính vì thế các tập đoàn tư bản, các chính quyền, dù là dân chủ hay độc tài, đều muốn nắm truyền thông trong tay. Hệ thống truyền thông đề cập đến trên đây hiện nay được xây dựng thành một đội ngũ, mà những cơ quan truyền thông khác của Mỹ nằm ngoài nó gọi nó là Truyền thông dòng chính, tức Mainstream Media. Cũng có khi người Mỹ gọi là truyền thông cấp tiến (Liberal Media). Và đôi khi nữa là truyền thông tả phái (Leftist Media). Mainstream Media do đó mà có. Như vậy là người Mỹ muốn gọi Mainstream Media là nhóm truyền thông khuynh tả hoặc cấp tiến để phân biệt với những cơ sở truyền thông khác theo đường lối bảo thủ (conservative) hay độc lập. Người Việt tỵ nạn thường quen gọi là báo chí khuynh tả hay truyền thông phản chiến. Mainstream Media là sở hữu của các tập đoàn tư bản. Nhiệm vụ của nó là phục vụ cho các mục tiêu của tư bản.

Truyền thông dòng chính hiện nay do Hội Đồng Liên Lạc Ngoại Giao (The Council On Foreign Relations viết tắt là CFR) nắm giữ. CFR do Edward Mandell House, một tay Marxist, cố vấn trưởng của TT Woodrow Wilson (1913-1921) sáng lập năm 1921 và được nhà Rockefeller tài trợ. CFR là một hội vô vị lợi (non profit), vô đảng phải (non partisan). Kết luận của phái đoàn điều tra Reece của Quốc Hội năm 1953 cho thấy CFR công khai truyền bá khái niệm toàn cầu hóa thế giới với mục tiêu thiết lập một Trật Tự Thế Giới Mới (New World Order). Ảnh hưởng của CFR tập trung vào các Bộ Ngoại Giao, Quốc Phòng, và Tài Chánh Mỹ. Hội viên của CFR có mặt và giữ nhiều trọng trách tại các bộ vừa kể và hầu như tại tất cả các cơ quan quyền lực khác của chính quyền Hoa Kỳ. Tháng 10-1993 Richard Harwood của tờ Washington Post tiết lộ một chút về phận sự của các nhà báo của CFR. Ông nói: Tư cách thành viên của CFR là việc thừa nhận mình được bước lên giai cấp cai trị, qua đó, họ không thuần chỉ phân tách và cắt nghĩa chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, mà còn giúp thiết lập ra chính sách nữa (Their membership is an acknowledgment of their ascension into the American ruling class where they do not merely analyze and interpret foreign policy for the United States, they help make it). Các tạp chí lớn có liên hệ với CFR là các tờ Life, Money, People, Fotune, Time, US News and World Report, Newsweek và một số khác nữa. Những nhà phát hành nổi tiếng đại diện cho CFR như IBM Publishing and Printing, Xerox, Viking Press, Harper and Row, Random House, và Harper Brothers. Song song với các hệ thống chính, báo và tạp chí, cơ sở Rockfeller còn có mặt ở trong ngành xuất bản sách. Tính ra có chừng 50 gia đình kiểm soát toàn bộ báo chí Mỹ. Qua CFR, Bộ Ngoại Giao, Ngũ Giác Đài, và Tòa Bạch Ốc đòi nắm quyền điều hành mọi tin tức. Do đó, người dân chỉ được nghe những gì mà người ta muốn cho nghe. Sự thể này chính đáng dẫn đến sự dị nghị về các giá trị của tính vô tư và trung thực của truyền thông dòng chính Mỹ.

Chính Trị Dòng Chính

Tiếng Mỹ chữ “Chính Trị Dòng Chính” có lẽ là Mainstream Politics? Trong phạm vi hiểu biết hạn hẹp của mình, người viết thú thực chưa gặp thấy chữ này trên sách báo Mỹ, mà chỉ thấy một số các nhà hoạt động chính trị và cộng đồng người Việt sử dụng. Nếu có thì hẳn là người Mỹ sử dụng với một ý nghĩa nào đó riêng của họ. Những người VN này hình như muốn ngụ ý rằng Chính Trị Dòng Chính tức là tham gia chính quyền các cấp thông qua các cuộc bầu cử. Như vậy, người ta có thể nêu thắc mắc rằng: vậy thì những người Mỹ hoạt động chính trị ngoài hệ thống công quyền và không do dân bầu, phải nên gọi họ là chính trị dòng gì? Nhiều người hoạt động chính trị rất thành công ngoài hệ thống công quyền như Mục Sư Luther Martin King Jr., các thành viên của CFR v.v., phải gọi họ là gì? Như trên vừa nói, CFR là một tổ chức phi chính phủ hoạch định ra các chính sách cho chính quyền Mỹ. Họ chỉ là một hội tư nhân, không đảng phái. Đàng khác từ trước tới nay, hai chính đảng Cộng Hòa và Dân Chủ thay nhau cầm quyền, nhưng đường lối chính sách của Mỹ tại VN vẫn liên tục chứ có thay đổi gì đâu. Điều đó cho thấy cái mà nhiều người VN gọi là chính trị dòng chính là một sản phẩm hoàn toàn tưởng tượng. Dù Cộng Hoà hay Dân Chủ, chỉ có một dòng là dòng nắm quyền thi hành mục tiêu toàn cầu hóa của tư bản Mỹ.

Bằng vào thực tại CFR, và như mọi người đều tin tưởng: nước Mỹ được cai trị bởi một chính phủ vô hình. Chính phủ vô hình nói trắng ra là CFR mới là những người lãnh đạo thật sư đang “Run” nước Mỹ tại hậu trường. Chính quyền Hoa Kỳ tại Washington chỉ là những nhà điều hành công việc của nước Mỹ. Hai hệ quả phát sinh từ thực tế chính trị này là: thứ nhất, nền dân chủ Mỹ trở thành một nền dân chủ có định hướng. Và thứ hai, chính quyền Mỹ là một cơ chế được điều hành bằng remote control. Nền dân chủ Mỹ được cả thế giới ngưỡng mộ, và coi là mô hình đáng bắt chước nó là như thế. Đường lối chính trị đặc thù này, ngoài việc phục vụ quyền lợi quốc gia, còn nhắm tới cái chủ đích của những người làm ra chính sách là thiết lập một trật tự thế giới mới (New World Order), hoặc còn gọi là nền Cộng Hòa Toàn Cầu (Universal Republic). Tất cả chính sách đối ngoại do CFR hoạch định đều nằm trong mục tiêu toàn cầu hóa (globalization) của Mỹ. Như thế thì những người cho rằng gia nhập cái gọi là chính trị dòng chính Hoa Kỳ để mưu đồ giải trừ chế độ CS trong nước, nghĩa là làm thay đổi chính sách của Mỹ về VN, là một chủ trương hoàn toàn phiêu lưu và không tưởng. Phiêu lưu bởi vì nó chẳng đi đến đâu cả. Và không tưởng ở chỗ là đã tỵ nạn CS trên đất Mỹ, sống với người Mỹ, mà cứ còn mơ tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ giúp mình tiêu diệt CS để khôi phục lại đất nước. Nhiều nhà lãnh đạo Mỹ và thế giới như Truman, Eisenhower, Nixon, cha con Bush, Churchill, Gorbachev … chủ trương việc toàn cầu hóa. TT Bush con trong bài Diễn Văn Tình Trạng Liên Bang năm 1991, cổ võ cho cái trật tự này như sau: …. để hoàn thành khát vọng của toàn nhân loại, dựa trên sự chia sẻ các nguyên tắc và luật lệ, nó là ánh sáng của hàng ngàn đốm sáng, là những luồng gió thay đối đến với chúng ta.

Xây dựng một trật tự thế giới thật ra không phải là một khái niệm mới mẻ gì. Khoảng năm thế kỷ trước Công Nguyên, ở bên Tầu, Khổng Tử đã rao giảng một trật tự xã hội phong kiến dựa trên 3 trụ cột “Quân, Sư, Phụ”. Người đàn bà trong xã hội phong kiến không có tư cách độc lập, mà chỉ là một nhân tố phụ thuộc: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, và phu tử tòng tử. It lâu sau tại Âu Châu, triết gia và nhà toán học Hy Lạp Plato cổ võ một mô hình quản lý xã hội khác. Ông hô hào dẹp bỏ chính phủ và các cấu trúc xã hội đang có, để thiết lập một trật tự mới, trong đó có 3 giai cấp: giai cấp cầm quyền, giai cấp quân nhân để bảo vệ giai cấp nắm quyền, và giai cấp lao động. Bãi bỏ hôn nhân, gia đình và tư hữu. Tất cả đàn bà là của chung đàn ông và ngược lại. Trẻ con sinh ra được xã hội nuôi. Khái niệm cộng sản bắt nguồn từ tư tưởng của Plato. Tầng lớp chóp bu nắm quyền quản lý xã hội, Plato gọi là triết gia (philosopher). Tại Mỹ ngày nay, philosopher là các elite của các hội kín như CFR, Trilateral Commision, Skull & Bones v.v. Trật tư xã hội của Plato được các elite cải biên và đang từ từ hình thành. Vì thế về nhiều mặt, tư bản và cộng sản có những điểm giống nhau, vì đều bắt nguồn từ tư tưởng của Plato, nhưng tư bản ở tầng trên cao hơn cộng sản.

