Sunday, June 20, 2010

Nguyễn Hữu Cầu: Một Số Phận Nghiệt Ngã - Lê Minh



Lê Minh

Đã hơn 35 năm trôi qua kể từ ngày miền Nam bị cộng quân “giải phóng”, có biết bao người con ưu tú của đất nước phải chịu cảnh đọa đày trong ngục tù cộng sản. Vài ba năm tù, hay chậm chí hàng chục năm tù là điều đã xảy ra đối với hàng trăm ngàn người, có hoặc không có liên hệ với chế độ VNCH. Tội trạng của họ đơn thuần chỉ là đã từng cầm súng để bảo vệ tự do chống lại làn sóng xâm lược của cộng quân, hoặc chỉ là nhân viên hành chánh trong chế độ VNCH, hay có người chỉ vì không chấp nhận chính sách cai trị bạo tàn của cộng sản,...

“Tội” của kẻ bị cầm tù thì có nhiều thể loại, nhưng kẻ cầm tù các anh, trước sau như một, từ bao năm qua vẫn chỉ có một mục đích là phải bắt tất cả những ai chống đối chính quyền, dù chỉ là sự chống đối trong tư tưởng. Cũng chính vì nhà cầm quyền CSVN rất chuyên chính đối với “kẻ thù”, cho nên mới có những tù nhân chính trị với mức “thâm niên” bằng chừng ấy năm “giải phóng” miền Nam. Sự bưng bít thông tin của chế độ đối với toàn cảnh xã hội đã là ghê gớm, nhưng việc ém nhẹm các thông tin về tù nhân chính trị và các điều kiện sống trong tù còn ghế gớm gấp ngàn lần. Do đó xã hội và thế giới bên ngoài hoàn toàn không hay biết những gì xảy ra bên trong các trại tù kia.

Cách đây vài năm, sau khi ông Nguyễn Khắc Toàn ra khỏi tù, đã kể lại những sinh hoạt khắc nghiệt trong các trại tù cộng sản, cũng như một số tên tuổi các tù nhân mà ông đã từng sống chung hoặc biết qua trong các trại tù này. Trong số này có một người tù đặc biệt mà ông Toàn “cảm phục và quý mến nhất” là “người tù bất khuất Trương Văn Sương”, lại là một cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hiện nay anh Trương Văn Sương vẫn còn bị giam tù, mà số năm “thâm niên” tính cho đến ngày hôm nay cũng chỉ kém chừng ấy năm “giải phóng” 1 năm thôi.

Câu chuyện của “người tù bất khuất Trương Văn Sương” đã làm nhiều người ngạc nhiên ngỡ ngàng vì mức “thâm niên” cũng như sự dã man, tàn độc của hệ thống nhà tù, trại giam VC.

Sự ngỡ ngàng tưởng đâu đã chấm dứt ở đó. Nhưng không, mới đây sau khi bước ra khỏi nhà tù nhỏ vào tháng 9 năm ngoái, nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Ngọc Quang đã cho thế giới bên ngoài biết thêm về một trường hợp “thâm niên” khác của anh Nguyễn Hữu Cầu, cựu đại úy địa phương quân QL VNCH, quê ở Kiên Giang, hiện bị giam trong khu tù chính trị tại Khu Biệt Giam Riệng, phân trại K2, Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai.

Vì “một số phận nghiệt ngã bị bách hại bởi một chế độ phi nhân, tàn độc,” vì “sự hối thúc của lương tâm, vì sự phẫn uất trước cái ác đê tiện”, cho nên chỉ 1 tháng sau khi ra khỏi tù, anh Nguyễn Ngọc Quang đã bắt tay ngay vào việc kể lại “một trong bốn mươi hai câu chuyện thương tâm” mà anh đã “vô phúc” bị mắt thấy tai nghe. Trong số này, anh đã kể lại câu chuyện thương tâm nghiệt ngã của anh Nguyễn Hữu Cầu qua bài viết “34 năm “giải phóng”, 33 năm tù đày”.

Theo hồ sơ tóm tắt trong bài viết do anh Nguyễn Ngọc Quang thuật lại thì sau thời điểm 1975 anh Cầu bị bắt đi tù “cải tạo” hơn 6 năm, đến cuối năm 1981 mới được thả về. Sống ở bên ngoài được đúng 1 năm thì anh Cầu bị bắt giam trở lại cho đến ngày hôm nay.

Là người có năng khiếu về âm nhạc, thi ca, nên anh Cầu đã sáng tác được rất nhiều bản nhạc, bài thơ ca và cả trường thi hơn 2000 câu. Lý do bị bắt vì những sáng tác này thì cũng có một phần, nhưng cái “tội” lớn nhất là trong suốt 1 năm sống bên ngoài là anh Cầu đã thu lượm rất nhiều bằng chứng “ghi lại những tội ác tày đình một cách chi tiết của các quan chức tỉnh Kiên Giang” bằng cách gặp gỡ và phỏng vấn trực tiếp các nhân chứng, trong số đó có cả những nữ nhân chứng từng là tù vượt biển, bị các tên quan này hãm hiếp. Bản tố giác của anh Cầu còn nêu rõ các tên quan này “phạm tội giết người diệt khẩu, buôn bán xì-ke, ma túy, lợi dụng chức quyền tham ô tham nhũng”. Trong số các quan chức bị anh Cầu lên tiếng tố cáo khi đó có phó chủ tịch UBND tỉnh và Nguyễn Thế Đồng, Viện trưởng Viện Kiểm Sát tỉnh Kiên Giang.

Sau vài tháng bị bắt điều tra, anh Cầu bị đem ra xử vội vàng và kết án tử hình với tội danh “phá hoại”. Có một chuyện hy hữu ở đây là ông Trương Minh Đức, đảng viên Đảng Vì Dân là ký giả, nhà báo duy nhất khi đó tham dự phiên tòa, thì nay đang ở tù chung với anh Cầu. Do anh Cầu kháng án, nên vụ án được xử lại tại phiên tòa phúc thẩm tại Sài Gòn. Phiên tòa tòa phúc thẩm chóng vánh chỉ kéo dài đúng 1 tiếng vào ngày 25/5/1987, chỉ làm được mỗi một việc là “giảm” từ tử hình xuống còn chung thân. Trước ngày xử của phiên tòa này, tên chánh án tòa phúc thẩm có một cuộc trao đổi riêng với anh Cầu, yêu cầu anh không trưng ra gần 100 chứng cứ phạm tội của Viện trưởng Viện Kiểm Sát Kiên Giang và các quan chức khác để đổi lại việc được xử trắng án. Thế nhưng điều này không xảy ra: anh Cầu đã bị lừa và vẫn bị xử tù chung thân

Anh Cầu bị khép với những tội danh vu khống đã đành, nhưng cái bản cáo trạng do chính Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nguyễn Thế Đồng nặn ra chứa đựng toàn những điều bịa đặt, lời lẽ hết sức ngu xuẩn, chỉ vì trình độ của tên này thật sự ... ngu hết chỗ nói, bởi vì hắn đã lấy nguyên văn bài “Kinh lạy Cha” để phán rằng “Tên Nguyễn Hữu Cầu đã sáng tác ra bài hát “Giọt Nước Mắt Chúa” với ý thức còn mơ tưởng đến sự trở lại của Đế Quốc Mỹ, tên Cầu đã ví Đế Quốc Mỹ như là cha để cầu xin bơ thừa sữa cặn”.

Là tỉnh “địa đầu” của dân vượt biên vào những năm của thập niên 70s và đầu 80s, các quan chức tỉnh Kiên Giang đã một thời nổi tiếng với các vụ buôn lậu, bán bãi vượt biển, hối lộ tham nhũng. Một trong những kẻ “đồng hội đồng thuyền” đã quay ra tố đồng nghiệp tham nhũng, hối lộ bao che buôn lậu khi đó là “Nguyễn Văn Thạnh, tức Năm Thạnh, nguyên trưởng Ban tuyên huấn Tỉnh ủy Kiên Giang”. Vào những năm đầu của thập niên 80s, Năm Thạnh tố giác hàng ngũ cán bộ tỉnh Kiên Giang cho xây dựng cảng Hòn Chông để tàu bè buôn lậu trú ngụ, bao che cho nhiều vụ “buôn lậu hàng hóa, vàng và ngoại tệ”. May là nhờ địa vị tỉnh ủy viên của mình, cho nên Năm Thành chỉ bị tước đảng tịch và bị gạt ra ngoài lề.

Tưởng cũng cần nói thêm là, một trong các quan chức tỉnh Kiên Giang vào thời điểm đó, nay đã ngoi lên đến trung ương là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người một thời là quan chức công an cấp tỉnh, từng nổi tiếng làm giàu nhanh chóng qua việc bán bãi cho dân vượt biên cũng như các công việc liên quan đến tù vượt biên. Ngoài ra, một quan chức cấp tỉnh (tỉnh ủy viên) vào thời điểm đó là Lê Hồng Anh, nay đã leo lên đến chức Bộ trưởng Bộ Công An, ủy viên Bộ Chính trị.

Bị oan ức nên anh Cầu đã kiên trì làm đơn khiếu nại từ 28 năm qua (kể từ năm 1982). Lá đơn đề ngày 24/08/2009, mà anh Cầu nhờ anh Nguyễn Ngọc Quang chuyển ra ngoài, là lá đơn khiếu nại thứ ... 500 mà anh Cầu đã liên tục gởi ra Hà Nội, nhưng chỉ nhận được sự im lặng.

Chỉ vì nắm biết quá nhiều thông tin, cho nên anh Cầu luôn bị tay chân đàn em của các quan tham này tìm cách ám hại trong tù. Ngoài ra, việc anh Cầu được Linh Mục Nguyễn Công Đoan (giám đốc Dòng Tên) rửa tội trong tù, để trở thành một Kitô Hữu, cũng là một lý do để đám cai tù thù ghét, không cứu xét ân xá cho anh.

Theo bên anh có cái ... đài kè kè
Theo bên anh có cây súng ... AK
(Lời của một bài hát do anh Cầu sáng tác, ám chỉ việc bọn cai tù luôn theo dõi sát anh)

Được biết, anh Cầu bị cận nặng, cho nên cuộc sống khắc nghiệt trong nhà tù cộng thêm 3 năm biệt giam đã khiến cho đôi mắt của anh kéo màng gần như bị mù. Trong một lần bị bệnh nặng được đưa đến bệnh viện Chợ Rẫy điều trị vào năm 2007, câu chuyện tù nghiệt ngã của anh đã khiến một vị bác sĩ cảm động, nên tìm cách chữa trị. Nhưng quản tù biết được bèn đưa anh trở về trại ngay, cho nên vị bác sĩ nọ chỉ có được thời gian chữa trị giúp tăng thị lực cho một con mắt.

Ngoài ra, theo thông tin từ những tù nhân vừa mới ra tù gần đây cho biết, truớc Tết năm 2010, ban giám thị trại tù đã gọi anh Cầu lên và khuyên anh làm đơn xin đặc xá trong dịp Tết nhưng anh Cầu đã khẳng khái từ chối bởi lẽ anh cho rằng, làm như vậy tức là thừa nhận mình phạm tội, phủ nhận tất cả những chứng cứ tội ác của các quan đứng đầu tỉnh Kiên Giang mà anh đã bỏ công thu thập trước đây, phản bội lại các nhân chứng và chính bản thân mình.

Anh Cầu và các tù nhân chính trị hiện đang bị nhà tù Việt Cộng tìm cách giết lần, giết mòn bằng nhiều cách khác nhau, mà độc ác nhất là cho lây lan căn bệnh ác tính HIV từ những tù hình sự nhiễm bệnh. Chiêu này quả là “cao siêu”, không có nhà tù nào trên thế giới hiện nay có thể nghĩ ra.

