Saturday, April 3, 2010

Nghề Đi Tu - Đinh Lâm Thanh

Đinh Lâm Thanh

Văn hóa truyền thống dạy cho người Việt chúng ta kính trọng các bậc tu hành, vì những vị tu hành là những người đã dứt khoát trần tục, từ bỏ giàu sang danh vọng phú quý để tìm con đường tu thân, và từ đó, dẫn dắt người đời đến một cuộc sống thánh thiện, chân thiện mỹ. Sở dĩ chúng ta trọng những người tu hành vì những vị nầy đã trở thành những kẻ hơn người. Họ đã từ bỏ được ba cái tầm thường ‘Tham, Sân, Si’ của giới phàm tục. Như vậy, những ai một khi quyết định xa gia đình, dứt bỏ phú quý danh vọng để tự nguyện trở thành kẻ phục vụ chúng sinh, lấy đức bác ái, tinh thần từ bi hỷ xả làm lý tưởng để lo cho đời sống tâm linh con người, đồng thời chấp nhận làm kẻ thấp hèn trong xã hội cũng như quên mình để hiến dâng cho lý tưởng, thì đều được xã hội quý trọng. Người Việt chúng ta rất sùng đạo, đó là vấn đề rất tốt phía tôn giáo. Nhưng hành động trọng cha, kính thầy một cách quá đáng, có thể nói rằng đi đến lố bịch của một số con chiên, Phật tử đã làm hư các thầy các cha đồng thời biến các vị tu hành trở thành Phật, thành Chúa, là thần thánh oai nghiêm và quyền uy vô lượng chứ không còn là những kẻ tu hành hèn mọn mà những vị nầy đã tâm nguyện dâng hiến để trọn đời phục vụ Phật tử, tín đồ cũng như con chiên!

Những hình ảnh chấp tay cúi đầu ‘con lạy thầy, con lạy cha’ làm cho các nhà tu hành quên hẳn vai trò một người tu hành để rồi những vị nầy tự ban cho mình cái quyền linh thiêng, đại diện cõi trên ban phát ân huệ cho chúng sanh và bắt người phàm tục phục dịch cho mình. Hình ảnh và thái độ của thầy cha ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc trịch trượng bởi hai lý do. Trước hết là số người người sùng đạo có thái độ tôn trọng cha thầy một cách quá đáng: việc gì của thầy của cha làm đều tốt đều đẹp, lời thầy lời cha nói gì nghe cũng hay cũng phải. Thứ đến là một số tín đồ, giáo hữu cò mồi dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám vào thầy cha, nhà chùa, nhà thờ, theo sát thầy cha đánh trống thổi kèn, chấp tay lạy sống và khúm núm trình thưa như đang đứng trước mặt quan quyền vua chúa ngày xưa. Hành động nầy chẳng những đưa ‘cái tôi’ của thầy cha lên tận mây xanh, do đó, những cái tầm thường xấu xa trong lòng các vị tu hành đã không diệt được mà còn được thường xuyên bơm lên thì Tham Sân Si trong lòng các vị tu hành càng ngày càng lớn hơn những người phàm tục nữa ! Như vậy tu hành đã không đạt được kết quả…mà một khi cái Tham Sân Si trong các vị tu hành thường xuyên bị dồn nén thì sẽ bộc phát dữ dội. Nên nhớ rằng, các nhà tu hành một khi đã đi lạc đường, thì cái Tham Sân Si sẽ quậy tới bến còn hơn những người phàm tục !!!

Cá nhân tôi là người trong cuộc và đã chứng kiến tận mắt hai trường hợp, từ đó lòng tôi mất đi rất nhiều kính trọng đối với một số vị tu hành:

1. Trong một cuộc biểu tình, tôi được giới thiệu với một vị linh mục còn trẻ hơn tôi. Sau câu chào hỏi thân mật xong thì vị linh mục quay mặt đi nơi khác, hình như có thái độ không muốn nói chuyện với tôi nữa vì tôi đã thẳng thắng kêu bằng cha và xưng tôi. Có lẽ chữ tôi trong cách xưng hô không thích hợp giữa một giáo dân với một vị linh mục nơi đông người đã làm giảm giá trị một vị tu hành nên vị nầy đã quay mặt đi giả vờ nói chuyện với những người chung quanh. Nếu tôi trịnh trọng gọi bằng cha thì phải xưng con như những người khác thì câu chuyện sẽ được tiếp tục trong tình thân mật !. Tôi có thể gọi cha và xưng con trong nhà thờ, lúc xem lễ hay vào tòa xưng tội theo con người Kytô hữu của tôi. Nhưng ngoài đời, trong một buổi biểu tình chính trị, thì giữa hai người tu hành và giáo dân cũng đều là những người dân tỵ nạn Việt Nam. Tôi nghĩ rằng một người già trên 70 xưng con với một vị linh mục còn trẻ giữa nơi công cộng thì cũng khó nghe !. Như vậy trong bộ áo màu đen quý trọng đang mặc trên linh mục nầy, cái sân si vẫn còn quá nặng mùi trần tục trong một vị tu hành.