Trật tự thế giới mới được thiết lập bằng con đường Toàn Cầu Hóa. Thế giới mới được điều hành bởi một nhà nước. Hội Quốc Liên rồi Liên Hiệp Quốc ngày nay là những bước hình thành của cái cơ chế nhà nước toàn cầu. Cơ chế toàn cầu này nắm tất cả quyền lực chính trị, tiền tệ, tinh thần và các giáo hội. Việc lưu động hóa các nhà máy sản xuất có tác dụng làm phát triển đồng đều tất cả mọi khu vực trên thế giới. Phong trào tự do luyến ái và tự do phá thai sẽ chận dứng sự bùng nổ dân số, quân bình và ổn định nền kinh tế trên toàn cầu. Điểm đáng nhấn mạnh là Nền trật tự thế giới mới sẽ đưa đến một tôn giáo toàn cầu, đó là đạo thờ Thần Tài (Mammonism, đúng ra là thờ Satan). Các chiến dịch chống phá, bài bác tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo, tục hóa các nếp sống và văn hóa mang tính cách tôn giáo v.v. đều nhắm đến mục đích tối hậu này. Đại cương cho thấy những điểm gần như tương đồng giữa tư bản và cộng sản: xóa mờ các ranh giới quốc gia để tiến tới một thế giới “đại đồng”, biến con người thành công cụ sản xuất, phá bỏ mọi tôn giáo, cách riêng Thiên Chúa Giáo. Để tiến tới một thế giới như thế, CS áp dụng đường lối cưỡng bách, trong khi tư bản sử dụng các biện pháp kinh tế, nhẹ nhàng nhưng hiệu quả hơn nhiều. Tư bản ở bậc cao hơn CS là như thế.

Đường lối chính trị tại Mỹ có thể tóm gọn trong một câu ngắn, rất thông dụng: Có tiền mua tiên cũng được, hay, đồng tiền làm nên tất cả. Sự giầu sang luôn luôn mơ ước quyền lực, và quyền lực đẻ ra sự giầu sang. Quyền lực và tiền tài là chị em sinh đôi. Chúng là mơ ước bất tận của nhiều người. Để đạt được chúng, người ta gạt bỏ tinh thần dân tộc, lòng yêu tổ quốc, chối bỏ mọi lý tưởng, và đạp tên mọi lâp trường chính trị. Vì thế không lạ gì khi thấy nước Mỹ đã đẻ ra kẻ thù, nuôi dưỡng nó, rồi diệt nó. Tất cả chỉ để thu lợi. Sự thể xẩy ra đã quá nhiều. Mỹ đã giúp đỡ tiền bạc cho cuộc Cách Mạng Vô Sản Nga thành công. Mỹ đã giúp cho Sadam Hussein nắm quyền tại Irak. Mỹ đã giúp kỹ thuật nguyên tử và hỗ trợ kinh tế cho Trung Cộng trở thành một cường quốc như ngày nay. Và chính quyền Obama đang ngấm ngầm nâng đỡ khủng bố tại Hoa Kỳ. Tất cả những chính sách ngoài binh thơ đó đều được báo chí dòng chính ủng hộ triệt để.

Chính sách của Mỹ tại VN cũng nằm ngoài binh thư, sách vở như đã thấy. Trong khi chiến tranh nghiêng về phía có lợi là VNCH, thì truyền thông dòng chính Mỹ thổi phong trào phản chiến bùng lên để giúp quân đội Mỹ rút lui. Nước Mỹ chẳng cảm thấy hổ thẹn là một cường quốc số một phải thua trận. Đợi hơn ba thập niên sau cho đến khi VGCS cùng đường, rơi vào ngõ bí không lối thoát, Mỹ mới chứng minh việc tự ý thua trận của mình là có lý. Đây rõ ràng là mưu đồ của nước Mỹ mà những chính khách tỵ nạn không nhìn ra. Đã có đồng minh VNCH để ngăn Trung Cộng thì lý do gì Mỹ lại triệt bỏ VNCH? Tại sao Mỹ cố tình dung túng VGCS đến ngày nay để dùng nó làm lực lượng án ngữ Tầu cộng? Có ba lý do để giải thích:

- Thứ nhất, VN là một vị trí chiến lược tối quan trọng tại Á Châu, lại giầu tài nguyên trong mắt bất cứ một cường quốc nào. Do đó Mỹ không thể bỏ mặc.

- Thứ hai, bản chất của đảng VGCS là bán nước nên chúng sãn sàng làm đầy tớ cho bất cứ kẻ nào miễn là được sống còn. VGCS hiện ở vào cái thế nếu muốn sống bắt buộc phải làm tay sai, không tay sai cho Mỹ thì tay sai cho Tầu. Người Quốc Gia không như thế. Chịu cúi đầu làm tay sai phục vụ cho quyền lợi của ngoại bang để được sống, người QG không thể làm được. Người Mỹ hiểu điều này.

- Thứ ba, trên bình diện lý thuyết, với chủ trương xây dựng một Trật Tự Thế Giới Mới, Mỹ không thể chấp nhận học thuyết Cần Lao Nhân Vị, vì học thuyết này chủ trương phục vụ con người trong tư cách là một nhân vị, trong khi Trật Tự Thế Giới Mới cũng giống như CS, phục vụ tập thể (class) chứ không phục vụ cá nhân. Vì thế Mỹ phải giết TT Ngô Đình Diệm và lý thuyết Cần Lao Nhân Vị của ông. Nên nhớ, William Averell harriman, phụ tá Bộ Trưởng Ngoại Giao phụ trách Á Đông Sự Vụ dưới thời TT Kennedy, là người cực kỳ nham hiểm và độc ác đã dùng mọi thủ đoạn và biện pháp lươn lẹo để giết anh em TT Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu. Ông ta là hội viên hội kín Skull & Bones và là thành viên rất có thế giá của CFR. Năm 1968 khi làm đại diện Hoa Kỳ tại Hội Đàn Paris , Harriman thực hiện mưu đồ trao miền Nam cho cộng sản bắc Việt. Văn bản kết thúc hội đàm chứng minh điều đó.

Sự thật rành rành là Hoa Kỳ chủ tâm nuôi dưỡng và sử dụng VGCS, thế mà còn có nhiều ngưòi còn mơ ngủ, tưởng dựa vào Hoa Kỳ để giải quyết chế độ CS là xong thì có điên không. Họ không thể dựa vào Hoa Kỳ để muốn làm gì thì làm. Trái lại, chắc chắn họ sẽ bị người Mỹ lợi dụng cho những mục tiêu của Mỹ. Việc có thể tiên đoán được là một ngày nào đó, họ sẽ được tham gia vào chế độ dân chủ cuội tại VN, một kiểu hòa hợp hòa giải mà Mỹ và VGCS đang ra sức tiền chế. Nhưng nhiệm vụ chính của họ là làm chó canh giữ cho quyền lợi của các tập đoàn tư bản của Hoa Kỳ tại VN. Có ông chính khách còn đem cộng đồng Do Thái ra so sánh để bênh vực cho quan điểm của mình. Họ không biết rằng vào đầu thập niên 1990 người ta ước lượng nhà Rothschild có thể kiểm soát số tài sản tương tương với một nửa của cải của cả thế giới. Rothschild là một gia đình Âu gốc Do Thái. Cho nên người Do Thái nắm đầu các chính quyền Âu Mỹ bắt phải bảo vệ Israel không lạ gì.

Một vài ông dân cử VN cấp làng xã hoặc quận huyện trên nước Mỹ tin tưởng xoay chuyển được chính sách của Mỹ về VN là chuyện hão huyền. Một đàng họ nên học bài học của tướng Vang Pao của nước Lào. Một đàng hãy có thực lực như người Do Thái và đoàn kết mưu đồ phục quốc như người Do Thái rồi hãy nói đến chuyện lợi dụng Hoa Kỳ để làm việc này việc nọ. Một mình, không thương cũng chẳng ngựa, lại không được đồng hương hậu thuẫn như Hoàng Duy Hùng mà tính chuyện về VN để xoay chuyển càn khôn có phải là tức cười không? Dân cử cấp xã ấp hay tỉnh thành chỉ có thể làm công việc ở xã ấp tỉnh thành. Cho dù có là dân cử liên bang, việc xoay chuyển vận mệnh quốc gia nơi quê hương vẫn là chuyện đội đá vá trời, bởi vì quí vị không phải là người đẻ ra chính sách của nước Mỹ. Muốn đảo ngược lại chính sách Mỹ để cứu nước, quí vị cần có tiền bạc như nhà Rothschild hay ít là Rockefeller. Hoặc quí vị phải chui vào thật đông các tổ chức CFR, Illuminati, Trilateral, Skull & Bones. Nếu không, quí vị chỉ còn cách là người tỵ nạn nên làm theo cách thức riêng của người tỵ nạn. Dựa hơi mất mạng dễ như chơi. Có như thế, độc lập tự chủ cho dân tộc mới được bảo đảm, nhân dân VN mới có thể nhìn bạn bè năm châu một cách kiêu hãnh, và việc làm của quí vị mới vẻ vang được.