34 năm đã là hơn nửa đời người. Những tù nhân lương tâm với số phận nghiệt ngã như anh Nguyễn Hữu Cầu, Trương Văn Sương và biết bao ngưuời khác, sẽ còn được bao nhiêu năm nữa để sống trong nhà tù cộng sản đây?

Hãy cất lên những tiếng nói lương tâm, đừng để các anh phải chết tức tửi, tủi nhục trong nhà tù cộng sản.

Xin đừng đợi đến khi các anh trở thành những cái xác không hồn trong những nấm mồ hoang lạnh. Đến khi đó, một nén nhang hay một bông hồng trên nấm mồ sẽ không có ý nghĩa gì.

Xin đừng quên các anh, những thân phận nghiệt ngã.

Sydney, 18/06/2010
Lê Minh
(Viết nhân ngày 19/6 để vinh danh anh Nguyễn Hữu Cầu, một cựu sĩ quan QL VNCH, hiện vẫn còn trong lao tù cộng sản sau 34 năm tù nghiệt ngã)

Đính kèm:
Bản nhạc “Noel Hoà Bình” do anh Nguyễn Hữu Cầu sáng tác vào dịp Noel năm 2008 (gồm bản gốc viết tay trong tù, và bản đánh máy lại)





Hãy vạch mặt chỉ tên bọn Việt Gian Cộng Sản - Lê Duy San

    ĐỪNG SỢ BỊ KIỆN VỀ TỘI PHỈ BÁNG HAY VU CÁO
    HÃY VẠCH MẶT CHỈ TÊN NHỮNG TÊN THÂN CỘNG
    NHƯNG ĐỪNG CHỤP MŨ
* Hãy vạch mặt chỉ tên bọn Việt Gian Cộng Sản
* Nhưng đừng chụp mũ ai là Việt Cộng hay Cộng Sản nằm vùng

Lê Duy San

Năm 1975, sau khi cưỡng chiếm được toàn miền Nam, bọn Việt Cộng đã tìm mọi cách để bỏ tù cả trăm ngàn quân cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, đảng phái chính trị và văn nghệ sĩ cùng tất cả những ai mà chúng nghi là có thể chống đối chúng. Không những thế, bọn Việt Cộng còn tìm mọi cách để cướp đoạt tiền bạc, của cải và tài sản của người dân miền Nam bằng những chính sách mà chúng gọi là đổi tiền, đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp, kinh tế mới. Vì thế đã có cả triệu người phải tìm mọi cách để bỏ nước ra đi dù biết rằng có thể bỏ mạng trong rừng sâu hay trên biển cả. Do đó, tại hải ngoại, hễ cứ nghe nói tới hai chữ Việt Cộng, là người Việt tỵ nạn Cộng Sản lại nổi giận và liên tưởng tới một bọn người độc ác dã man, chuyên cướp của, giết người. Chính vì thế vào thập niên 80, chúng ta không lấy làm lạ tại sao tên chủ báo Cái Đình Làng Dương Trọng Lâm đã bị bắn chết tươi ở San Francisco vào năm 1980, Trần Khánh Vân cựu Tổng Cục Gia Cư thời VNCH đã bị thày giáo Trần Văn Bé Tư bắn trọng thương ở Nam Cali vào năm 1984 và Đoàn Văn Toại tên thân Cộng thuộc thành phần thứ ba, đã bị bắn bể quai hàm ở Fresno, California vào năm 1989, mặc dầu những tên này không phải là Việt Cộng chính hiệu mà chỉ thuộc loại thân Cộng hoặc có những hành vi có lợi cho Việt Cộng mà thôi.

Từ thập niên 90, tức từ khi Mỹ bỏ cấm vận đối với VN và ký bang giao với VN thì nhiều người Việt tỵ nạn Cộng Sản, vì nhớ thương người thân còn kẹt lại VN và mấy anh già mất nết đã kéo nhau về VN du hí khiến tinh thần chống Cộng sút giảm, nhất là mấy anh thương gia (1), ngửi thấy có lợi nếu bắt tay với Việt Cộng nên đã không những quên hết thù hận xưa mà còn nghe theo lời dụ dỗ Hoà Hợp, Hoà Giải của Việt Cộng để cộng tác làm ăn với chúng. Thực ra thì bọn Việt Cộng thực tâm cũng chẳng muốn Hoà Hợp Hòa Giải gì mà chúng chỉ muốn người Việt hải ngoại đừng chống đôi chúng nữa và đem tiền bạc về cùng chúng làm ăn.

Ngày nay, bọn Việt Cộng cũng chẳng còn chính nghĩa gì để bấu víu nên chúng muốn lợi dùng tình trạng này để xóa bỏ làn ranh Quốc Cộng và hoá giải hết mọi sự chống đối. Nhưng nhiều người vẫn ngu muội, tưởng thật nên không những đã ngang nhiên về VN làm ăn buôn bán với Việt Cộng, ngang nhiên họp hành, ăn uống, du hí với Việt Cộng mà còn công khai viết bài ca tụng bọn Việt Cộng, lập cả Hiệp Hội Doanh Nhân để hỗ trợ cho những người muốn làm ăn buôn bán với Việt Cộng. Trước sự ngang nhiên và thách đố này, nhiều người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đã phải lên tiếng vạch mặt chỉ tên bọn người thân Cộng này trong đó có cả một số trí thức vô liêm sỉ ham danh, hám lợi như chúng ta đã thấy.

Nhiều người quá hăng say trong việc tố cáo này đã dùng những lời lẽ qúa đáng khiến bọn chúng đã có thể vin vào đó mà kiện về tội phỉ báng hay vu cáo để làm người khác sợ mà không dám vạch mặt chỉ tên bọn chúng. Thực ra đây chỉ là phương cách dùng tiền bạc để cả vú lấp miệng em, để áp đảo tinh thần người khác. Nếu chúng ta có chứng cớ rõ ràng thì việc khiếu tố chúng ta về tội phỉ báng cũng không phải là điều dễ dàng.

Phỉ báng là việc đưa ra những lời lẽ tuyên bố sai sự thật về tư cách hay việc làm của một người khác làm người đó bị tác hại về tinh thần hay vật chất. Phỉ báng cũng có thể là một một đoạn văn viết sai sự thật về một cá nhân hay đoàn thể nào đó được bản in ấn trong một tờ tạp chí hay trên một tờ báo.

I. Thông thường, các yếu tố của một nguyên nhân gây nên hành động phỉ báng phải bao gồm (2):

1. Một lời nói xấu hay một báo cáo sai sự thật liên quan đến người khác.

2. Sự phổ biến lời tuyên bố về một người nào đó để cho đệ tam nhân biết đến trong các ấn phẩm mà không có đặc quyền (như báo chí).

3. Nếu sự phỉ báng thuộc lãnh vực quan tâm công cộng, thì ít nhất có thể quy lỗi một phần cho sự sơ xuất của nhà xuất bản.

4. Có gây thiệt hại cho đối phương.

Tội phỉ báng (defamation / libel) hay vu cáo (slander) theo luật pháp Hoa Kỳ, nó không phải là một tôi hình sự như luật pháp của Việt Nam trước năm 1975. Ở VN trước năm 1975, một người bị truy tố về tội phỉ báng hay vu cáo, nếu có tội, có thể bị phạt vạ (tiền) hay phạt tù, nhưng về bồi thường thiệt hại thì chỉ được bồi thường $1 danh dự mà thôi. Trái lại ở Hoa Kỳ, như trên đã nói, tôi phỉ báng không phải là một tội thuộc về hình sự. Vì không phải là một tội hình sự, nên không bị phạt vạ hay phạt tù mà chỉ phải bồi thường thiệt hại; nhưng tiền bồi thường thiệt hại lại rất cao, có thể từ vài trăm ngàn tới vài chục triệu, tùy theo sự chứng minh của nguyên cáo (plaintiff) và được Toà chấp nhận ở mức độ nào.

II. Tiến trình xử một vụ án về tội phỉ báng hay vu cáo, thường qua một quy trình tố tụng dân sự và hầu hết do bồi thẩm đoàn xét xử. Lời phỉ báng có thể căn cứ vào lời nói tại chốn công cộng như buổi họp công cộng hay tại bữa tiệc cộng cộng hay trên truyền thanh, truyền hình hoặc những bài viết trên báo chí, trên diễn đàn công cộng.

1. Người đứng đơn kiện tức bên nguyên đơn (plaintiff) có bổn phận phải chứng minh nhữ ng điều bị đơn (defendant) nói về mình là sai, là không đúng sự thật.

2. Đối với những nhân vật được gọi là nhân vật của quần chứng (public figure) mà vác đơn đi kiện thì lại càng khó hơn chứ không như những người thường dân là những người được luật pháp bảo vệ nhiều hơn. Nguyên đơn không những phải chứng minh những lời nói đó là sai, là không đứng sự thật mà còn phải chứng minh là bị đơn ( defendant) thực sự đã có ác ý và thiếu thận trọng.
(Xin thêm phần quyền tự do ngôn luận của báo chí (media).

Để vạch mặt chỉ tên những tên trí thức vô học nhưng hám danh, những tên gian thương vô liêm sỉ nhưng hám lợi này, chúng ta thường dùng chữ thân Cộng. Nhưng nhiều người nghĩ rằng danh từ thân Cộng không đủ mạnh để chỉ những phần tử vô học, vô liêm sỉ này, nên thường dùng thêm những chữ khác như bưng bô hay nâng bi hay Việt gian.

Thực ra bưng bô hay nâng bi cũng chỉ có nghĩa là nịnh nọt, bợ đỡ (flatter) mà thôi. Viết một bài tâng bốc Việt Cộng là nịnh bợ Việt Cộng rồi. Pro-communist hay communist flatterer hay communist sympathizer thì cũng chẳng khác nhau gì. Còn dùng chữ Việt gian để gọi họ thì không đúng lắm. Chúng ta còn nhớ, ,khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ nào ngày 19/12/1946, tất cả những người không theo Việt Minh như các đảng viên Việt Cách, Việt Quốc đều bị Việt Minh gọi là Việt gian mặc dầu nhiều người chẳng hợp tác với Pháp ngày nào. Ngày nay, một số người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tự phủ nhận tư cách tỵ nạn Cộng Sản của mình bằng cách giao tiếp hoặc làm ăn buôn bán với Việt Cộng nên bị gọi là Việt gian thì cũng chẳng khác gì trước kia bọn Việt Minh gọi những người quốc gia là Việt gian. Tuy nhiên, chúng ta không thể gọi những ai không đồng quan điểm chính trị với mình trong công việc chống Việt Cộng là Việt gian.

Tóm lại, dù dùng chữ gì, thì nó cũng chỉ có nghĩa là thân Cộng mà thôi. Bọn Việt Cộng là bọn độc ác, dã man và tàn bạo. Chúng chuyên cướp của giết người. Những kẻ thân thiết với bọn này thì tư cách của họ cũng chẳng khác gì bọn này. Vì thế, mỗi khi bị người khác bảo là thân Cộng, chúng rất lấy làm nhục nhã nên chúng phải bỏ tiền ra để đi kiện cho bớt nhục. Chứ thực ra chúng cũng thừa biết nếu có được bồi thường thì cũng Tết Congo mới đòi được. Thường thường những người dám ăn, dám nói lại là những người trên răng, dưới dế. Kiện những người này không những tốn tiền tốn bạc mà nhiều khi còn rước thêm nhục nhã vào thân vì là cơ hội để cho báo chí truyền thông khai thác, mỉa mai và đàm tiếu. Tuy nhiên để phòng hờ những kẻ cậy tiền kiện tụng lôi thôi làm phiền hà chúng ta, chúng ta chỉ cần nói rõ những hành động bợ đỡ, nịnh nọt hay những hành vi giao tiếp của bọn chúng với bọn Việt Cộng hoặc dùng chữ thân Cộng là đủ.

Hơn nữa, chữ thân Cộng là chữ chúng dễ chứng minh nhất. Muốn nói ai thân Cộng, chúng ta chỉ cần có những hình ảnh người đó đã đứng chụp chung với một tên Việt Cộng nào đó, những hình ảnh mà chúng đã tham dự những buổi liên hoan, tiếp tân của Việt Cộng tại đâu, vào ngày nào, những bài viết trên báo hay những bài diễn văn mà họ đã viết hay đã đọc để ca tụng Việt Cộng chứ không thể nói khơi khơi một cách vô bằng cớ.

Ngoài ra lại còn tùy người viết, người đọc là thành phần nào. Cùng một sự kiện, nhưng đối với người này, chúng ta có thể bảo họ là người thân Cộng, nhưng đối với người khác thì lại không. Thí dụ như trường hợp dân biểu liên bang Cao Quang Ánh cùng 2 dân biểu liên bang khác là Eni Faleomaega và Michael M. Honda trong chuyến công du VN đã tới thăm tên Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Cộng là Nguyễn Thanh Sơn và chụp hình chung với tên này và bị tên Việt Cộng này quàng cổ, bá vai cười toe toét, nhưng chúng ta cũng không thể nói là ông ta là người thân Cộng. Trái lại, nếu một người Việt tỵ nạn bình thương khác hay một ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn nào đó đã tới thăm chúng và được chúng tiếp đón như vậy thì chúng ta lại có thể nói họ là người thân Cộng (pro-communist).

Thực ra thì bảo một người nào đó là thân Cộng thường thì chúng ta đã biết rõ những hoạt động hay những giao tiếp của họ với Việt Cộng, nên việc chứng minh thường không khó khăn. Nhưng chụp mũ ai là Việt Cộng hay là Cộng Sản nằm vùng là điều tuyệt đối nên tránh vì chúng ta không phải là CIA mà có thể kiếm được những bằng chứng cụ thể trừ phi chúng là những tên Việt Cộng có chức, có quyền rõ ràng như những tên bán nước Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Văn An, Nguyễn Chí Vịnh v.v…thì không kể.
Trong bài “Luật về tội phỉ báng ở Hoa Kỳ”, tác giả Steven Prerssman viết: “Floyd Adam, một luật sư ở New York, người chuyên đại diện cho các tổ chức truyền thông, ước tính trong các vụ kiện do bồi thẩm đoàn giải quyết những người khiếu kiện tội phỉ báng giành phần thắng trong khoảng 75% số vụ. Tuy nhiên, giới truyền thông luôn đảo ngược được cáo trạng của bồi thẩm đoàn nếu họ kháng cáo lên tòa án cấp cao hơn. Abrams nói rằng nguyên nhân là do các bồi thẩm viên thường không hiểu đầy đủ hoặc không áp dụng các chuẩn mực pháp lý thích hợp liên quan đến vụ kiện. Do đó, nếu chẳng may thua kiện ở giai đoạn đầu chúng ta cũng đừng lo sợ, cứ bình tâm kháng cáo lên tòa phúc thẩm, chắc chắn sẽ thắng lợi.

Lê Duy San
____________________________
Chú thích:
(1). Trong một bàn phú, cụ Nguyễn Công Trứ có viết: “Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên” Dân có bốn hạng, đó là Sĩ Nông Công Thương. Sĩ là hạng người đứng đầu và là hạng người được trong vọng nhất. Còn hạng người làm thương mại bị khinh thường nhất nên bị xếp vào hạng cuối cùng của bực thang xã hội. Ngày nay sống ở Hoa Kỳ, chúng ta thấy người Hoa Kỳ cũng coi những người trí thức như Bác Sỉ, Luật Sư v.v..nếu mở văn phòng riêng thì cũng thuộc vào giới business tức giới làm thương mại và không có giới nào đáng trọng hay đáng khinh hơn giới nào.
(2) Tham khảo “Defamation, Libel and Slander Law” của Aaron Larson.
(3) Tham khảo “Luật về tội phỉ bang ở Hoa Kỳ” của Steven Prerssman.

Saturday, June 19, 2010

Xã hội dân chủ tự do tây phương

World Naked Bike Ride



Cyclists strip in protest against traffic

AFP: Cyclists stripped naked and braved the elements in Brussels for the annual two-wheel nude demonstration "cyclonudista" against car traffic in cities.

Wind and rain battered down on some 50 bare-bottomed Belgians yesterday, and police stopped two stark naked protesters for infringement of decency before quickly releasing them after friends circled the police vehicle.

"The nudity has allowed the protest to gain visibility in the media," one of the organisers Jerome Nature said. "You need to be seen to be heard."

But, he stressed, stripping off was a means to an end.

"Please do not reduce us to it," he said.

The cyclists were protesting over "public space being monopolised by cars, which impose their law on us: aggression, speed, danger and pollution, transforming cities into hostile places," he said.

The "cyclonudista" manifesto instead called for free, ecological public transport, car-free cities open to cyclists and pedestrians only, and a clampdown on car and air travel advertising.

The first "cyclonudista" protest took place in Saragossa in Spain 10 years ago has since become an annual ritual.

The European Commission will discuss on Wednesday a carbon tax that could also support the development of renewable forms of energy.

Source: http://au.news.yahoo.com/a/-/odd/7427849/cyclists-strip-in-protest-against-traffic/






























Wednesday, June 16, 2010

người dân đang sung sướng sống dưới thiên đường xã hội chủ nghĩa







Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi Thư Phản kháng lãnh đạo Hà Nội cấm cử hành Lễ Phật Đản


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO

Thanh Minh Thiền Viện
90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon
Phật lịch 2554
Số 10 /VHĐ/VT

Thư phản kháng về việc ngăn cấm cử hành
Đại lễ Phật Đản
    Đồng kính gửi :
    Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch CHXHCNVN
    Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CHXHCNVN
    Ông Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
    Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN

    Phật lịch 2554 - Saigon, ngày 7.6.2010

    Kính thưa quý Ông,
Nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi viết thư hôm nay phản đối việc chính quyền cùng các cơ quan công an, Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đã ngăn cấm không cho Giáo hội chúng tôi cử hành Đại lễ Phật Đản tại chùa Giác Minh do Hòa thượng Thích Thanh Quang trú trì.

Không nói, quý ông cũng biết rằng đạo Phật du nhập nước ta đã 21 thế kỷ, đại lễ Khánh đản ngày đức Phật ra đời trở thành ngày lễ của dân tộc, của đại đa số nhân dân theo đạo Phật. Ngay dưới thời Pháp thuộc, một nước Tây phương không cùng tín ngưỡng với Phật giáo cũng chưa hề có sự kiện cấm đoán Đại lễ Phật Đản.

Kể từ năm 1999, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã công nhận Lễ Phật Đản (Vesak) là ngày linh thiêng của Phật giáo đồ trên thế giới nên chỉ thị mỗi năm đến ngày này LHQ thiết trí cử hành trang nghiêm Ngày Phật Đản Quốc tế.

Thế nhưng năm nay, lễ Phật Đản Rằm tháng Tư âm lịch, tức 28.5.2010, tại chùa Giác Minh lại bị cấm đoán, đi ngược truyền thống dân tộc và phản chống quyết định của LHQ mà Việt Nam là quốc gia thành viên.

Chùa Giác Minh tọa lạc tại địa chỉ số K356/42 đường Hoàng Diệu – thành phố Đà Nẵng, là nơi đặt trụ sở của Ban Đại Diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, đồng thời là Văn Phòng Tổng Vụ Thanh Niên thuộc Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, và Văn Phòng Gia Đình Phật Tử Vụ Gia Đình Phật tử Việt Nam.

Hàng trăm cán bộ chính quyền, Công an, Mặt Trận, Dân phòng đã bao vây chùa, khống chế đồng bào Phật Tử không cho vào chùa tham dự Đại Lễ Phật Đản. Xô xát, xua đuổi, dọa nạt, chưởi bới thô tục các em Gia Đình Phật Tử từ các Huyện về dự lễ bị chận lại bên ngoài chùa.

Từ ngày 19.5.2010, Hòa Thượng Thích Thanh Quang, Chánh Đại Diện Giáo hội, đã nhận được giấy mời do ông Nguyễn Phú Dũng, Chủ tịch Phường Bình Hiên ấn ký, bắt buộc đến trụ sở chính quyền để “làm việc liên quan đến Lễ Phật Đản”. Giấy mời không trực tiếp đề gửi Hòa thượng trú trì chùa Giác Minh, mà chỉ ghi “Anh Phạm Văn Phải” tức thế danh Hòa thượng, chứng tỏ cung cách xử sự thiếu văn hóa và lễ nghi đồng thời miệt thị hàng giáo phẩm tôn giáo.

Vào tối ngày 27.5, công an và dân phòng bất thần đến khám xét chùa gọi là kiểm tra hộ khẩu với thái độ hạch xách dữ dằn. Qua ngày 28.5, ngày chính thức cử hành Đại Lễ Phật Đản, từ sáng sớm hàng trăm cán bộ, công an, dân phòng kéo đến bao vây Chùa Giác Minh, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Bằng một hàng rào công an, tất cả các ngã đường đến Chùa Giác Minh bị kiểm soát chặt chẽ. Phật tử các nơi về dự lễ đều bị ngăn chận. Không một đồng bào, Phật tử nào bước được vào chùa. Một số Phật tử liều mạng xông vào thì bị xô đẩy thô bạo tiếp theo những lời chửi bới tục tằn.

Các đoàn xe chở các em Gia Đình Phật Tử từ các huyện Đại Lộc, Núi Thành về dự lễ cũng bị chận tại đường Hoàng Diệu. Hai Huynh trưởng Đoàn Thanh Thông, Hồ Đủ đến gặp đại diện chính quyền hỏi lý do thì bị một số côn đồ xông vào chửi bới, xô đẩy, đòi đánh. Nhận thấy tình hình quá căng thẳng nên anh Thông và anh Đủ cho các em xuống xe ngồi trên lề đường chờ công an giải quyết, không ngờ một số cán bộ, phụ nữ, dân phòng ào tới xua đuổi các em xuống lòng đường. Ở lòng đường lại bị công an áp tới la mắng. Cho tới 9 giờ sáng, dù không có một Phật Tử nào vào được chùa, Hòa Thượng Thích Thanh Quang quyết định vẫn cử hành Nghi Lễ Khánh Đản như chương trình đã dự định do Chư Tăng bổn tự thực hiện. Từ các hẽm và các đường bao quanh chùa, Phật tử không biết làm gì khác hơn, là đứng tại chỗ nhất tề chắp tay trước ngực hướng về chùa cầu nguyện khi nghe chuông trống bát nhã cất lên. Một số các sư cô trong chùa tìm cách mang nước uống, trái cây và bánh mì ra cho các em đoàn sinh Gia Đình Phật tử bị đói khát ngoài đường, thì bị cán bộ, dân phòng chận lại không cho tiếp tế, và cũng không cho các cô trở vào chùa !

Một số chùa khác trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng bị hăm dọa, sách nhiễu, bắt đi làm việc, cấm Phật tử tụ tập về chùa trong ngày Phật Đản, như trường hợp Chùa An Cư, thuộc Quận Sơn Trà do Đại Đức Thích Thiện Phúc trụ trì.

Một số nơi tại Thừa Thiên - Huế cũng lâm hoàn cảnh tương tự, như trường hợp Khuôn hội và Gia Đình Phật tử Hòa Đa Tây thuộc xã Phú Đa, huyện Phú Vang, đã bị Chính quyền và Công An đến hạch xách ngay trong ngày Phật Đản (28.5), lập biên bản tịch thu lịch Xuân Canh Dần của Hội Đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, treo tại Niệm Phật Đường. Tuy có lập biên bản tịch thu nhưng từ chối để lại chùa bản sao như luật định.

Ngày 02/6/2010, Chính quyền và Công an cũng đã đến sách nhiễu tương tự tại Niệm Phật Đường Hà Úc thuộc xã Vinh Thanh, và Niệm Phật Đường An Bằng thuộc xã Vinh An, bắt buộc phải giao nộp bản Lịch Xuân Canh Dần của Hội Đồng Lưỡng Viện.