Nỗ lực đóng góp cho cộng đồng để thăng tiến và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng, phát huy những giá trị truyền thống của cộng đồng đều là những việc làm rất đáng khen và cần được khuyến khích, nhưng cần phải biết người biết mình mới trăm trận trăm thắng được. Nói rằng tham gia chính trị dòng chính để dựa vào Mỹ hầu lật đổ CS chỉ là huênh hoang phét lác. Trên bình diện quốc tế, để giải quyết các vấn đề thế gìới, nước Mỹ đã có một sách lược chung do CFR làm ra. Chẳng hạn về vấn đề chống CS, sách lược độc đáo này được nữ biên tập viên Edith Kermit Roosevelt, cháu gái của TT Theodore Roosevelt, trình bầy đơn giản như sau: Cách chống cộng hữu hiệu nhất là dùng một nhà nước xã hội chủ nghĩa toàn cầu được cai trị bởi các chuyên gia theo chuyên môn của họ (The best way to fight communism is by a One World socialist state governed by experts like themselves). Từ sách lược chống CS, người ta có thể suy ra sách lược chống khủng bố cũng như vậy chăng: Cách chống khủng bố hữu hiệu nhất là dùng một nhà nước khủng bố toàn cầu được cai trị bởi các chuyên gia?!

Nước Mỹ Bừng Tỉnh

Thời gian hai tuần lễ đầu tháng 8-2010, sinh viên Mỹ tại Texas và một số tiểu bang kề cận đã kéo nhau xuống đường biểu tình. Họ xuống đường không mang khẩu hiệu “Make love, not war” (làm tình chứ không gây chiến) như thời xưa, mà với biểu ngữ rất khác lạ là “ May God protect America from Socialism” (xin Chúa gìn giữ nước Mỹ khỏi chủ nghĩa xã hội). Và đây là vài câu trao đổi chớp nhoáng trên đường phố:

- Các em thấy xã hội chủ nghĩa có gì mà khó chịu? - một người phụ nữ đi đường hỏi.

Sinh viên trả lời:

- Có nhiều lắm, ăn cắp của người giầu cho người ngèo là một. Điều đó không đúng. Không chỉ là sai lầm, mà bất cứ ở đâu có chủ nghĩa xã hội hoặc CS, chỉ có người nghèo càng nghèo thêm. Hãy nhìn vào các nước mà lý tưởng đại đồng ngự trị như Cuba, Tầu, Vietnam, Nga, Venezuela, ở đó mọi tư hữu bị triệt tiêu hết.

Thứ Bẩy cuối tuần rồi (28-8-2010), một cuộc xuống đường tuần hành khác vĩ đại với trên nửa triệu người tham dự diễn ra tại Washington do nhà truyền thông Glenn Beck tổ chức. Cuộc tuần hành đặt tên là Phục Hồi Danh Dự (Restoring Honor Rally). Cuộc tuần hành kêu gọi sự hồi sinh tôn giáo và văn hóa Mỹ, bởi vì nước Mỹ ngày nay đã đi lạc quá lâu vào đêm tối. Nước Mỹ cần trở về với Thượng Đế.

Từ hai năm nay, phong trào Tea Party (Tea Party Movement) với mục đích kêu gọi nước Mỹ trở về nguồn với các giá trị truyền thống đã gây được những ảnh hưởng đáng kể. Tại nhiều nơi, các ứng cử viên đi theo đường lối của Phong Trào và được Phong Trào ủng hộ đã gặt hái thành công.

Nước Mỹ lâu nay đi vào đêm tối do cái mà một số người tưởng tượng ra và gọi nó là “chính trị dòng chính” hướng dẫn và được giới “truyền thông dòng chính” hỗ trợ. Đó là con đường nhầm lạc. Sự thật là nước Mỹ đang đi theo vết chân xã hội chủ nghĩa qua toàn cầu hóa. Và sự thật còn là truyền thông dòng chính thiên tả đã từng hủy diệt VN, và nay đang hủy hoại các giá trị nhân bản của nước Mỹ. Nhiều người Mỹ đã nhận thức điều đó, và họ đã bầy tỏ ý thức bằng hành động. Các chính khách, các nhà truyền thông tỵ nạn không biết đã thức tỉnh chưa?

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Thơ tình "IT" tèo lượm trên NET

    THƠ TÌNH “IT”
    (Information Technology's Love Poem)

    Anh đã viết thư tình trên Net
    Gửi em yêu nhưng không thấy Reply
    Và mỗi lần anh thử Retry
    System hỏi User name và password......


    Em vội bước ra đi quên Logoff
    Chẳng một lời dù chỉ tiếng Standby
    Em quên hết kỷ niệm xưa đã Add
    Quẳng tình anh vào khoảng trống Recycle Bin.
    Anh vẫn đợi trên nền xanh Desktop
    Bóng em vừa Refresh hồn anh
    Từng cú Click em đi vào nỗi nhớ
    Trong tim anh... Harddisk .. dần đầy.

    Anh ghét quá, muốn Clean đi tất cả
    Nhưng phải làm sao khi .. chẳng biết Username
    Hay mình sẽ một lần Full Format
    Em đã change .. Password cũ còn đâu!
    Anh sẽ cố một lần anh sẽ cố
    Sẽ Retry cho đến lúc Error.
    Nhưng em hỡi làm sao anh có thể ..
    Khi Software anh dùng... đã hết Free Trial

    Hình bóng em vẫn mãi Default...
    Trái tim anh, em Select bằng Mouse
    Chốn hẹn hò: Forum - Internet
    Lời yêu thương truyền bằng phương thức Get
    Nhận dáng hình qua địa chỉ IP
    Nếu một mai em vĩnh viễn ra đi
    Anh sẽ chết giữa muôn ngàn biển Search

    Lời tỏ tình không dễ gì Convert
    Lưu ngàn đời vào biến Constant
    Anh nghèo khó mang dòng máu Sun
    Em quyền quý với họ Microsoft
    Hai dòng Code không thể nào hoà hợp
    Dẫu ngàn lần Debug em ơi
    Sao không có một thế giới xa xôi
    Linux cũng thế mà Windows cũng thế

    Hai chúng ta chẳng thể nào chia rẽ
    Run suốt đời trên mọi Platform.
    Có nhiều lúc gục đầu trên Keyboard
    Anh vô tình nhấn Shift viết tên em
    Anh yêu em mà em chẳng Open
    Mở cửa trái tim và Save anh vào đó
    Cửa nhà em mẹ đã gài Password
    Suýt nữa anh rách quần vì cố vượt Firewall

    Giá như anh có thể ấn Ctrl+Z
    Để Undo những gì đã xảy ra
    Ngay cả những lập trình viên quốc tế
    Còn có thể mắc lỗi nữa là....
    Giá như anh có thể ấn Ctrl+Z
    Một lần, chỉ đúng một lần thôi.
    Anh sẽ Debug những lỗi lầm đáng ghét
    Em sẽ hiểu anh đâu phải thằng tồi.

    Giá như anh có thể ấn Ctrl+Z
    Thì khi này anh đã ở bên em
    Chứ đâu phải cô đơn ngồi quét
    Những con Virus đang tràn ngập trái tim.
    Nhưng anh không thể ấn Ctrl+Z
    Trong phần mềm có tên gọi là tình yêu
    Chỉ có thể chọn Continue hay Exit
    Và tất nhiên anh chưa muốn xa em.

    Hãy hiểu cho lòng anh em nhé
    Và xin em, hãy rộng mở lòng em
    Khi mã nguồn trái tim không còn đóng
    Anh sẽ viết lên đó dòng tên em



Gửi Cù Huy Hà Vũ - GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc

GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Luật sư Vũ, anh nghĩ sai lầm quá!
Thằng tội đồ thì đại xá cho ai?
Nó là thằng bán biển đảo dài dài
Nó tội đồ, bảo tha người yêu nước?

Nó cưỡng chiếm miền Nam vì sách lược
của Hoa Kỳ, Nga, Trung cộng mưu mô

Đổi chác nhau để bán đứng dư đồ
nước Việt Nam lọt vào tay Thái thú!

Cộng hòa Miền Nam, Hoa Kỳ giúp đỡ
chống âm mưu xích hóa của giặc Hồ

Kết cuộc là biển máu, núi xương khô
Mười triệu Việt, ba mươi năm ngã xuống! (1)

Quân dân miền Nam bó buộc trong tình huống

Phải chận tay bọn cướp, giữ yên nhà
Triệu chàng trai đã hăng hái xông pha
Bởi không giữ thì tan tành đất nước!
Kẻ tội đồ chính là bọn ăn cướp

Dùng AK trấn lột, bức hiền nhân
Ai tha ai? Ai đại xá cho ai?
Kẻ ăn cướp lại tha người trại chủ?

Là Luật sư sao anh còn cổ hủ
Chưa phân biệt kẻ cướp với người ngay
Nói như anh, miền Nam chúng tôi sai
Tội diệt chủng chính cha anh cũng lậm! (2)

Được là vua, dù là vua cướp trộm
Chúng tôi thua bởi người Mỹ phản thùng
Dã man, bạo tàn, cũng có ngày cánh chung
Muôn thế hệ không quên thằng diệt chủng!

Sa tay giặc, ngàn ngôi sao đã rụng
Chúng dã man, chúng tàn bạo, khỏi chê
Nhưng sau cùng còn tòa án La Hê (3)
Sẽ xử chúng không khác nào Pol Pot!

Rồi anh thấy người Việt Nam chỉ khóc
Bởi Tây Nguyên, biển đảo … đã dâng rồi
Rừng đầu nguồn nửa triệu mẫu, than ơi!

Chưa từng thấy một Việt Nam tan nát!
“Quốc hại” này: những thằng hề Quảng lạc
Từ đảng ra - Chúng chẳng đại diện ai
Phải gọi ngay chúng là bọn dông dài

Anh làm như chúng có quyền có thế!
Cuộc cờ xoay, thái lai qua cơn bĩ
Bọn Vẹm nay phải thả mọi tù nhân
Vì yêu thương đất nước bị cùm chân

Tư cách họ, khác xa phường toàn trị!

Tại Hoa Kỳ ngày 3-9-2010

GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc

1. Trong 4 cuộc chiến từ 1945 đến nay trung bình có

10 triệu đồng bào đã tức tưởi ngã xuống, báo chí Trung cộng viết là 14 triệu . Chính Lê Duẩn cũng xác định là 10 triệu lính Vẹm đã tử trận (qua lời Bảy Vân trả lời đài BBC, Bảy Vân là vợ Lê Duẩn) (2) Cù huy Cận cùng nhiều Nhà văn, Nhà thơ như Xuân Diệu, Chế lan Viên, Hoài Thanh cùng nhiều tên khác điếu đóm Tố Hữu và giặc Hồ, làm thơ khích động chém giết đồng bào.

3. Tòa án La Haye

Kết thúc Kiến Nghị của Luật Sư Cù huy Hà Vũ:

1. Đại xá tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hoà theo Khoản 10 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội quyết định đại xá).

2. Lấy “Việt Nam” làm Quốc Hiệu thay cho “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Khoản 1 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp).
    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
    -----------------------------------------------------------

    Hà Nội ngày 30/8/2010

    KIẾN NGHỊ

    TRẢ TỰ DO CHO TẤT CẢ TÙ NHÂN CỰU QUÂN NHÂN VÀ VIÊN CHỨC CHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HOÀ,LẤY “VIỆT NAM” LÀM QUỐC HIỆU ĐỂ HÒA GIẢI DÂN TỘC

    Kính gửi: Quốc Hội Việt Nam

    Tôi là Cù Huy Hà Vũ, Công dân Việt Nam, Tiến sĩ Luật, hộ khẩu thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội, xin gửi tới Quốc Hội lời chào kính trọng và căn cứ Điều 53 Hiến pháp, kiến nghị với Quốc Hội như sau:

    Có Hai Sự thật về chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975:

    Sự thật thứ nhất - Đó là cuộc chiến tranh nhằm thống nhất đất nước để Độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã giành được cách đây 65 năm, ngày 2/9/1945, được toàn vẹn.

    Thực vậy, Hồ Chí Minh đã nói: “Nuớc Việt Nam là Một, Dân tộc Việt Nam là Một – Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song Chân lý đó không bao giờ thay đổi”.

    Trong cuộc trả lời phỏng vấn của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) ngày 29/4/2010 tôi cũng đã khẳng định: “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thuần Việt suốt chiều dài lịch sử và chính đặc điểm “thuần Việt” này đã hình thành cho người Việt tư tưởng Một dân tộc, Một quốc gia hay Dân tộc đồng nhất với Quốc gia, để từ đó đi đến nguyên lý bất di bất dịch: không thể có độc lập dân tộc thực sự với một quốc gia bị chia cắt về lãnh thổ, hay Độc lập dân tộc phải gắn liền với Thống nhất lãnh thổ quốc gia, Thống nhất đất nước - Hệ tư tưởng mà tôi gọi là Chủ nghĩa Nhất thể Việt (Vietnamunism)”.

    Sự thật thứ hai – Dù là tất yếu để Non – Sông Việt Nam liền một giải, để Độc lập Dân tộc được toàn vẹn thì đó vẫn là một cuộc Nội chiến, một cuộc chiến tranh Huynh - Đệ tương tàn giữa những người Việt Nam.

    Vì vậy, một khi chiến tranh chấm dứt thì xoá bỏ hận thù giữa những người Việt từng ở hai bờ chiến tuyến hay Hòa giải Dân tộc là Nghĩa vụ, và hơn thế nữa, là Đạo lý của mọi người Việt Nam. Và trong sự nghiệp Hoà giải này – tôi khẳng định vĩ đại không kém cuộc chiến vừa kết thúc nhằm thống nhất đất nước – những người chiến thắng phải đi bước trước, mà giang tay ôm vào lòng những người anh em chiến bại để tỏ chữ Hiếu đối với Mẹ Chung - Tổ Quốc, để mọi người Việt dẫu chính kiến có khác biệt lại xum họp Một Nhà!

    Cũng chỉ có thế, những thành công ngoạn mục mới có thể đến với người Việt Nam thời hậu chiến! Và trong trường hợp đó người Mỹ hẳn là tấm gương tốt để người Việt noi theo.

    Thực vậy, sở dĩ Hoa Kỳ trở thành cường quốc số Một thế giới cho dù mới hơn 300 năm tồn tại – chưa bằng 1/10 chiều dài lịch sử của ngưòi Việt – là vì người Mỹ trước hết biết xoá bỏ hận thù dân tộc, quân đội Miền Bắc thắng trận trong cuộc Nội chiến kết thúc vào năm 1865 biết bồng súng chào những người lính Miền Nam đã hạ vũ khí!

    Trên thực tế, chính Hồ Chí Minh, chứ không phải ai khác, là lãnh tụ Việt Nam đầu tiên tiếp thu bài học Hòa giải dân tộc ấy của người Mỹ khi bổ nhiệm Cựu Hoàng Bảo Đại nay là công dân Vĩnh Thụy làm Cố vấn tối cao của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Công hòa chỉ ít ngày sau khi Phái đoàn Chính phủ gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận tiếp nhận sự thoái vị của vị Hoàng Đế Việt Nam cuối cùng vào ngày này, 30/8, cách đây 65 năm tại Ngọ Môn - Kinh thành Huế, tạo nên sự ủng hộ tuyệt đối của mọi người Việt Nam đối với chính thể Cộng hòa.

    Trớ trêu thay, ban lãnh đạo của nước Việt Nam thống nhất sau 30 năm chiến tranh chẳng những đã không học tập tấm gương Hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh, mà ngược lại, còn khoét sâu vết thương của Dân tộc bằng việc tập trung “cải tạo” trong nhiều năm trời cả trăm nghìn quân nhân, viên chức Việt Nam Cộng hòa, bằng kỷ niệm liên tục 35 năm nay “Ngày giải phóng Miền Nam” đậm chất “thắng – thua”… đẩy không ít người Việt thuộc chính quyền cũ rơi vào vòng xoáy của sự thù hận với hệ quả là một số người bị chính quyền mới kết vào “tội xâm phạm an ninh quốc gia”!

    Và hận thù ấy lại dẫn đến chia rẽ khác không kém phần đau đớn, lần này ngay trong nội bộ những người đã ca khúc khải hoàn, bởi có mấy gia đình Việt Nam không có người thân ở bên kia chiến tuyến.

    Kinh khủng hơn nữa, chính những hận thù và chia rẽ dân tộc ấy đang từng ngày, từng giờ tiếp tay cho nguy cơ Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ Tư và lần này e vĩnh viễn!

    Nhưng Tổ Quốc Việt Nam không thể không quyết Sinh và vì vậy, Hoà giải Dân tộc hay là Chết!

    Vả lại, không có lý gì 35 năm trôi qua kể từ 30/4/1975, hai thế hệ người Việt đã sinh ra trong hòa bình lại tiếp tục được nuôi dưỡng và sống trong thù hận của quá khứ chiến tranh!

    Bởi những lẽ trên, nhân Kỷ niệm lần thứ 65 Ngày Độc lập 2/9 và hướng tới Kỷ niệm 1000 năm Thủ đô Thăng Long – Hà Nội, tôi – Cù Huy Hà Vũ – nhân danh con trai Nhà thơ Huy Cận, Bộ trưởng thành viên Chính phủ khai sáng nền Cộng hòa và nhân danh cá nhân, kiến nghị Quốc Hội khẩn cấp thực hiện Hòa giải Dân tộc bằng:

    1. Đại xá tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền Việt Nam Cộng hoà theo Khoản 10 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội quyết định đại xá).

    2. Lấy “Việt Nam” làm Quốc Hiệu thay cho “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Khoản 1 Điều 84 Hiến pháp (Quốc Hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp).

    Cũng là để khẳng định một lần nữa Chân lý: Dân tộc Việt Nam chỉ có Một! Nước Việt Nam chỉ có Một!

    Trân trọng và đề nghị Quốc Hội sớm hồi âm.

    NGƯỜI KIẾN NGHỊ
    ĐT: 0904350187
    Email: havulaw@yahoo.com Tiến sĩ Luật CÙ HUY HÀ VŨ


Thursday, September 2, 2010

Gửi Linh Mục Nguyễn văn Lý - Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Bút Xuân Trần Đình Ngọc
    Nếu thay đổi mà mất ổn định, tình hình xấu hơn cả Thái Lan, Indonesia, Philippines, thì thà cứ để yên cho Đảng Cộng sản lãnh đạo

    ......“Nhưng khi mình tìm chưa ra con đường hết sức cụ thể, rõ ràng để toàn dân yên tâm mà có thể dẫn đến lộn xộn đổ máu, thì thà mà cứ đểnguyên, tuy có tham nhũng và bất công nhưng còn ít đổ máu và còn tương đối có trật tự”.
    (LM Nguyễn văn Lý, trả lời đài BBC sau khi ra tù)

Linh mục Lý, sao ông cạn nghĩ quá
Bọn Việt gian cộng sản 65 năm
Đã làm cho đất nước bị băm vằm
Bi banh da, xẻ thịt, vô cùng nhơ nhuốc!