Chúng tôi thường nghe những lời tuyên bố của Nhà nước với chính giới và cơ quan truyền thông quốc tế rằng “Nhà nước tôn trọng tự do tôn giáo”. Nhưng hoàn cảnh của bản thân tôi vẫn tiếp tục bị quản chế khắc khe tại Thanh Minh Thiền Viện cho tới hôm nay. Tôi không được quyền tự do đi lại, mất quyền tiếp xúc với Phật tử và cũng không được quyền thuyết pháp và sinh hoạt tôn giáo cho tín đồ ngay trong một ngôi chùa !

Ngày 16.3.2010, ông Thor Halvorssen, Chủ tịch Sáng hội Nhân quyền có trụ sở ở New York, Hoa Kỳ, đến thăm tôi, khi rời Thiền viện đã bị bốn công an nhào tới đánh vào đầu và bầm tím lưng, sau đó câu lưu mấy giờ đồng hồ chỉ vì “cái tội” đến thăm tôi và “vào ngôi chùa không được nhà nước công nhận”. Như thế gọi là tự do tôn giáo ư ?

Hai mươi Ban Đại Điện thuộc Giáo hội chúng tôi tại các tỉnh Miền Trung và Miền Nam không ngừng bị sách nhiễu, khủng bố tinh thần, và cấm không cho hoạt động dù đó là hoạt động từ thiện xã hội, tín ngưỡng hay giáo dục.

Tôi cực lực phản đối những hành vi xâm phạm sinh hoạt tôn giáo, đặc biệt trong ngày Đại lễ Phật Đản vừa qua tại các nơi thượng dẫn.

Yêu cầu Đảng và Nhà nước có thái độ xử trị với các cấp chính quyền, công an địa phương tại Đà Nẵng và Huế, nếu đây không phải là chính sách đàn áp lễ Phật Đản hoạch định từ trung ương.

Yêu cầu hủy tiêu tình trạng quản chế của hàng giáo phẩm thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà tôi là trường hợp điển hình. Bằng như Nhà nước thấy chúng tôi có tội, thì hãy công khai đưa chúng tôi ra tòa án xét xử phân minh, với quyền biện hộ của luật sư do chúng tôi chọn lựa, cùng với sự có mặt của các cơ quan truyền thông, báo chí quốc tế, và các nhân viên các Đại sứ quán nước ngoài.

Yêu cầu Đảng và Nhà nước có văn bản chính thức phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, để chấm dứt tình trạng đàn áp, sách nhiễu, hăm dọa không còn xẩy ra cho hai mươi Ban Đại diện của chúng tôi tại các tỉnh Miền Trung và Miền Nam.

Thanh Minh Thiền viện, Saigon
Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ

Tuesday, June 15, 2010

Giáo gian tòng phạm với tội ác cộng sản Việt Nam - Nguyễn Phúc Liên



    CHỐNG LẠI TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM LÀ TÒNG PHẠM VỚI TỘI ÁC CSVN
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế

Khi Hồng y Phạm Minh Mẫn và Gm Nguyễn Văn Khảm nói lòng vòng để đưa đến kết luận rằng những Giáo dân hay Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ ủng hộ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM là phản lại Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ, là không theo Công Đồng Vatican II, khi Hồng y Phạm Minh Mẫn dám nói rằng TGM Ngô Quang Kiệt xin từ chức là vì lý do Lương tâm, đó là có ý xấu kết án TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM tự xuất phát từ Giáo dân mà TGM Ngô Quang Kiệt dám can đảm đứng đầu sóng ngọn gió đại diện.

Với bài này, chúng tôi muốn chứng minh rằng việc quyết tâm bảo vệ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM không những không phải là chống Giáo Hội mà ngược lại là làm Giáo Hội hãnh diện với tinh thần của mình. Giáo dân Công Giáo Việt Nam là thành phần của Dân Tộc. Khi đặt TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM như «sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc« , chúng tôi muốn kết luận rằng những ai làm tay sai cho CSVN để diệt TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM là những kẻ tòng phạm với tội ác CSVN nhằm tiếp tục áp đặt BẤT CÔNG thêm nữa cho Xã Hội Việt Nam.

Chúng tôi bàn vấn đề dưới những khía cạnh sau đây:
    Hình thành TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM
    Những kẻ làm mất thanh danh Giáo Hội CGVN
    Những kẻ tòng phạm với CSVN phản lại Dân Tộc VN
    Ai làm tay sai CSVN làm hại Vatican ?
Hình thành TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM

TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM được Giáo dân, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ làm sống mạnh trong tâm hồn và giơ cao lên như biểu tượng hướng dẫn hành động bảo vệ Giáo Hội, đồng thời thực hành “sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc“ đặt nền tảng vững chắc trên ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM theo lời dậy của Chúa Giêsu và được soi sáng bởi Thánh Linh. Không ai vượt qua Lời Dậy của Phúc Âm và do đó không ai có quyền, ngay cả Đức Giáo Hoàng, mạ lỵ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM, con đẻ của ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công Giáo. Những ai mạ lỵ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM là mạ lỵ ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công Giáo, sẽ được xếp vào phía Satan phá hoại.

Ngày 06.01.2010, CSVN phạm thánh đối với Công Giáo, không phải chỉ đối với Đồng Chiêm, mà còn đối với Giáo Hội Công Giáo VN, đối với Giáo Hội Công Giáo Hòan vũ và đối với tất cả các Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Tin Lành, Chính Thống Giáo và Anh Giáo. Tất cả các Giáo Hội này lấy THÁNH GIÁ làm biểu tượng hữu hình cho ĐỨC TIN vào ơn cứu rỗi mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể nhận lấy tội trần gian trên Thánh Giá. Chính trên cây Thánh Giá, Philatô cho ghi INRI (Giêsu Nazaret, Vua Dân Do Thái), nhận Vương Quyền của Chúa Giêsu.

Tại Tòa Khâm sứ, tại Xứ Thái Hà, CSVN có thể lấy ra vấn đề Đất đai để hạ thấp ý tưởng đấu tranh cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH. Tại Tam Tòa, CSVN cũng nại ra vấn đề di tích Chiến tranh. Nhưng tại Đồng Chiêm, không có vấn đề đất đai hay di tích chiến tranh mà CSVN đã bạo hành đánh đập Giáo dân, nhất là đàn bà.

Tại Đồng Chiêm, CSVN đã phạm một sai lầm rất lớn, đó là động chạm đến THÁNH GIÁ, biểu tượng hữu hình của ĐỨC TIN THIÊN CHÚA GIÁO. Thực vậy, trung tâm điểm của Đức Tin Thiên Chúa Giáo là cây Thánh Giá.

Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể và đã chịu chết trên cây THÁNH GIÁ để cứu Nhân lọai. Đó là trung tâm của Đức Tin vào sự Cứu Rỗi mà mọi người theo Thiên Chúa Giáo nhìn vào đó để hành đạo. Thập tự giá thời Đế quốc La Mã là một hình phạt cho những người bị kết án tử hình. Chúa Giêsu đã biến thập tự giá hình phạt mà ai cũng sợ hãi thời La Mã thành cây THÁNH GIÁ biểu tượng tình Thương yêu cứu rỗi Nhân Lọai. Cây THÁNH GIÁ được kính trọng bởi mọi Tín đồ Thiên Chúa Giáo: Công Giáo, Chính Thống Giáo, Tin Lành cũng như Anh Giáo.

Ngoài việc cây THÁNH GIÁ biểu tượng hữu hình cho Đức Tin, cây THÁNH GIÁ còn là phương tiện mà Chúa Giêsu thiết lập Vương quyền. Năm 1925, Đức Giáo Hòang PIO XI đã tuyên bố LỄ CHÚA GIÊSU VUA, Vương quyền trên THÁNH GIÁ. Thánh Bộ Phụng Tự đã trích Phúc Aâm Thánh Gioan (Jn 18, 33-37), theo đó Vương quyền của Ngài được tuyên xưng trong mùa Phục Sinh và kết thúc trên cây THÁNH GIÁ. Philato đã cho viết tấm bảng INRI (Giêsu Nazaret, Vua dân Do Thái) đóng trên cây THÁNH GIÁ.

Phạm đến cây THÁNH GIÁ là phạm vào sự thánh, vào ĐỨC TIN GIÁO DÂN, vào VƯƠNG QUYỀN CHÚA GIÊSU.

Ngay thời Vua, Chúa cấm đạo, các Vua, Chúa cũng đã hiểu ý nghĩa phạm sự thánh này. Các Vua Chúa chỉ yêu cầu Tín hữu bước qua cây THÁNH GIÁ, là được tha chết. Giáo dân biết rằng bước qua cây THÁNH GIÁ là chối bỏ ĐỨC TIN.

Tại Dồng Chiêm, CSVN đập phá cây THÁNH GIÁ, tức là mạ lỵ chính ĐỨC TIN người Thiên Chúa Giáo vậy.

Những kẻ làm mất thanh danh Giáo Hội CGVN

TGM Ngô Quang Kiệt chỉ là một cá nhân đã can đảm chấp nhận đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió đại diện cho TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM. Nguyễn Thế Thảo, CSVN muốn loại cá nhân Ngô Quang Kiệt ra khỏi địa bàn Hà Nội nhằm triệt hạ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM.

Trong thời gian gần đây, một số Giám mục làm tay sai cho Nguyễn Thế Thảo, cho CSVN, khuynh đảo cả Hội Đồng Giám mục Việt Nam để loại trừ TGMNgô Quang Kiệt và thay thế vào đó một Giám mục, Gm.Nguyễn Văn Nhơn, đã từng tích cực hợp tác với đám ngợm Giáo gian quốc doanh Phan Khắc Từ, Nguyễn Tấn Khóaca tụng Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo, một Văn Bản kèm kẹp mọi Tôn Giáo. Việc loại bỏ và thay thế này đối với một Chủ chăn can đảm đại diện cho TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM là hành động phản lại ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công Giáo, nền tảng của TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM. Đối với trách nhiệm điều hành Giáo Hội, việc làm tay sai cho CSVN để thực hiện chủ trương triệt hạ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM là việc đặt cả một Hội Đồng Giám mục, đại diện Giáo quyền, bên dưới Thế quyền của quân Pharisiêu CSVN. Khi Hồng y Phạm Minh Mẫn nói rằng TGM Ngô Quang Kiệt xin từ chức là vì “lý do Lương Tâm“ là có ý xấu mạ lỵ Lương Tâm TGM Kiệt đã theo TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM và do đó mạ lỵ chính TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM, mạ lỵ cả ĐỨC TIN và LƯƠNG TÂM Công Giáo do chính Chúa Giêsu dậy.

Việc âm mưu làm tay sai cho CSVN để kéo theo cả một Hội Đồng Giám mục VN đặt Thế quyền bên trên Giáo quyền trong chủ trương phá hoại TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM là hành động làm mất thanh danh Giáo Hội Công Giáo VN vậy.

Những kẻ tòng phạm với CSVN phản lại Dân Tộc VN

Ở đoạn trên, chúng tôi phân tích vấn đề thuần túy trong phạm vi Tôn Giáo. Nhưng những Giáo dân, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ, Giám mục là người Việt Nam. Tất cả sống trong lòng Dân Tộc Việt Nam. Cái vui, cái buồn, cái đau khổ của Dân Tộc cũng là cái vui, cái buồn, cái đau khổ của người Công Giáo Việt Nam. Người Công giáo không thể reo hò vui mừng khi xây một Thánh Đường to lớn do CSVN ưu đãi với ý đồ bắt mình làm tay sai trong khi ấy những bà mẹ già hem hễ mất cả nhà đất không có nơi che nắng mưa và trồng cấy rau cỏ nuôi con. Đây không phải là tưởng tượng mà là cụ thể nhan nhản ở Vườn Hoa Mai Xuân Thưởng tại chính Thủ đô Hà Nội.