Quốc nạn nay là thầy đà hết thuốc
Bởi trầm kha, bởi con bệnh ung thư
Bọn công an hành sử thực giống như
Chúng vua chúa, còn dân đen cùi hủi

Không người Việt nào mà không hận tủi
Chế độ này từ lập quốc bốn ngàn năm
Trải Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn, Pháp thực dân
Chưa từng có, chưa từng đày dân thế!

Cũng chưa từng dâng nước, muôn điều tệ
Hoàng, Trường Sa, Bản Giốc với Nam Quan
Nay chẳng còn thống thuộc nữa nhà Nam
Rừng đầu nguồn đã dâng loài quỷ Đỏ!

Triệu phụ nữ xuất cảng như heo chó
Triệu lao nô, sự hủ bại lền khên
Giáo dục và Y tế tính thành tiền
Bằng cấp giả, cưỡng dâm, mua quan tước!

Linh mục Lý, ông không nhìn gì hết?
Cũng không nghe vì ông mắc ở tù
Hải ngoại nghĩ: ông chưa đến nỗi ngu
Sao phát biểu như một tên ba vạ!

Trước kính phục bao nhiêu
thì nay khinh mạn!
Kiểu như ông đã nói sảng, nói càn
Phải đắn đo, bởi im lặng là vàng
Hơn tuyên bố những câu làm nhơ nhuốc!

Xin nói lại dù Hoa Đà cũng hết thuốc
Chế độ này phải chấm dứt, triệt tiêu
Bởi tránh cho đất nước khỏi xóa sổ, tiêu điều
Phải Dân chủ, Nhân quyền, và Tiến bộ!

1 Sept.2010
Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Wednesday, September 1, 2010

Văn hóa nói nhảm … - Trần Văn Giang

“Nếu một vật có bốn chân mà không phải là cái ghế; có hai cánh mà không phải là máy bay; bơi được mà không phải là tầu ngầm thì anh Tầu xực ráo” (Hoàng tử Philip – Chồng của Nữ Hoàng Anh Elizabeth Đệ Nhị)

“If it has four legs and it isn’t a chair; if it has two wings and it isn’t a plane; and if it swims and it isn’t a submarine, the Chinese will eat it!” (Prince Philip – The husband of Queen Elizabeth II)

Lời ráo đầu: Lịch sử nói chung ít khi ghi lại những lời nói nhảm… Trong thực tế, việc nói nhảm đã có từ lúc con người biết dùng lời nói để liên lạc với nhau, trước cả khi chữ viết được phát minh. Già hay trẻ; nổi tiếng hay vô danh tiểu tốt đều có cơ hội nói nhảm. Nói nhảm mới đúng là một “cơ hội bình đẳng” (one equal opportunity) cho mọi người!

Nguyên nhân nào làm con người nói nhảm (making dumb / stupid statements)?

Thật oái oăm! Tôi nhận thấy cái nguyên nhân chính làm con ngưới nói nhảm (và được ghi lại) là vì họ là người có sẵn nhiều quyền lực, nổi tiếng … Ậy! Người thấp cổ bé họng cũng nói nhảm; nhưng lời nhảm của dân bé họng chẳng có ai quởn để ghi chép lại làm quái gì! Ai mà biết được? Hu ke?) Qua những giòng kế tiếp dưới đây, quí vị đọc giả sẽ có dịp đọc lại (và ôn lại) lời nói rất nhảm của các nhân vật “trí tuệ” lãnh đạo đảng cs và Nhà nước csvn để rồi tự mình đặt câu hỏi cho mình:

“Tại sao lại có thể như thế được? Rồi đất nước mình sẽ đi về đâu?”

Riêng phần tôi (người viết bài này) sẽ lần lượt viết kèm theo các lời nói nhảm cao cấp một vài lời bàn (cũng nhảm) gọi là “trước mua vui sau làm nghĩa.” Người viết e rằng bài này cũng lại bị liệt vào loại “nói nhảm.” E ngại là chuyện cá nhân, “equal opportunity,” còn phản ứng của đọc giả lại là chuyện khác. Tất cả còn tùy.

Đứng đầu danh sách nói nhảm phải kể chủ tịch nhà nước kiêm danh hài Nguyễn Minh Triết lùn. Câu nói bất hủ của Triết kùn trước quan viên thông tín quốc tế ở Havana, Cuba là:

“Cu ba ngủ thì Cu ta thức!”

Trời đất! Nghe nói bi giờ trong nước Cu ta có nhiều tự do hơn lúc trước thành ra tôi cũng thắc mắc là nếu Cu ta thức và không chịu nằm yên thì Cu ta đi theo lề bên phải hay lề bên trái? Tuy là đã có dậy dỗ, học tập tốt; và nhất là có cho thêm tự do nhưng Cu ta cũng chưa hẳn đã phân biệt được lề nào là lề bên phải? lề nào là lề bên trái? Cứ quờ quạng đi chàng hãng ở “làn” giữa thì có ngày toi mạng như đồng chí (đ/c) Thượng tướng công an Nguyễn văn Hưởng đã “cảnh báo” ngày 26/07/2010 trong bài “Hãy hiểu đúng về nhân quyền Việt Nam” đăng trên ấn bản số 1 của “Tạp chí nhân quyền Việt Nam” như sau:

“Nước ta Đảng lãnh đạo, không có phản biện gì cả, phản biện là phản động... Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù còn nhiều chỗ lắm! Mà cũng chẳng cần bắt bớ tù đày làm gì; Thời buổi này, tai nạn giao thông là chuyện cơm bữa; Mà cũng chẳng cần tông xe làm gì, buổi sáng các vị đi uống cà phê, về tới nhà cứng đơ, không làm gì được nữa. Các nước người ta đều biết kĩ thuật này, chúng tôi cũng chẳng thua đâu.”

Ối giời đất ơi! Cường độ sự căng thẳng của từng câu một mỗi lúc gia tăng thêm! Hãi thật! Ông tướng (?) CA này mới thực sự là người đã thấm nhuần “tư tưởng và đạo đức HCM …” Không biết nhà nước và đảng ta còn có cái “chức” hay cái “hàm” nào cao hơn chức Thượng tướng để vinh thăng cho ông tướng này… Mà hình như đảng ta đã có sẵn một cái danh hiệu “xịn” hơn cái “hàm” Thượng tướng nhiều. Đó là danh hiệu “Nhân dân:” Thượng tướng nhà ta xứng đáng được tặng tước hiệu “Thượng tướng nhân dân;” Tương tự như các danh hiệu “cực” vinh dự “nhân dân” (do Hội đồng Thi đua và Khen thưởng Quốc gia xét và Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định trao tặng cho những những người đã có cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp – theo như wikipedia vi-xi mô tả) khác như là Nhà giáo nhân dân, Nhà văn nhân dân, Nhà thơ nhân dân, Nhà thổ nhân dân, Kiến trúc sư nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Thầy chạy nhân dân, Kiểm sát viên nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân, Bịt miệng nhân dân … Dân ngu khu đen khố rách áo ôm nếu cố gắng công tác “tốt” (?) chẳng hạn như bớt đái rong, bớt ỉa bậy … sẽ được phong “Nhân dân nhân dân.”(vì đã có sẵn cái hai chữ “nhân dân” cao quý dính chặt ở khu từ hồi nào tới giờ rồi còn gì?)

Ngày 3 tháng 8 năm 2007, đ/c Lê Doãn Hợp Bộ trưởng Bộ 4T (Thông Tin - Truyền Thông) đã nhắn nhủ một lúc hơn 700 tờ báo … hại toàn quốc về vấn đề “lề phải lề trái” là:

“Quy chế quản lý báo chí chính là để cho chúng ta tự do hơn; lâu nay chúng ta quản lý theo mệnh lệnh. Chúng ta hoàn toàn có tự do nếu đi đúng lề bên phải, và chúng tôi cố gắng làm cho các đồng chí lề đường đó.”

Thật quý hóa cho làng báo … lố! Đ/c Bộ trưởng sợ là báo lố ta còn “mông muội” chẳng hiểu “quản lý” là cái củ cải gì (cơ sự là một số lớn các đồng chí Tổng biên tập / Phó tổng biên tập / biên tập viên … cho đến bi giờ vẫn còn chưa phân biệt được ‘quản lý’ với ‘quản ní’ mới chết chứ!) cho nên đ/c chí Bộ trưởng ra công làm phước giải nghĩa thêm cho thông thoáng chữ “quản lý” như thế này:

“Quản lý là ‘quản’ có ’lý.’ Bao gồm cả ‘đạo lý và ‘nguyên lý!’ ”

Lời giải nghĩa thật tài tình tương tự như “một sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dầy” của cuốn tự điển Việt Nam. Thật đáng đồng tiền bát gạo của chức vụ / vai trò bộ trưởng chính phủ nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kể ra, các đ/c của bộ chính trị người nào cũng sáng dạ và không ngại nhiệt liệt bồi dưỡng cho kho tàng chữ nghĩa trong sáng của Kách mệnh.

Thực ra, theo tôi, đ/c Lê Doãn Hợp muốn nói thế này này (tiếng Mỹ nó nói nôm na là “You know what I mean?”):

“Phải bịt mồm những ‘thằng’ chống đối cái ‘tự do ngôn luận’ mà đảng và nhà nước đã vạch ra cho báo chí.”

Đã hiểu chưa nào?