Họ là những người bị quân ăn cướp đánh trọng thương nằm bên lề đường. Hãy mở Phúc Âm đọc chính tỉ dụ mà Chúa Giêsu dậy:

“Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêsricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” (Lc 10, 30-35)

Chúa Giêsu để chúng ta kết luận thẩm định giữa ba người Samari, thầy Lêvi và thầy Tư tế.

Thực hành điều răn thứ hai là yêu người như chính mình ta vậy, người Công giáo không thể lạnh lùng làm ngơ sống ích kỷ như thầy Lêvi và thầy Tư tế trước cảnh Dân TộcViệt bị kẻ cướp CSVN áp đặt BẤT CÔNG đánh trọng thương. Người Công Giáo đồng hành với Dân Tộc để chống BẤT CÔNG, đòi CÔNG LÝ theo TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM không phải là hành động Chính trị mà là tích cực thực hiện Tình yêu mà Chúa dậy như người Samari đã can đảm thực hiện lòng thương sót.

Một số Giám mục làm ngơ trước những cướp bóc đánh đập dân chúng của CSVN, giống như thầy Tư tế và thầy Lêvi, đã bị Chúa Giêsu chê trách rồi. Nhưng số Giám mục này còn làm tay sai cho CSVN tiếp tục gây tội ác đối với Dân, giống như thầy Lêvi và thầy Tư tế không những đã không cứu giúp người bị trọng thương nằm bên đường mà còn ngăn cản người Samari không được cứu vớt người trọng thương, thậm chí còn khuyến khích CSVN cứ tiếp tục cướp bóc, đánh đập Dân chúng nữa.

Âm mưu với CSVN loại TGM Ngô Quang Kiệt nhằm triệt hạ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM đúng là hành động tòng phạm với TỘI ÁC CSVN đang cướp bóc, đánh đập Dân Tộc Việt Nam. Những Giám mục âm mưu với CSVN hãy nghĩ mình đang tòng phạm với TỘI ÁC bằng cách triệt hạ TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM, một tinh thần cùng đấu tranh chống BẤT CÔNG, đòi CÔNG LÝ với Dân Tộc. Xấu hổ thay khi không cứu giúp người bị trọng thương nằm bên đường, mà còn ngăn cản người Samari muốn thực hiện tình Thương yêu.

Ai làm tay sai CSVN làm hại Vatican ?

Chúng tôi xin nhắc lại rằng khi bảo vệ và phát huy TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM, chống lại những loại người như thầy Lêvi, thầy Tư tế, nhất là chống lại những kẻ làm tay sai cho CSVN làm mất thanh danh của Giáo Hội CGVN, tòng phạm với TỘI ÁC CSVN tiếp tục cướp bóc gây BẤT CÔNG nữa cho Dân Tộc, chúng tôi không những không chống lại Vatican, mà ngược lại còn bảo vệ Giáo Hội Hoàn Vũ khỏi tai tiếng đã hợp tác với Thế quyền CSVN Pharisiêu.

Thực vậy, Vatican đã can thiệp hai lần ngăn cản Giáo dân Tổng Giáo phận Hà Nội “sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc“, cùng Dân tộc chống BẤT CÔNG, đòi CÔNG LÝ.

Lần thứ nhất can thiệp là cấm Giáo dân cầu nguyện ở khuôn viên Tòa Khâm sứ cho CÔNG LÝ và HÒA BÌNH. Lần thứ hai can thiệp là làm theo đúng ý định của CSVN loại bỏ TGM Ngô Quang Kiệt và thay thế vào đó một Giám mục đã từng tích cực hợp tác với đám ngợm Giáo gian quốc doanh Phan Khắc Từ, Nguyễn Tấn Khóa. Hai lần can thiệp này giống như Vatican bất chấp sự đau khổ của Giáo Hội CGVN và sự đớn đau của Dân Tộc Việt Nam đã bao năm trường sống dưới cướp bóc và đàn áp của Cộng sản.

Chúng tôi không tin rằng Vatican đã tự ý can thiệp để tòng phạm với TỘI ÁC CSVN. Thánh Bộ Ngoại Giáo và Thánh Bộ Truyền Giáo không tự ý làm công việc ác nhân như vậy. Những Hồng y, Tổng Giám mục điều hành các Thánh Bộ là người nước ngoài, không trực tiếp nghiên cứu tường tận tình hình Việt Nam. Các Vị trách nhiệm này phải qua những Vị Giám mục Việt Nam và qua những Cố vấn gốc Việt Nam làm việc trong các Thánh Bộ tại Vatican. Nếu những người này, Giám mục tay sai CSVN hay Cố vấn nằm tại Vatican mà do CSVN cho chỉ thị, thì trách nhiệm việc can thiệp của Vatican là do những Giám mục tay sai và do Cố vân làm theo chỉ thị CSVN.

Dư luận có những bằng chứng nói rằng Cao Minh Dung, Cố vấn chính về việc chọn hay thuyên chuyển Giám mục tại Việt Nam, đã làm theo chỉ thị của CSVN,
    (i) một là vì Cao Minh Dung tự mình có liên hệ thân thiết với CSVN,
    (ii) hai là vì Cao Minh Dung ngầm nuôi hy vọng danh vọng tại VN mà CSVN có quyền chấp nhận hay không,
    (iii) ba là vì CSVN giữ những CÁI TẨY đời tư để bắt ép Đức Ông phải làm theo chỉ thị.
Chúng tôi chống những Giám mục tay sai CSVN đã đánh lừa Vatican, chống những Cố vấn gốc Việt Nam làm việc tại các Thánh Bộ mà theo chỉ thị của CSVN.

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phúc Liên, Kinh tế
Geneva, 16.06.2010



Huynh Đệ Chi Binh - Quách Huỳnh Hà

Quách Huỳnh Hà
(Cựu Đại Tá-Khóa 1 Trừ Bị Thủ Đức, nguyên Đô Trưởng Sài Gòn, nguyên Tổng Ủy Trưởng Công Vụ)


Năm 1951, Đại Tướng De Lattre Detassigny, tiêu biểu cho truyền thống hào hùng quân đội Pháp, đọc một bài diễn văn nẩy lửa ở trường Chasseloux Laubat, kêu gọi thanh niên Việt Nam đứng lên lãnh trách nhiệm với quốc gia dân tộc.

Nước Pháp sẵn sàng trao trả độc lập tự do cho người quốc gia chống Cộng trong chủ trương Liên Hiệp Pháp. Người Việt phải đứng ra trách nhiệm với nước Việt và chiến trường Việt Nam. De Lattre nhận định rõ ràng đây là giải pháp duy nhất trên bình diện quốc gia và quốc tế lúc bấy giờ.

Liền sau đó, lệnh động viên được công bố tức thì, thanh niên từ 21 đến 24 tuổi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp trở lên phải trình diện nhập ngũ, và giấy động viên đích danh đã được gửi đến tận nhà. Mấy đứa chúng tôi bàn cãi là thời hạn quân dịch 2 năm, đi cho xong nghĩa vụ rồi tính sau.

Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức lúc bấy giờ được cấp tốc dựng lên với những trại lợp lá (dừa nước) đốn chung quanh đồi Tăng Nhơn Phú, lá tươi cho nên sâu bọ sanh sôi nảy nở tạo cho chúng tôi những kỷ niệm khó quên. Cơm canh dọn ra, 5 phút, nếu không ăn xong là cứt sâu và con sâu từ trên mái nhà rớt đầy vào tô canh. Chúng tôi phải lấy vải lều cá nhân kết thành tấm trần che chỗ ăn, chỗ ngủ. Trường hoàn toàn mới cho nên các lớp đều học ở ngoài trời, hoặc tại các bàn ăn. Tới gần cuối khóa mới có các lớp học truyền tin, vũ khí, quân xa tại các kiến trúc bằng gạch ngói theo đồ án của trường.

Tuy thiếu phương tiện, nhưng Thiếu tá Bouillet Giám đốc trường là một sĩ quan tinh hoa của quân đội Pháp, các sĩ quan đại đội trưởng, trung đội trưởng là những sĩ quan xuất thân St. Cyr, Trường Võ Bị nổi tiếng trời Âu, được Napoléon thành lập. Khả năng và tư cách của họ làm cho chúng tôi phải kính nể, mặc dù chúng tôi là một đám sinh viên đa số đã tham dự vào các cuộc biểu tình chống thực dân trong phong trào “Trò Ơn”. Đa số không tin tưởng vào chủ trương Liên Hiệp Pháp và còn nghi ngờ thiện chí của Tướng De Lattre về việc trao quyền tự trị cho Việt Nam. Mặc dù tâm chưa phục, khẩu chưa phục nhưng kỷ luật quân đội, tài năng và tư cách của các sĩ quan chỉ huy và huấn luyện viên giúp chúng tôi ít ra cũng học được căn bản quân sự và tinh thần đồng đội, giúp chúng tôi lần lần thông hiểu vì sao mà quân đội Pháp thời Napoléon có sức mạnh bách chiến bách thắng khắp Âu châu.

Khi ra trường, tôi được đưa bình định chi khu Bình Thạnh, ven biên Đồng Tháp Mười, đóng đồn cấp trung đội, rồi đại đội, vào sanh ra tử với anh em đơn vị của mình. Thời gian ấy, Tòa Hành Chánh Tỉnh được giao lại cho người Việt, rồi chi khu, tiểu khu lần lượt trao quyền chỉ huy cho sĩ quan Việt Nam. Lúc bấy giờ mới cảm thấy trách nhiệm nặng nề về sinh linh của binh sĩ thuộc quyền và đời sống của quần chúng thuộc khu trách nhiệm. Đồn Bình Thạnh của chúng tôi đóng ở bờ sông Tiền Giang tỉnh Sadec, sâu vào Đồng Tháp là xã Bình Hàng Trung do một đại đội bạn trấn giữ. Đại Đội Trưởng là một sĩ quan đồng Khóa I Thủ đức. Chúng tôi thường mở đường bắt tay nhau để yểm trợ an ninh cho tàu tiếp tế vào đồn trong.

Một buổi sáng tinh sương, tiếng súng nổ rền vang hướng đồn Bình Hàng Trung. Mở máy liên lạc thì mới biết là toán tuần tiểu, một trung đội BHT lọt vào ổ phục kích. Chúng tôi tức thì tập họp điểm quân để xuất phát lên đường cứu viện. Mười người kể cả pháo binh và đồn phó giữ nhà và yểm trợ hỏa lực, 25 khinh binh dò đường để tiến quân. Nhà cửa dọc theo con rạch đều vắng tanh, dân chúng di tản từ lúc nào. Hiện tượng bất thường, tất cả anh em đều linh cảm địch đang chờ đón mình ở một địa điểm nào đây. Nhưng sốt ruột vì đơn vị bạn đang bị tràn ngập, hơn nữa cánh quân của chúng tôi có hai con chó của anh Trung Đội Trưởng dẫn đầu. Chúng sẽ phát giác địch trước khi chúng lộ mặt nên chúng tôi tiến nhanh.

Bỗng 2 con chó dừng lại sủa, anh binh nhứt Nguyên đi đầu khoát tay cho đơn vị ngừng lại bố trí. Liền sau đó, súng đại liên địch nổ vang liên tục, đạn bay vèo vèo trên đầu chúng tôi, cành lá cây gẫy đổ ào ào. Sau một dây đại liên, địch reo hò xung phong cùng khắp bên kia chiếc cầu khỉ. Anh Trung Sĩ Tiểu Đội Trưởng nhảy vào giựt cây Trung Liên của anh xạ thủ quét một băng về phía địch, án ngữ cầu khỉ, 3 anh khinh binh nằm kề tôi rút lựu đạn, chờ địch lội qua mương. Tôi điều chỉnh pháo binh tới tấp vào địa điểm phục kích địch. Đại liên địch từng chập cứ tiếp tục nhả đạn vèo vèo trên đầu chúng tôi, rồi địch lại reo hò xung phong lần thứ 2. Địch mặc quần đùi, quấn khăn tắm trên đầu, tay cầm mã tấu tiến sát chúng tôi, ở bên kia bờ mương rộng chừng 5 thước. Trung liên, tiểu liên, súng Mas 36 của chúng tôi nổ rất đều: không một tên địch dám vượt mương. Nếu không có 2 con chó phát giác địch từ ở đàng xa, nếu tất cả chúng tôi đi qua cầu khỉ thì đại liên của địch án ngữ cái cầu này, chúng tôi sẽ không có đường về.