“Tự do ngôn luận” là món ăn xa xỉ của xứ sở loại “ra đầu ngõ là gặp công an (?)” như Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc. Đ/c Nguyễn Viết Thịnh, Đại biểu quốc hội (?) thành phố Hà Nội đã lên tiếng dùm cho đám “dân chúng nghèo” rồi mà:

“Nhân quyền là những giá trị chung. Nhưng sự áp dụng nhân quyền là tùy thuộc mức độ kinh tế của quần chúng: Đối với dân chúng nghèo họ không quan tâm đến tự do ngôn luận mà quan tâm về sự ăn uống, đói no.”

Cán bộ lãnh đạo đảng ta thật “nhất trí.” Lời “giải lý” này hoàn toàn hợp lẽ với câu trả lời trước đây của đ/c Nguyễn Cơ Thạch, cựu ngoại trưởng vi-xi.

Chuyện là một thời gian sau khi “giải phóng,” tình trạng kinh tế nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viêt nam thấy chẳng giống con giáp nào? Trong một buổi họp báo, báo chí và quan sát viên quốc tế có đặt câu hỏi với Nguyễn Cơ Thạch, về vấn đề quá chán ngán cho kinh tế “phát triển từng bước lên xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam sau chiến tranh, thì ngoại trưởng nước ta đã giải thích là:

“Không phải là chúng tôi (csvn) không làm được gì. Chúng tôi đã ‘phân phát’ sự nghèo đói đồng đều cho quần chúng.”

(Sau dây là nguyên văn lời của Nguyễn Cơ Thạch nói bằng Anh ngữ :

“We are not without accomplishment. We have managed to distribute the poverty equally.”)

Nhảm? Hay là sự thật? Câu trả lời của tôi có thể là: “Cả hai.” Lâu lắm mới nghe thấy cán bộ cao cấp TƯ đảng csvn nói được một câu nhảm mà nghe được, cần phải được “đánh giá cao!”…

Thời gian gần đây, cứ vài tháng là lại có vài trang mạng, “blogs” cá nhân đạp nhằm “lề bên trái” bị đánh cắp tên miền (hack domain name), mất bài (erase database), bị cài đặt virus độc địa v..v.. Ai là thủ phạm? Không cần phải chờ các kỹ thuật gia của các trang mạng tìm ra thủ phạm, Trung tướng công an Vũ hải Triều, Tổng cục phó tổng cục an ninh, trong một Hội nghị báo chí toàn quốc, đã công khai khoe thành tích là:

“Trong mấy tháng qua, bộ phận kỹ thuật của ta (tức tổng cục an ninh) đã phá sập trên 300 báo mạng và ‘blog’ cá nhân xấu.”

Các báo mạng và “blog” cá nhân đã nói gì? viết gì? mà bị đánh sập? Họ đã không theo chỉ thị của “quan chức” nhà nước là: không được chạm đến các đề tài “nhậy cảm” như “Trung quốc là đối tác,” “Tình hữu nghị với 16 chữ vàng,” “vấn đề biển đông,” “kinh tế bên bờ vực thẳm,” “các đại gia và quan chức nhà nước liên quan đến các dự án có nhiều nghi vấn tiền bạc …” Riêng các báo, đài, điện báo trong nước “không thông hiểu nhiệm vụ chính trị” phi phạm thì sẽ bị trừng phạt khắt khe (Tổng biên tập, phó tổng biên tập, biên tập viên … bị giáng chức, thuyên chuyển, viết bài phản tỉnh, kiểm thảo…)

Bác Hồ đã dạy dỗ và mô tả rõ ràng (?) cái “lề bên phải” là:

“… khi viết phải đặt vấn đề: Viết cái gì? Viết cho ai? Viết như thế nào?”

Nếu báo, đài, báo điện tử, “blog” cá nhân mà lỡ dại “nghe không rõ” thì mau đọc đi đọc lại nhiều lần lời lẽ thật “súc tích hùng hồn” của Trung tá công an Hoàng Trọng Dũng “trao đổi” với blogger “Điếu Cày” Nguyễn Văn Hải trong tù như sau:

“Ở đây chỉ có tao và mày. Mày không khai ra thì tao đánh cho bác sĩ nhìn mày không ra; luật sư mày tìm mày không thấy … Mày không khai ra thì tao sẽ nhốt mày với tù nhân có bịnh Sida để cho mày nhiễm bệnh. Tao sẽ pha thuốc vào nước cho mày uống để mày tiêu chẩy cho đến mức suy kiệt mà chết.”

Hãi thật! “Nhảm” đâu không biết nhưng tôi thấy chẳng riêng gì Điếu cày (mà bất cứ ai!) chỉ nghe thoáng qua lời “răn đe đầy ấn tượng” này là “đảm bảo” rét ngay. Cương điệu của đ/c CA Hoàng Trọng Dũng cũng y chang lời của Thượng tướng CA Nguyễn Văn Hưởng nêu ra ở trên. Bố bảo cũng không dám hó hé theo bước chân của Điếu Cày! Vào thời đồ đồng, đồ đá người ta cũng dàn xếp các chuyện phải quấy, các khác biệt cá nhân bằng cách đẹp mắt như vậy: Cứ lấy thịt đè người là xong chuyện cả; đâu cần đến luật lệ làm chi cho mất ngày giờ. Cũng nên biết thêm Điếu cày bị bắt và bị đánh thê thảm chỉ vì viết “blog” và phát áo thun liên quan đến vấn đề đang tranh cãi: “Hòang sa, Trường sa là của Việt Nam;” chứ Điếu cày không (chưa dám) biểu tình, chống đối chính phủ cs đâu! Bố bảo!…

Phải thẳng thắn công minh mà nói, lời nói nhảm có “đẳng cấp” cao cấp bậc nhất của chế độ ta phải là của đ/c Trần Quý Tường, Phó Cục trưởng Cục Quản lý KCB/Bộ Y tế. Đ/c Trần Quý Tường có lẽ học cùng trường làng với đ/c Triết lùn. Tuy nhiên lời của đ/c Trần Quý Tường nổi bật hơn lời của Triết lùn bởi vì nó quàng theo cái “lô gíc” thâm thúy, cái “tư duy” khoa học phân tách theo biện chứng Mác-Lê của con người cộng sản. Đó là câu:

“Người có vòng đo ngực trung bình dưới 72 cm không được cấp bằng lái hạng A1, tức cũng không được đi xe trên 50 cc.”

Cứ “tuân thủ” theo cách tính toán tỉ mỉ cặn kẽ như thế này thì em Hồ Lệ Thu (người đẹp “quả bưởi” đứng tắm vòi sen sau 5 phút mà bàn chân chưa kịp ướt! Mà không biết em Thu có nhìn thấy bàn chân của em không?) phải được “vô tư” cấp một bằng lái “đặc biệt” hạng A30 (hạng A1 là đồ bỏ!), tức là dư sức lái xe cỡ 1500 cc. Thiệt là chuyện bó tay, hết biết. Cũng may cho các em xấu số đã bị trời phạt phải mang bộ “ngực lép” (mà lại không có đủ kinh tế để bơm ví nâng cấp!) là đ/c Trần Quý Tường sau khi tỉnh táo hơn một tí (có lẽ nhờ nốc vài viên Viagra mua chợ đen? Theo lời đồn nhảm!) đã ra lệnh cho rút lại cái luật độc nhất vô nhị trên mặt đất này … Nếu gọi là chuyện chỉ có ở CHXHCN Việt Nam thì cũng không có gì quá đáng!

Chưa hết đâu … Ngày 2 tháng 11 năm 2008, Bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị cũng tuyên bố thật hay khi trả lời “VietNamNet,” một trang mạng dưới sự kiểm soát của chính quyền cs, về trận mưa lụt ngày 31 tháng 10 gây thiệt hại nặng nề về sinh mạng và tài sản tại Hà Nội là:

“Nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa (?) ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hổ trợ cái kia chứ không đem hết sức mình ra tự làm … trận mưa lụt là cuộc tổng diễn tập cho tương lai.”

Ơ hay nhể! Các loa phường vẫn quảng bá liên khúc bất tận là Nhà nước ta (đồng thời cũng có ghi hẳn hoi trên giấy trắng mực đen của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam) là “Nhà nước của dân, vì dân và do dân” thì kể ra Nhà nước chỉ có một việc tối hậu là phải làm cho dân những gì họ không thể làm được; mà Nhà nước lo cho dân mình chứ phải lo cho dân Tầu vị yểu củ cải muối ở tỉnh Cam Túc đâu (?) mà phải vội “chém vè,” tuyên bố nhảm. Thôi nhé em Hà Nội phố! Từ nay em đã biết thân phận thấp cổ bé họng thì hãy cố gắng tập tạ, dưỡng sức trước; lần sau có lũ lụt thì còn có sức mà tát nước (sang dất nhà hàng xóm?) lấy một mình. Nhà nước đang bận tiếp đối tác thương mại đấy không có thời giờ rảnh đâu!

Lời kết

Tôi xin mượn một đoạn trích từ bản “Báo cáo Chính trị của Đảng csvn” để kết thúc bài “văn hóa nói nhảm:”

“Đây là môt vấn đề nghiêm túc (có lẽ là v/đ nói nhảm) và chúng ta phải nói với một thái độ nghiêm túc của một công dân ‘đi đúng lề bên phải’. Chúng ta có quyền yêu cầu người khác cũng ‘phải đi đúng lề bên phải’ như chúng ta, bất kỳ họ là ai! Như thế mới gọi là là “xây dựng xã hội công bằng dân chủ văn minh”

Thiệt tình!