Nhưng hiện tình là mỗi bên giữ một bờ mương, trông thấy nhau để cầm chân nhau. Không bên nào dám vượt 5 thước nước và một bãi sình để tấn công. Trong thế trận này, mỗi người trong 25 đứa chúng tôi đều đem hết sức lực tài trí ra để chiến đấu diệt địch và yểm trợ nhau trong một thế liên hoàn: gẫy một chỗ nào là nguy hiểm cho toàn đội.

Binh Thắng nằm kề tôi, bỗng nhiên cởi đôi giầy đinh ra, bò sát tôi rồi nói nhỏ: “Thiếu Úy yểm trợ cho em ném trái lựu đạn này”. Không đợi tôi trả lời, anh rút chốt lựu đạn, chạy nhanh lên giữa cầu khỉ, vừa nhảy tới vừa ném trái lựu đạn về hướng cây đại liên địch, lựu đạn vừa ném ra thì anh vừa rớt xuống mương. Chúng tôi hiểu ý, nổ súng tối đa để yểm trợ anh lội về bờ an toàn. Trái lựu đạn nổ tung ngay vị trí đại liên địch, từ đó không còn nghe cây đại liên này nổ nữa. Bắn nhau 2 tiếng đồng hồ, khẩu súng lục của tôi chỉ còn 2 viên đạn, anh em tất cả cũng gần hết đạn, nên khẩu đại liên vừa tịt là chúng tôi từng đợt rút về đồn.

Kiểm điểm lại thì thiếu Binh Nhứt Nguyên đi đầu. Toàn đồn xao xuyến. Tôi và anh pháo binh đang chấm điểm để điều chỉnh pháo binh vào địa điểm phục kích và đường rút lui của địch, thì anh Sơn, trẻ nhứt và hiền nhứt Đại Đội mà tôi cưng nhứt, mắt đỏ ngầu tới chào tôi và nghẹn ngào: “Thiếu Úy, mình đi kiếm thằng Nguyên”. Tôi biết tình Huynh Đệ Chi Binh của Đại Đội lên cao tuyệt đỉnh. Tiên pháo hậu lính, chúng tôi trở lại địa điểm thì Binh Nhứt Nguyên từ bụi tre gai bò lần ra, anh cũng quên mất không biết làm sao anh nhảy vào trong đó được.

Trong cuộc thử lửa đầu tiên này, chúng tôi hy sinh 2 con chó bị đại liên bắn chết tại chỗ, và bài học lớn nhứt cho anh em là tình Huynh Đệ Chi Binh, mỗi người sống chết với một người, và một người sống chết với mỗi người. Tôi nhận chân Huynh Đệ Chi Binh song song với Kỷ luật là sức mạnh của quân đội.

Thời gian sau, tôi được sang Pháp học một năm ở trường Bộ Binh cùng với các Sĩ Quan St. Cyr. Tôi đặt trọng tâm tìm bí quyết sức mạnh của quân đội Pháp, qua lò luyện thép Saint Cyr đào tạo những Sĩ Quan anh tuấn, trí dũng và giàu kiến thức chiến lược toàn cầu.

Tôi trở về làm Huấn Luyện Viên Trường Võ Bị Đà lạt. Binh thư của St. Cyr nói rằng kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Nhưng Nội Quy Sinh Viên Sĩ Quan cũng như tài liệu đào tạo Sĩ Quan Đà lạt, tôi âm thầm thêm vào Huynh Đệ Chi Binh là chân lý của sức mạnh trong các đội ngũ của quân lực VNCH. Thật vậy, suốt đời binh nghiệp của tôi, tất cả những kế hoạch và những điều thực hiện, tôi đều nhờ được sự yểm trợ của các anh em khóa I Thủ Đức, làm lớn ở Bộ Tổng Tham Mưu và các Tham Mưu Quân Đoàn, và các Khóa đàn em Thủ đức và Đà lạt hết lòng giúp đỡ. Như trận Chi Khu Ngã Năm lúc bị Trung Đoàn chính quy Bắc việt vây khốn, phi cơ đến yểm trợ gọi nhau bằng Niên Trưởng Niên Đệ, tự nhiên tinh thần phấn chấn coi địch không vào đâu nữa. Đối đầu với những khó khăn nhứt, biết có một huynh đệ ở đâu đó, chỉ cần nhắc ống điện thoại là xong ngay. Huynh Đệ Chi Binh là tất cả.

Mất nước, di cư trong kiếp tỵ nạn là mất hết, nhưng đồng môn Thủ đức và Niên Trưởng Niên Đệ Đà lạt vẫn còn tình người, vẫn còn Huynh Đệ Chi Binh để kết hợp với nhau thành hội thành đoàn, tương thân tương trợ mà gầy dựng lại cuộc đời.

Nghĩ kỷ đi, sớm muộn gì nước Việt Nam cũng phải đi theo giòng lịch sử của nhân loại mà mở cửa cho tự do dân chủ trở về. Tái thiết Việt Nam, đương nhiên phải cần kỹ thuật cao, nhưng phải bắt đầu bằng gầy dựng lại cơ sở, nền tảng ở nông thôn, xã ấp để phục vụ 90% dân chúng. Lớp người nào rành những việc phục vụ đồng bào ở những con rạch nhỏ miền Tây, những vùng hẻo lánh cao nguyên, ở những mảnh đất cày lên sỏi đá, lớp người nào đã lê chân khắp cánh đồng chum Bắc Việt, qua những con rạch nhỏ Đồng Nai, những lớp người đó chỉ cần giữ được tình người, Huynh Đệ Chi Binh, thì có thể làm công cụ phục vụ đắc lực nhứt cho dân cho nước Việt Nam.

Quách Huỳnh Hà

Jesus statue in Ohio struck by lightning

The ‘King of Kings’ Jesus statue


Erected in 2004, the ‘King of Kings’ statue was the largest sculpture of Jesus in America,
standing over 60 feet high and weighing in the ballpark of eight tons.


All that remains of the six-story-tall "King of King's" statue of Jesus Christ on Tuesday, outside the Solid Rock Church in Monroe, Ohio, after it was struck by lightning in a thunderstorm Monday night and burned to the ground
Nick Graham / The Dayton Daily News via AP
MONROE, Ohio - A six-story statue of Jesus Christ was struck by lightning and burned to the ground, leaving only a blackened steel skeleton and pieces of foam that were scooped up by curious onlookers Tuesday.

The "King of Kings" statue, one of southwest Ohio's most familiar landmarks, had stood since 2004 at the evangelical Solid Rock Church along the Interstate 75 freeway in Monroe, just north of Cincinnati.

The lightning strike set the statue ablaze around 11:15 p.m. Monday, Monroe police dispatchers said.

The sculpture, about 62 feet (19 meters) tall and 40 feet (12 meters) wide at the base, showed Jesus from the torso up and was nicknamed Touchdown Jesus because of the way the arms were raised, similar to a referee signaling a football touchdown. It was made of plastic foam and fiberglass over a steel frame, which is all that remained Tuesday.

The nickname is the same used for a famous mural of the resurrected Jesus that overlooks the Notre Dame football stadium.

The fire spread from the statue to an adjacent amphitheater but was confined to the attic area, and no one was injured, police Chief Mark Neu said.

Estimated damage from the fire was set at $700,000 — $300,000 for the statue and $400,000 for the amphitheater, Fire Capt. Richard Mascarella said Tuesday.

The Ohio State Highway Patrol was at the scene Tuesday to prevent traffic jams and potential accidents from motorists stopping along the highway to take photographs.

Some people were scooping up pieces of the statue's foam from the nearby pond to take home with them, said church co-pastor Darlene Bishop.

"This meant a lot to a lot of people," she said.

Travelers on I-75 often were startled to come upon the huge statue by the roadside, but many said America needs more symbols like it. So many people stopped at the church campus that church officials had to build a walkway to accommodate them.

Bishop said the statue will be rebuilt.

"It will be back, but this time we are going to try for something fireproof," she said.

The 4,000-member, nondenominational church was founded by Bishop and her husband, former horse trader Lawrence Bishop.

Lawrence Bishop said in 2004 he was trying to help people, not impress them, with the statue. He said his wife proposed the Jesus figure as a beacon of hope and salvation.

Source: http://www.msnbc.msn.com/id/37703784/?Gt1=43001


Monday, June 14, 2010

35 Năm, Một Ước Mong: Đền Thờ 5 Tướng Vị Quốc Vong Thân - Trà Khan

Trà Khan

Bài viết mang tên “35 Năm, Một Ước Mong” được đặt tựa đề mới theo nội dung. Tác giả tên thật Nguyễn Thụy, 49 tuổi, theo ba mẹ đi HO 8, tốt nghiệp Computer Engineering. Sau 6 năm làm thuê, đã thành lập và điều hành công ty Newteck – PCB Inc tại City Tustin được 4 năm. Bài viết của ông nêu lên điều ước mong rất đáng được cộng đồng quan tâm: Thủ đô tỵ nạn của người Việt hải ngoại cần có một đền thờ 5 vị tướng anh hùng tuẫn tiết của miền Nam Tháng Tư 1975.

Cuộc chiến Nam Bắc – Quốc Cộng, chúng tôi không được dự vì tuổi đời còn nhỏ. Là con em một gia đình H.O., từng là nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam, hằng năm khi 30 tháng tư lại về, chúng tôi cũng cảm thấy một niềm đau bất tận.

Tháng tư nhắc nhở chúng ta, những người bỏ nước ra đi, cho dù theo con đường nào, diện nào, đều cùng là những người tỵ nạn CSVN. Sau 35 năm, người Việt tỵ nạn tại Miền Nam Cali đã trưởng thành vững mạnh, trên mọi địa hạt. Những bài viết, chuyện kể, hình ảnh của “35 năm nhìn lại” đã làm cho tim tôi se thắt không ít.

Dầu trời đã về khuya, tôi cũng ráng ngồi vào Computer, mong góp tiếng nói, góp chút lòng thành, ước mơ và thiển ý vào ngày lịch sử đau thương này. Mong được các hội đoàn, các hội đồng hương, và người Việt tỵ nạn khắp năm châu bốn bể.

Ngày nước VNCH tự do bị xóa sổ cũng là ngày 5 vị tướng trong QLVNCH tuẫn tiết không hàng giặc. Đó là các vị tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai và Phạm Văn Phú. Chúng tôi không đủ chữ để diễn tả hết lòng khâm phục trước tấm gương bất khuất của các Ngài. Các Ngài đã theo bước tiền nhân của một Hoàng Diệu, của Nguyễn Tri Phương, của Phan Thanh Giản, thật xứng đáng với câu nói của tiền nhân ta để lại “sống vi tướng, tử vi thần, anh hùng tử khí hùng bất tử“

Chính cái chết của năm vị tướng đã viết lên trang sử cận đai hào hùng của quân dân Miền Nam chiến đấu cho tự do ở thế kỷ 20. Các thế hệ mai sau, khi đọc đến những trang sử nầy, sẽ phải kính cẩn nghiêng mình mà kính phục.

Mỗi năm khi tháng Tư trở lại, báo chí truyền thông và công đồng đều không quên nhắc lại tấm gương của các ngài. Chính từ những tấm gường này, chúng tôi thấy rất cần thành lập một Đền Thờ 5 vị tướng tại Little Sài Gòn.

Chúng ta từng nói, bỏ nước ra đi là mang theo cả quê hương. Vậy thì, quê hương thứ hai này chính là nơi để lập Đền Thờ cho các Ngài. Nhất là nơi Miền Nam Cali, nơi có trên 300 ngàn người Việt tỵ nạn, được mang cái tên khá hãnh diện cho những người VN sống lưu vong nơi đây “thủ đô của người Việt tỵ nạn”. Nơi đây, chúng ta đã có tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ, có đền thờ Hùng Vương, có Thư Viện Việt Nam, thì sao lại thiếu đền thờ của các vị tướng lãnh tuẫn tiết.

Khi còn đối diện với kẻ thù, chúng ta là người lính, không ít thì nhiều, hoặc gián tiếp hay trực tiếp nằm cùng một “trướng” nhận cùng một lời “hịch” từ tay các Ngài ban xuống.

Thưa các bậc nhân hào! các bậc cao niên! Các bậc đàn anh! và những anh em cùng chung chiến tuyến!

Chúng tôi không dám “múa rìu qua mắt thợ” vì cạn hẹp kiến thức, nên chỉ nêu lên sự mơ ước của mình bằng tấm lòng chân thành. Mong rằng, chúng ta cùng góp một bàn tay thì vỗ nên kêu. Nơi đây, chúng ta đã có nhiều hội đoàn, có nhiều tổ chức, có nhiều trung tâm băng nhạc ca kịch múa hát, đã từng gây quỹ, từng làm thiện nguyện viên đi quyên góp, giúp đỡ nan nhân Katrina, Tsunami, Haiti, giúp đỡ nạn nhân bão lụt quê nhà v.v.... Chúng tôi tin chắc việc gây quỹ cho Đền Thờ các vị tướng vì quốc vong thân, không sớm thì muộn cũng sẽ thành công.

Mai kia, Đền Thờ khi được xây dựng sẽ chứng minh rằng người Việt bỏ nước ra đi không bao giờ quên ơn các Ngài, sau đó cũng là nguồn an ủi to lớn đến các gia đình thân tộc có liên hệ đến các Ngài hiện đang sống còn. Hồn thiêng sông núi, từ tinh thần của các Ngài sẽ phù hộ cho chúng ta, con cháu chúng ta.

Khách du lịch từ các tiểu bang khác trên nước Mỹ, hay từ Âu Châu, Úc Châu đến Nam Cali, chắc chắn sẽ không quên đến viếng thăm Đền Thờ các Ngài cũng như họ đã từng viếng thăm tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ trong mấy năm qua.

Nếu được như ý muốn, chúng ta sẽ có thể chiêu mộ các điêu khắc gia Việt Nam đang tỵ nạn trên đất Mỹ, tạc tượng hay đúc tượng bán thân cho các Ngài và nơi đó, có để một cuốn sổ vàng lưu niệm vài trăm trang giấy, và còn nhiều dự thảo khác nữa, khách viếng thăm Đền Thờ có thể viết vào đó vài lời, để nói lên cảm tưởng của chính mình.

Đoạn kết bài viết nầy, chúng tôi chỉ có thiện ý trong kiến thức cạn hẹp, chắc chắn còn nhiều lỗi lầm sơ sót. Mong được sự bao dung tha thứ. Và ước mong việc xây dựng Đền Thờ sẽ thành sự thật.

Trà Khan



Thư ngỏ kính gửi đến ông Lm. Nguyễn văn Lý - Nam Nhân

Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Tôi, Nam Nhân, tức Nguyễn Đức Chung, chủ website Hồn Việt UK online, đã được đọc đơn kiện số 1 của ông gửi trên các Diễn Đàn.

Xin phép ông cho tôi được đặt một số câu hỏi xoay quanh câu chuyện đơn kiện số 1 nói trên:

1.- Nội dung lá đơn ông có nêu lên những cách tra tấn của công an việt-gian-cộng-sản đối với các tù chính trị, tù lương tâm, thật là kinh hoàng không thể tưởng tượng nổi. Nó có giá trị vạch trần bộ mặt bán nước giết dân, đàn áp tự do tư tưởng và ngôn luận cũng như nhân quyền của người dân Việt Nam.

Tại sao khi mới tạm được tha về để chữa bệnh, ngay từ những buổi đầu tiếp xúc với truyền thông hải ngoại, của cả người Việt lẫn cả của quốc tế, ông đã không tố cáo việc này ra trước công luận; kể cả những việc ông được điện đàm trực tiếp với bà Đại sứ Canada ở Hà nội, ông cũng không hề nói đến những chuyện kinh khủng tầy trời đó mà chỉ lo nói chuyện chính trị, nào là Lê Lai, Lê Lơi, Nguyễn Trãi; nào là dê tế thần; nào là tôn trọng quyền cai trị của tập đoàn việt-gian-cộng-sản nhưng cũng đòi hỏi chúng phải chia xẻ quyền cai trị đó; nào là nếu không chọn được người có tài có đức thì thà để cho tập đoàn việt-gian-cộng-sản cai trị, ít ra cũng giữ được ổn định và làm vẻ vang nước Việt với quốc tế, như là được làm chủ tịch của khối ASEAN.

Hai nhân chứng mà ông nêu tên trong đơn kiện là Lê thị Kim Thu và Lê thị Công Nhân cũng đã hành xử như ông. Lê thị Kim Thu vừa bước ra khỏi cửa nhà tù chừng độ dăm mét, đã có cuộc trả lời phỏng vấn của Tường Thắng ở Vietnamexodus, rồi đi làm đủ mọi chuyện của một ký giả chuyên nghiệp: Quay phim, chụp ảnh, phỏng vấn, xoành xoạch như con thoi từ Bắc chí Nam, từ Đồng Nai tới Huế … đóng góp hình ảnh bài vở cho website Vietnamexodus, cũng không đả động tới việc bị công an việt-gian-cộng-sản làm các trò bỉ ổi như ông đã viết trong lá đơn kiện số 1. Còn Lê thị Công Nhân, cũng được cơ hội như ông, vừa bước chân ra khỏi nhà tù về tới nhà ở, đang ăn cơm thì đã được phỏng vấn và quay video từ đó, đủ cả đài, báo của người Việt ở nước ngoài, cũng như quốc tế. Không những thế, Lê thị Công Nhân còn có dịp hội luận với Dân biểu Hạ viện Mỹ là Cao Quang Ánh và Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc Boat People SOS (do nhà báo Dương Phục tổ chức), cũng chỉ nói đến việc được đọc Kinh Thánh ở trong nhà tù mà cười sằng sặc ở những đoạn mà cho là thú vị, cũng như giải thích “chính trị không phải là nuôi một con heo, không phải là vẽ một bức tranh”, hoặc “pháp luật là vật chất”.

Và đặc biệt đề nghị với Quốc Hội Mỹ, thông qua Dân biểu Cao Quang Ánh đề đạt giùm, là hãy làm việc với Quốc hội Việt Nam (chú thích của người viết: Quốc hội việt-gian-cộng-sản) dù trăm lần hay hơn thì cũng tiếp tục giúp đỡ chúng, đừng dồn ép chúng (có nghĩa là vô thời hạn). Vậy mà không hề đả động đến chuyện bị hành hạ như ông trình bày trong đơn kiện số 1. Nói về những năm tháng ở trong tù, Lê thị Công Nhân cho biết rằng, một tháng tù nhân được ăn 17 ký lô gạo, ăn không hết; phòng giam có quạt máy, có TV, được đọc báo chí, được đọc Thánh Kinh, mỗi tuần được gia đình thăm nuôi một lần. Cái duy nhất Lê thị Công Nhân phàn nàn là phải tắm truồng tập thể, và nước tắm thì không được sạch sẽ!

2.- Xin ông cho biết những thủ đoạn tra tấn trên thì bản thân ông bị những thứ nào, càng chi tiết càng tốt. Và với các nhân chứng là Lê thị Công Nhân và Lê thị Kim Thu, nếu có thể cũng xin ông nêu rõ họ đã bị những kiểu tra tấn nào?

Ngoài ra còn có một số cũng là những người trong khối 8406 của ông như Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn vũ Bình (nếu có thể cả ông Lê Chí Quang nữa), có thể nào làm nhân chứng cho ông được không, và họ có bị một kiểu tra tấn nào không như ông đã nêu ra trong đơn kiện số 1? Nếu họ không bị tra tấn thì bỏ qua, còn nếu họ có bị tra tấn thì tại sao ông không mời họ làm nhân chứng? Họ tự vỗ ngực coi dân chúng toàn là thỏ đế, chỉ có bọn họ “hơn hai chục nhà đấu tranh dân chủ”, mới dám ăn, dám nói như Nguyễn Khắc Toàn đã khẳng định. Thì ông nghĩ như thế nào khi họ không dám làm chứng cho ông? Còn ông suy nghĩ về họ ra sao nếu họ không bị tra tấn?

Nhân đây, cũng xin ông cho biết số phận những vị Nguyên Phong, Nguyễn Bình Thanh, Hoàng thị Anh Đào …., số phận hiện nay của họ ra sao, những (con dê tế thần đó) của ông? Tại sao ông có thể đề cập đến mọi người mà ông không đề cập đến ba vị cộng tác thân cận nhất của ông như các tên đã nêu ở trên, vì họ là lãnh đạo chủ chốt của Đảng Thăng Tiến?

3.- Xin ông cho biết việc ông Võ Đình Chương tố cáo ông mà chúng tôi có đưa lên Hồn Việt UK online là đúng hay sai? Điều nào đúng, điều nào sai? Tại sao một việc quan trọng như vậy mà ông cùng các cộng sự của ông không lên tiếng diễn giải? (khi im lặng có nghĩa là thừa nhận, xin lưu ý ông diều này).

Nếu ông có thể nêu rõ ràng những điều yêu cầu trả lời trên của tôi, tôi cam đoan Hồn Việt UK online sẽ ủng hộ ông trong hành động đưa tội ác này của tập đoàn việt-gian-cộng-sản ra công lý.

Trân trọng,

Anh quốc, ngày 12 tháng 6 năm 2010
Nam Nhân (Quân nhân QLVNCH)

Source: http://hon-viet.co.uk/NamNhan_ThuNgoKinhGuiDenOngLmNgVanLy.htm
---------------------------

ĐƠN KIỆN SỐ 01 của Linh mục tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý
KIỆN
NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM
về việc Nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam giữ trái công luật quốc tế
Lần Thứ 4
từ ngày 18-2-2007 đến thời hạn không rõ ràng
———–

Huế, Việt Nam , ngày 08 tháng 6 năm 2010

Kính gửi:

- Tòa án Nhân quyền của Liên hiệp quốc, Thụy Sĩ.

- Các Tổ chức Nhân quyền quốc tế.

Đồng kính gửi:

- Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam .

- Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam .

Kính thưa quí Vị,

Tôi là tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Linh mục thuộc Tổng giáo phận Huế, Giáo hội Công giáo Rôma, đang bị quản chế và điều trị bệnh tại Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam, muốn trình bày với quí vị các khiếu kiện sau đây :

I. Tiến trình chịu bất công: 4 lần, 17 năm tù giam và 7 lần, 14 năm quản chế:

1/- Ngày 18.8.1977 tôi bị NCQ CSVN bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế (18.8.1977 – 24.12.1977). Lý do là tôi phổ biến 2 bài phát biểu của Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền rằng Việt Nam chưa có Tự do Tôn giáo thực sự, trong 2 Hội nghị do chính NCQ CSVN tổ chức năm 1977. Sau đó tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế gần 01 năm (1977-1978) và tại giáo xứ Đốc Sơ, Hương Sơ, Huế 2 năm (1981-1983).