Hết ý kiến!

Trần Văn Giang
Tháng 9 năm 2010

Ngàn năm gương cũ - Trần Gia Phụng


Trần Gia Phụng

1. RỒNG BAY CÁCH ĐÂY MỘT NGÀN NĂM

Sau khi đảo chánh, lật đổ nhà Tiền Lê vào cuối năm 1009 (kỷ dậu), Lý Công Uẩn lên ngôi vua năm 1010 (canh tuất), lấy niên hiệu là Lý Thái Tổ (trị vì 1010-1028), lập ra nhà Lý (1010-1225). Việc đầu tiên của Lý Thái Tổ là quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, và đổi tên là Thăng Long vào tháng 7 năm canh dần.

Việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La được Lý Thái Tổ giải thích như sau: “Ngày xưa, nhà Thương [Trung Hoa, 1783-1123 TCN] đến đời Bàn Canh [vua Thương thứ 17, 1401-1374 TCN] năm lần dời đô, nhà Châu [Trung Hoa, 1134-256 TCN] đến đời Thành Vương [vua Châu thứ 3, 1115-1079] ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu? Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ của Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương [Cao Biền], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng nầy mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở ...” ( Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: bản dịch tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, tr. 241.)

Nói như thế, nhưng quyết định dời đô của Lý Thái Tổ bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa hơn là chiếu chỉ đã viết. Vùng Hoa Lư là địa bàn sinh hoạt của đại gia tộc nhà Tiền Lê. Lý Thái Tổ lật đổ nhà Tiền Lê và cướp chính quyền. Cuộc đảo chánh bề ngoài xem ra êm ái, ít được sử sách ghi lại chi tiết. Có thể vì “lịch sử thuộc về kẻ chiến thắng”, vua quan nhà Lý không muốn nhắc đến việc nầy, nên đời sau không biết mà ghi lại. Tuy nhiên một đại gia tộc như nhà Tiền Lê, với khoảng 10 hoàng tử đã từng tranh quyền với nhau, hoàn toàn bị tiêu diệt, ắt hẳn phải xảy ra một cuộc tranh chấp rất gay gắt. Có thể Lý Thái Tổ lo ngại thế lực còn lại của nhà Tiền Lê, hoặc dư âm của cuộc đảo chánh, không muốn ở lại địa bàn còn nhiều ảnh hưởng của triều đại trước.

Thứ đến, thành Đại La nằm gần Bắc Ninh, nơi xuất phát của Lý Thái Tổ và quân sư của ông là thiền sư Vạn Hạnh. Bắc Ninh là chiếc nôi của Phật giáo nước ta, nơi từ đầu Công nguyên có thành Luy Lâu (cách Hà Nội ngày nay 20km), được xem là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước Việt, cũng là nơi có chùa Pháp Vân (chùa Dâu) được thành lập từ thế kỷ thứ 6. Các thiền sư Phật giáo là những người hậu thuẫn mạnh mẽ cho Lý Thái Tổ. Do những lẽ đó, Lý Thái Tổ mới quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long,

Thành Đại La (Thăng Long) được ưu điểm hơn thành Hoa Lư ở vị trí trung tâm nước ta lúc đó, nằm trên sông Hồng, dễ giao thông liên lạc, nhưng về địa lý chính trị, trong thế đối kháng với Trung Quốc thời bấy giờ, thì thành Đại La không lợi thế bằng thành Hoa Lư.

Hoa Lư ở xa biên giới Trung Quốc hơn Đại La, đường sá lúc bấy giờ đi lại khó khăn, nên người Trung Quốc khó tấn công hơn. Có thể chính vì Đại La gần Trung Quốc, dễ giao thông liên lạc với Trung Quốc, nên nhà cầm quyền Trung Quốc chọn Đại La làm thủ phủ của Giao Châu (cổ Việt) do họ đô hộ. Cũng có thể chính vì thế, mà nhà Đinh, và nhà Tiền Lê bỏ Cổ Loa (Đông Anh, Phúc Yên), kinh đô của Ngô Quyền, gần Đại La và gần Trung Quốc, mà chọn Hoa Lư ở Ninh Bình làm thủ đô, xa biên giới Trung Quốc hơn, nhằm tránh áp lực tấn công của Trung Quốc.

Để thu hút quần chúng, lúc đó còn nhiều mê tín dị đoan, Lý Thái Tổ tạo ra huyền thoại rằng khi nhà vua đi thuyền đến Đại La, có rồng xuất hiện trên bầu trời báo điềm lành, nên nhà vua cho đổi tên Đại La thành Thăng Long (rồng bay). Đến năm 1014 (giáp dần) Lý Thái Tổ cho xây thành Thăng Long bằng đất, ngay trên vị trí của thành Đại La cũ.

2. KINH NGHIỆM NGÀN NĂM

Kể từ khi Lý Thái Tổ chọn Đại La làm kinh đô và đổi tên thành Thăng Long, tính cho đến ngày nay (2010), thành Thăng Long được một ngàn năm chẳn. Vì vậy, năm nay, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) quyết định tổ chức lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long.

Thông thường, kỷ niệm một người hay một sự kiện gì, là để tưởng nhớ công ơn người xưa hay hay những bài học từ chuyện xưa tích cũ, để từ đó rút ra những kinh nghiệm ứng dụng vào việc ứng xử ngày nay. Riêng thành Thăng Long, trong một ngàn năm qua, Thăng Long đã chia sẻ đời sống với dân tộc Việt, thăng trầm theo sự thăng trầm của lịch sử Việt, và đã để lại những kinh nghiệm thật là quý báu.

Kinh nghiệm đầu tiên, dầu Thăng Long là kinh đô, được nhà cầm quyền Việt phòng thủ chặt chẽ, nhưng cũng đã bị ngoại bang tấn công và chiếm đóng nhiều lần. Đó là các nước Trung Quốc, Chiêm Thành và Pháp. Trong các nước nầy, nước tấn công và chiếm đóng Thăng Long nhiều lần nhất là Trung Quốc.

Kinh nghiệm thứ hai là bất cứ nhà cầm quyền Trung Quốc nào cũng đều muốn tiến quân chiếm nước Việt, vừa để mở rộng biên giới, vừa để tìm đường xuống Đông Nam Á. Vì vậy, bất cứ nhà cầm quyền Trung Quốc nào cũng lợi dụng cơ hội nước Việt suy yếu, tranh chấp nội bộ, hay xảy ra thay đổi triều đại, Trung Quốc liền chụp lấy thời cơ, đem quân sang tấn công nước ta.

Kinh nghiệm thứ ba là những cuộc xâm lăng bằng bạo lực vũ bảo, thì theo Đức Trần Hưng Đạo dễ chống đỡ hơn những cuộc xâm lăng theo kiểu tằm ăn dâu. Trước khi Đức Trần Hưng Đạo từ trần năm 1300, vua Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314) đến thăm và hỏi ý kiến phải làm sao nếu quân Nguyên trở qua lần nữa? Trần Hưng Đạo đã dặn dò vua Anh Tông như sau: "Đại khái nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản [binh] chế trường [trận] là sự thường của binhpháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn đúng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha với con thì mới dùng được. Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. (Toàn thư, bản dịch tập 2, sđd. tr. 79.)

Kinh nghiệm thứ tư là những cuộc xâm lăng nhằm mục đích quân sự hay kinh tế không nguy hiểm bằng những cuộc xâm lăng nhằm tiêu diệt văn hóa Việt để đồng hóa dân tộc Việt. Những cuộc xâm lăng không tiếng súng bằng văn hóa ảnh hưỏng lâu năm trong đời sống dân tộc. Tiêu biểu cho loại nầy là cuộc xâm lăng của nhà Minh vào thế kỷ 15. Sau khi chiếm nước ta vào năm 1407, các tướng nhà Minh chẳng những vơ vét của cải, vàng ngọc, mà còn bắt giới trí thức cũng như nghệ nhân người Việt đem về Trung Quốc, tịch thu và chở về Trung Quốc hầu như toàn bộ sách vở nước Việt đã có từ thời Hồ Quý Ly trở về trước. Đó là sách của các tác giả sau đây: Lý Thái Tông (Hình thư), Trần Thái Tông (Hình luật, Quốc triều thông lễ, Kiến Trung thường lễ, Khóa hư tập, Ngự thi), Trần Thánh Tông (Di hậu lục, Cờ cừu lục, Thi tập), Trần Nhân Tông (Trung hưng thực lục, Thi tập), Trần Anh Tông (Thủy vân tùy bút), Trần Minh Tông (Thi tập), Trần Dụ Tông (Trần triều đại điển), Trần Nghệ Tông (Bảo hòa điện dư bút thi tập), Trần Hưng Đạo (Binh gia yếu lược, Vạn Kiếp bí truyền), Chu Văn Trinh tức Chu Văn An (Tứ thư thuyết ước, Tiều ẩn thi), Trần Quốc Toại (Sầm lâu tập), Trần Quang Khải (Lạc đạo tập), Trần Nguyên Đán (Băng Hồ ngọc hác tập), Nguyễn Trung Ngạn (Giới Hiên thi tập), Phạm Sư Mạnh (Giáp thạch tập), Trần Nguyên Đào (Cúc Đường di thảo), Hồ Tông Thốc tức Hồ Tông Vụ (Thảo nhàn hiệu tần, Việt nam thế chí, Việt sử cương mục), Lê Văn Hưu (Đại Việt sử ký), Nguyễn Phi Khanh (Nhị Khê thi tập), Hàn Thuyên (Phi sa tập), Lý Tế Xuyên (Việt điện u linh tập) ...