2/- Cuối năm 1983 tôi bị NCQ CSVN kết án 10 năm tù, 3 năm quản chế và bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; 2 trại cải tạo K1, Thanh Cẩm, Thanh Hóa, và K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.1983 – 29.7.1992); cướp đoạt của tôi 4 thùng sách quí, một số máy ghi âm và phát thanh mà không có một biên bản nào. Lý do là ngày 13.8.1981, tôi đã hướng dẫn giáo hữu đứng bên lề đường nguyện kinh 4 lần, khi chúng tôi đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, nhưng bị Công an CSVN ngăn chặn, để khai thông tuyến giao thông cho các giáo hữu hành hương dịp Lễ Đức Mẹ Về Trời 15.8.1981. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 3 năm (1992-1995) và bị quản chế ở Nhà thờ Nguyệt Biều, Huế hơn 5 năm (1995-2001) vì đã viết bản Tuyên ngôn về thực trạng Giáo hội Công giáo Giáo phận Huế ngày 24.11.1994.

3/- Cuối năm 2001, tôi bị NCQ CSVN kết án 15 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.2001 -07.2.2005); cướp đoạt của tôi một số sách quí cũng không để lại một biên bản nào. Lý do là từ ngày 12-2-2001 đến ngày 17.5.2001, tôi đã hướng dẫn giáo hữu An Truyền, Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên – Huế hiểu biết đôi chút về Tự do Tôn giáo, Tự do Ngôn luận, Tự do Ứng cử – Bầu cử, về Chính trị Công dân (bênh vực công lý, nhân quyền, nhân phẩm) khác với Chính trị Đảng phái (giành quyền quản lý và lãnh đạo Đất nước) như thế nào. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 2 năm (2005-2007) và bị quản chế ở Nhà thờ Bến Củi, Phong Xuân, Phong Điền, Thừa Thiên-Huế hơn 1 tháng (25.2.2007 – 29.3.2007).

4/- Ngày 30.3.2007, tôi bị NCQ CSVN kết án 8 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. (29.3.2007 – 15.3.2010); cướp đoạt của tôi rất nhiều sách báo, tài liệu và máy móc (mà lần này tôi đang đòi lại như sẽ trình bày ở mục III.A.1.a, 1.b, 1.c, 2.a, 2.b, 2.c, 2.d. dưới đây). Lý do là từ ngày 07.02.2005 đến ngày 18.2.2007, tôi đã phổ biến các tài liệu phơi bày sự thật về Ông Hồ Chí Minh và các tài liệu về công lý, dân chủ, nhân quyền; biên soạn và phát hành bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận; đồng thành lập Khối 8406 với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam ngày 8.4.2006; ủng hộ và giới thiệu đảng Thăng Tiến Việt Nam.

Vì tôi bị rối loạn huyết áp, dẫn đến tai biến mạch máu não 3 lần (25.5.2009; 12.7.2009; 13.11.2009), lần thứ 3, NCQ CSVN đưa tôi lên Hà Nội cấp cứu và ngày 15.3.2010 tạm đình chỉ thi hành án 12 tháng, đưa tôi về điều trị bệnh liệt nửa người bên phải do tai biến rối loạn huyết áp, tại Nhà hưu dưỡng Nhà Chung Tổng giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam.

Dưới chế độ CSVN, từ năm 1977 đến nay, tôi đã ở tù 4 lần, 17 năm; bị quản chế 7 lần, 14 năm. Theo pháp luật của NCQ CSVN, tôi vẫn còn phải ở tù 5 năm và bị quản chế thêm 5 năm nữa.

Sau 3 lần ở tù và 6 lần bị quản chế trước đây, tôi đã phớt lờ các bất công tôi phải gánh chịu, để dành thời giờ cho Sự nghiệp đấu tranh cho công lý, nhân quyền, tự do dân chủ cho Đồng bào Việt Nam . Nhưng lần này, tôi kính nhờ quí vị làm sáng tỏ các bất công tôi phải gánh chịu, để góp phần ngăn chặn NCQ CSVN tiếp tục đàn áp các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang trực diện đấu tranh cho Công lý, Sự thật, Tự do, Dân chủ cho toàn Dân tộc Việt Nam.

II. Các cơ sở pháp luật để khởi kiện:
A. Căn cứ vào công pháp quốc tế:

1. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp quốc ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24.9.1982 qui định :

- Điều 19,2 : Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.

- Điều 22,1 : Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

2. Tuyên ngôn Quốc tế bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền ngày 09.12.1998 :

- Điều 5 : Nhằm thăng tiến và bảo vệ quyền con người và các tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền trên bình diện quốc gia hay quốc tế :

a) Hội họp và tụ họp một cách thuần hòa;

b) Thành lập những tổ chức, những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia nhập và tham dự vào những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.

- Điều 7 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền dự kiến những nguyên tắc mới và những ý kiến trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết về nhân quyền.

- Điều 8,1 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác và trên căn bản không phân biệt đối xử, đều có quyền tham gia hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào việc quản lý việc công.

- Điều 8,2 : Nhất là quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đệ trình các cơ quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các cơ cấu đảm lãnh việc công, những phê phán và những đề nghị nhằm cải thiện sự tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.

- Điều 12,1 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác đều có quyền tham gia các hoạt động hòa bình để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân quyền và các tự do căn bản.

3. Luật Ký kết, Tham gia và Thực hiện Điều ước Quốc tế, do nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 24.6.2005, hiệu lực ngày 01.01.2006, qui định tại “Điều 6 điều ước quốc tế và qui định pháp luật trong nước” :

- 6,1 : Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.

- 6,2 : Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thi hành điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định về cùng một vấn đề.

Nghĩa là mọi người lương thiện đều hiểu rất rõ về 2 điều luật trên đây rằng : Khi có điều nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công ước Quốc tế, thì phải áp dụng Công ước Quốc tế là Văn bản pháp lý có gí trị ràng buộc cao hơn.

B. Căn cứ vào nhân chứng lịch sử :

1. Karl Marx : Cách đây # 170 năm, Ông Karl Marx viết Bộ Tư Bản Luận, Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản tại thủ đô London, đế quốc Anh, không hề bị bắt.

2. Nhóm Nguyễn Ái Quốc : Cách đây # 100 năm, nhóm Nguyễn Ái Quốc gồm nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Tất Thành viết sách, báo chống lại chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô Paris, không hề bị bắt.

3. Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay tại Việt Nam : Cách đây # 90 năm, cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản báo “Tiếng Dân” ngay tại Huế năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn năm 1923. Cả 2 Ông đều không bị Thực dân Pháp bắt vì dám làm báo chống lại Pháp. Thời đó, riêng tại Nam Kỳ, Việt Nam , các đảng viên cộng sản, nếu đấu tranh bất bạo động, dù công khai, vẫn không bị bắt.

Cho đến hôm nay, trong cả 4 lần tôi bị bắt, bị kết án, bị nhốt tù 17 năm và trong 7 lần bị quản chế 14 năm, 5 năm tù giam và 5 năm quản chế còn tạm đình chỉ thi hành, tôi đều hoàn toàn vô tội, vì tôi luôn chỉ làm những gì Công luật quốc tế cho phép mà Pháp luật NCQ CSVN phải áp dụng, nếu NCQ CSVN muốn còn là thành viên của Liên hiệp quốc. Trái lại, khi bắt giam, kết tội, quản chế tôi và chiếm đoạt các vật dụng của tôi, chính NCQ CSVN đã ngang nhiên vi phạm nghiêm trọng các Công ước quốc tế mà NCQ CSVN đã xin tham gia, ký kết và hứa sẽ thực hiện, nhưng không hề tuân giữ trong suốt 65 năm qua.

Vì thế, tôi kính nhờ quí vị giúp tôi sao cho thật hiệu quả trong việc đòi buộc NCQ CSVN phải nghiêm túc chấp hành thực hiện:

III. Mục tiêu khởi kiện Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam:
A. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả lại tôi:

1. Tu phục, Chuỗi kinh và kính mắt tôi đang mang trên người :

1.a. Một chiếc áo linh mục đen dài tôi đang mặc : Chiều 29.3.2007, một sĩ quan công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đến Phòng Thánh Nhà thờ Bến Củi mời tôi ra trụ sở thôn Bến Củi làm việc, tôi vừa mở cửa phòng tức khắc một lực lượng công an vũ trang hơn 30 người tràn vào phòng tôi, lấy một tấm vải lớn màu xanh da trời trùm tôi lại và ôm tôi nhét vào xe công an như một bao tải, chở ngay về trại tạm giam Thừa Phủ, Huế. Tại đây, họ lột áo linh mục, tước đoạt một tràng chuỗi Mân Côi và một cái kính viễn thị đeo mắt.

1.b. Một tràng chuỗi Mân Côi nói trên tôi dùng để nguyện kinh.

1.c. Một cái kính viễn thị đeo mắt nói trên tôi dùng để đọc sách báo.

2. Các vật dụng tôi đang sử dụng để phục vụ cho Công lý, Nhân quyền :

2.a. 6 máy Personal Computers (Laptops) hiệu HP, TOSHIBA, ACER mà # 20 Công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đã cướp đoạt của tôi tại phòng số 5, khu nhà Hưu dưỡng thuộc Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế tối 18-2-2007, có Linh mục An-tôn Nguyễn Văn Thăng, Thư ký Tòa TGM Huế chứng kiến và cùng ký tên vào biên bản.

2.b. 6 máy in Laser hiệu CANON trong trường hợp như trên.

2.c. 6 điện thoại di động hiệu NOKIA, SAMSUNG, MOTOROLA và # 120 Simcards trong trường hợp như trên.

2.d. Gần 200 sách, báo, bài viết (mỗi loại hàng chục bản) về Công lý, Nhân quyền, Dân chủ, Tự do, Bầu cử, sự thật về Ông Hồ Chí Minh và về đảng CSVN trong trường hợp nói trên. Khi cướp đoạt và mang đi, các Công an đã đựng số tài liệu này trong 6 thùng giấy lớn.

B. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải bồi thường :

1. Các thiệt hại vật chất :

1.a. Tất cả các vật dụng cá nhân của tôi đã nêu ở các tiểu mục 2.a, 2.b, 2.c, 2.d của mục III.A.2. trên đây.

1.b. Nếu các thiết bị và máy móc đó đã bị hư hỏng thì NCQ CSVN phải bồi hoàn cho tôi 200 triệu VNĐ theo thời giá hiện nay (2010).

1.c. Riêng các vật dụng ở các tiểu mục 1.a, 1.b, 1.c, 2d. của mục III.A.1.và 2. thì NCQ CSVN phải hoàn trả tôi đúng các vật dụng mà NCQ CSVN đã chiếm đoạt trái phép của tôi.

1.d. Về 3 năm ở tù biệt giam một mình, kèm theo bệnh rối loạn huyết áp phát sinh 4 lần (gần đây có thêm 1 lần vào tháng 5.2010) tai biến mạch máo não, làm tôi bị liệt nửa người bên phải, NCQ CSVN phải bồi thường cho tôi ít nhất là 10 tỉ VNĐ hiện hành.

2. Các thiệt hại tinh thần :

Chỉ cần một lời xin lỗi của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, 01 (một) VNĐ danh dự; chấm dứt mọi hành động đàn áp, bắt bớ, tù đày tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang đấu tranh cho Công lý, Tự do, Dân chủ cho Việt Nam và trả tự do ngay, vô điều kiện, tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang bị giam cầm trong các trại giam của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.

Nguyện xin Thiên Chúa luôn chúc lành trên thiện tâm phục vụ công lý hòa bình cho Nhân loại của tất cả quí vị.

Xin trân trọng kính chào và chân thành cảm ơn tất cả quí vị.

Khởi kiện từ Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế
69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam
ngày 08 tháng 6 năm 2010

(đã ký tên và đóng dấu)

Tù nhân lương tâm
Tađêô Nguyễn Văn Lý
Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, Việt Nam.