Cuối cùng, Trung Quốc là nước lân bang, ở ngay sát phía bắc nước ta, trong khi Pháp là một nước ở xa. Người Trung Quốc và người Việt Nam có những điểm gần nhau về chủng tộc cũng như về văn hóa, đời sống. Vì vậy, những cuộc xâm lăng của Trung Quốc nguy hiểm hơn cuộc xâm lăng của Pháp vì Pháp có thể bóc lột khai thác dân tộc Việt một thời gian, nhưng người Pháp khác chủng tộc, khác văn hóa, khác môi trường sống, người Pháp đến rồi đi, không ở lại vĩnh viễn ở nước ta như người Trung Quốc.

3. NGÀN NĂM GƯƠNG CŨ SOI KIM CỔ

Bà Huyện Thanh Quan, vào đầu thế kỷ 19, khi nhà Nguyễn dời đô từ Thăng Long vào Phú Xuân, đã ngậm ngùi thương nhớ cố đô trong bài “Thăng Long thành hoài cổ” như sau:
    “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
    Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
    Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
    Nước còn cau mặt với tang thương.
    Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
    Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
Nếu Thăng Long là tấm gương mà Bà Huyện Thanh Quan mô tả: “Ngàn năm gương cũ soi kim cổ”, thì tấm gương đó đã ẩn chứa biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ đã hy sinh vì dân tộc, nhưng đồng thời tấm gương đó cũng phản chiếu rất đầy đủ những kẻ phản quốc hại dân, nhất là trong thời hiện đại, kể từ khi xuất hiện đảng CSVN.

Trước hết, theo sử sách, Lý Thái Tổ dời đô đến Thăng Long sau một cuộc đảo chánh và tuyên chiếu đời đô, nói rõ nguyên nhân vì sao nhà vua dời đô. Năm 1945, Hồ Chí Minh cũng dời đô từ Huế ra Hà Nội, cũng sau một cuộc đảo chánh. Hồ Chí Minh không có chiếu dời đô, mà có bản “Tuyên ngôn độc lập”. “Tuyên ngôn độc lập” nói rõ lý do đảo chánh, kết án thực dân Pháp.

Những lời kết án nầy lại chính là lời báo trước chủ trương chính sách của CSVN cho đến ngày nay. Hãy trích vài câu trong bản ‘Tuyên ngôn: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào …. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn, để làm cho nòi giống ta suy nhược…Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”.

Chữ “chúng” trong bản “Tuyên ngôn” dùng để chỉ người Pháp. Tuy nhiên, ứng dụng những câu trên trong bản tuyên ngôn vào hoàn cảnh ngày nay, chủ từ trong những câu trên không ai khác hơn là CSVN: "không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào …. nhà tù nhiều hơn trường học, thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi, tắm các cuộc khởi nghĩa trong những bể máu, thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc phiện [ma túy], rượu cồn [nhậu khắp n ước], để làm cho nòi giống ta suy nhược… cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệ, giữ độc quyền in giấy bạ [Ngân hàng nhà nước Việt Nam], đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý ...”

Nếu có một người nào nghịch ngợm, viết lại các câu nầy trong bản Tuyên ngôn do chính Hồ Chí Minh viết và đọc, nhưng đừng ghi xuất xứ, rồi gởi cho nhà cầm quyền CSVN hiện nay, người đó sẽ không khỏi bị công an CS bắt giữ ngay, giống như bắt giữ những người mang 6 chữ vàng HS-TS-VN (Hoàng Sa-Trưòng Sa-ViệtNam).

Trở lại chuyện Lý Thái Tổ dời đô. Nhà vua dời đô vào tháng 7 âm lịch. Nhà cầm quyền CSVN hiện nay ở Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long vào ngày 1-10-2010, tức ngày 24-8 năm canh dần (âm lịch). Trong lịch sử Việt Nam, ngày 1-10 không ghi dấu bất cứ một sự kiện quan trọng nào của đất nước. Trong lịch sử thế giới, ngày 1-10-1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tức 1-10 là ngày quốc khánh của Cộng sản Trung Quốc.

Tổ chức lễ kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long vào ngày quốc khánh Trung Quốc, nhà cầm quyền CSVN làm cho mọi người cảm giác là nhà cầm quyền CSVN muốn cùng góp vui với Trung Quốc nhân quốc khánh Trung Quốc, trong khi kinh nghiệm ngàn năm Thăng Long cho thấy Trung Quốc là nước lớn luôn luôn tìm cơ hội tấn công, chiếm đóng và thống trị Thăng Long, nghĩa là nhà cầm quyền Trung Quốc là kẻ thù số một của Thăng Long.

Sở dĩ mọi người có cảm giác như vậy vì quan hệ mật thiết giữa đảng CSVN và đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) trong 80 năm qua, từ khi Hồ Chí Minh vâng lệnh Đệ tam Quốc tế Cộng Sản thành lập đảng CSVN tại Hồng Kông ngày 6-1-1930. Từ đó, đảng CSVN phát triển dưới ô dù của đảng CSTQ, nhất là từ năm 1950, khi Hồ Chí Minh cầu viện Liên Xô không được, phải quay qua nhờ Trung Quốc giúp đỡ.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Bà con xa không bằng láng giềng gần”, chỉ đúng trong trường hợp người bạn láng giềng gần tử tế, lương thiện không hiếp đáp mình. Đàng nầy, người bạn láng giềng gần Trung Quốc qua kinh nghiệm một ngàn năm Thăng Long, là kẻ ỷ thế nước lớn, đã nhiều lần hiếp đáp và chiếm đóng nước ta. Vì vậy nhờ Trung Quốc đánh Pháp là một sai lầm lớn lao, nếu không muốn nói là một tội lỗi của Hồ Chí Minh và đảng CSVN đối với dân tộc, vì một khi giúp Việt Nam đuổi Pháp, Trung Quốc sẽ điền thế chỗ của Pháp, thống trị Việt Nam. Sự thống trị của Trung Quốc còn tệ hại hơn của Pháp. Bằng chứng là dưới thời Pháp thuộc, nước Việt vẫn vẹn toàn lãnh thổ. Trong khi nhờ Trung Quốc đánh Pháp, gọi là giành độc lập, mà dần dần nước ta mất đất, mất biển vào tay Trung Quốc

Sau đó, cầu viện Trung Quốc để đánh Mỹ lại càng sai lầm hơn nữa. Có hai sự kiện cụ thể dễ thấy chứng minh sự sai lầm của CSVN trong vụ chống Mỹ. Thứ nhất, chỉ cần nhìn qua các nước Á Châu gần nước Việt. Mỹ chiến thắng Nhật Bản, tiến quân đến Triều Tiên, nhưng Mỹ đâu có xâm lăng hai nước nầy, mà còn giúp hai nước nầy phục hưng sau thế chiến và cường thịnh như ngày nay. Thứ hai, chính nhà cầm quyền CSVN, vào đầu thế kỷ 21, trải thảm đỏ rước Mỹ vào để vực dậy nền kinh tế Việt Nam và làm đối trọng với Trung Quốc trong cuộc tranh chấp Biển Đông.

Tuy hiện nay muốn nhờ Mỹ để lấy thế mặc cả với Trung Quốc, CSVN vẫn còn nằm dưới trướng của Trung Quốc, vẫn muốn đu giây giữa Trung Quốc và Mỹ, và nhất là lo sợ đàn anh Trung Quốc trả đũa giống như đã từng trả đũa năm 1979 khi CSVN bỏ Trung Quốc chạy theo Liên Xô, nên bị Trung Quốc “dạy” cho một bài học. Phải chăng vì vậy mà đảng CSVN làm lễ kỷ niệm ngàn năm Thăng Long vào ngày 1-10-2010 để gọi là mừng ngàn năm Thăng Long, nhưng thực chất là mừng quốc khánh Trung Quốc nhằm lấy lòng đàn anh Trung Quốc?

Muốn chống lại Trung Quốc, chẳng những phải mượn thế của Mỹ, mà quan trọng hơn phải tạo nội lực dân tộc, phải thực hành như Đức Trần Hưng Đảo đã dạy: “Vả lại khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.” Khoan thư sức dân như thế nào, chắc chắn đảng CSVN dư biết, nhưng cũng chắc chắn không phải cách kỷ niệm ngàn năm Thăng Long đúng vào ngày quốc khánh Trung Quốc.

Kỷ niệm ngàn năm Thăng Long là để tưởng nhớ đến sự kiện lập đô hết sức trọng đại của Lý Thái Tổ và tưởng nhớ đến quá trình sống còn của dân tộc với kinh đô Thăng Long, mà CSVN lại tổ chức vào ngày quốc khánh Trung Quốc, là một hành vi quốc nhục, xỉ vả vào lịch sử Thăng Long, lăng nhục lịch sử dân tộc. Tuyệt đại đa số người Việt Nam không chấp nhận thái độ kinh mạn nầy của CSVN. Lễ kỷ niệm chỉ diễn ra vài ngày phù du, nhưng vết nhơ quốc nhục do đảng CSVN gây ra sẽ được dân chúng truyền tụng thiên thu, theo như câu ca dao::
    "Trăm năm bia đá thì mòn,
    Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Trần gia Phụng
(Toronto, 1-9-2010)