2. Dịp cúng thất cho một người trong gia đình, nhằm buổi cơm chay, tôi có dịp phải đi ngang qua phòng ăn - nối liền từ chân cầu thang đến chánh điện – trong lúc các vị sư đang dùng bữa. Chuyện đập vào mắt tôi, vị trụ trì ngồi đầu bàn, sau khi ăn hết chén cơm vị nầy ngồi yên, không quay lại, đưa cái chén ra phía sau thì một Phật tử chấp tay vái lạy ba cái, cúi mình xuống và đưa hai tay lên khỏi đầu đỡ lấy cái chén, lấy cơm xong lại cung kính dâng lên vị trụ trì như lúc đầu trong lúc tô cơm đang nằm ngay trước mặt và trong tầm tay của vị trụ trì !. Phía bên kia, một Phật tử cầm quạt đang phe phẩy để cho thầy dùng cơm mặc dù Paris lúc đó đang mát trời ! Tôi thấy vị trụ trì nầy đã quên hẳn mình là kẻ tu hành mà có thái độ trịch trượng như một vị vua chúa ngày trước.

Trở về với đề tài, nhiều người hỏi tôi thời đại nầy làm nghề gì sướng nhất, tôi có thể trả lời tức khắc không cần đắn đo suy nghĩ rằng: ‘Nghề Đi Tu’ ! Một nghề không đòi hỏi vốn kiến thức, không cần đầu tư tài chánh mà chỉ cần thuộc vài ba kinh – như loại tu hành quốc doanh - là có thể hành nghề một cách dễ dàng. Khi hành đạo, không cần làm việc, nhưng tài sản đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do con chiên thiện nam tín nữ cung hiến cũng quá dư thừa cho phép những vị nầy ăn uống no say, vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn sàng có ngay ! Nhà cửa được giảm hoặc miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền, có người hầu hạ, có kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở cho đến nơi thờ phương thành cơ sở kinh doanh với giá bán cắt cổ từ cuốn sách cho đến gói thực phẩm. Tất cả hoạt động kinh tế đều theo hình thức chui và chỉ thu tiền mặt. Các lễ lộc phục vụ tôn giáo không có tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho nhà nghèo mà phải tuân theo theo từng bậc giá cả khác nhau. Cước phí xin lễ, cầu nguyện đối với các vị tu hành người nước ngoài hoàn toàn do tín hữu tự nguyện không bắt buộc theo một hình thức khuôn mẫu nào. Tôi chứng kiến một cha người Pháp từ đã chối số tiền lớn do một tín hữu người Việt Nam đến nhà thờ Tây xin lễ bình an cho gia đình. Chẳng những thế, nhà thờ còn làm hóa đơn chính thức để ghi vào sổ của nhà thờ. Nhưng trái lại, trong một dịp gặp một cha người Việt Nam để xin lễ, vị linh mục nầy cho giá đàng hoàng và tỏ vẻ không hài lòng khi tôi đề cập đến giá cả của nhà thờ !

Từ chỗ nầy người ta xem các vị tu hành từ trong nước ra đến hải ngoại hành nghề tôn giáo với giá cả cắt cổ tín hữu và Phật tử một cách vô tội vạ. Riêng việc việc tang chế, giá cả được ấn định bao nhiêu tiền cho cha thầy đến tư gia, đến nhà xác để tụng niệm. Bao nhiêu tiền để tổ chức theo hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ tiễn đưa người quá cố, bao nhiêu tiền để mang cốt tro về chùa, nhà thờ và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp giàu sang hay bình dân để thuê một cái hộc để đựng hủ cốt người chết ! Tiền nhiều thì nhà chùa nhà thờ tổ chức lớn, với nhiều cha nhiều thầy làm lễ. Nhiều tiền thì tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào cuối tuần. Ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những ngày giờ làm việc. Chính các thầy các cha đòi hỏi giá cả để tổ chức những buổi lễ đình đám cho hôn nhân, cầu siêu, án táng, đưa hài cốt về chùa, về nhà thờ. Những tiền lệ nầy đã tập cho tín đố Phật tử những tính xấu, xem thường việc linh thiêng tôn giáo đồng thời tạo cho những gia đình nghèo, thiếu phương tiện bị mặc cảm và đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.

Chắc tất cả mọi người đều công nhận rằng nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ tu hành mà còn giúp họ trở thành triệu phú một sớm một chiều. Chẳng mất một giọt mồ hôi, suốt đời không đóng thuế, nhà cửa được giảm tiền điện nước lại còn hưởng trợ cấp đặc biệt của xã hội. Cuộc đời tu hành thật đáng giá ngàn vàng, chỉ một sáng một chiều trở thành triệu phú, trở nên kẻ ăn trên ngồi trước và được trọng vọng nhất trong thiên hạ: Nhà cao cửa rộng, đi Mercedec, BMW… có tài xế, ngày ăn no, đêm ngủ với vợ, ngày thì đệ tử tự nguyện ( !) thời gian rổi rảnh thì đếm bạc giấy rồi đem cất vào tủ sắt. Như vậy nghề tu hành thời nay của người Việt quả thật là tuyệt hảo và độc nhất vô nhị của thế giới tính, từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đến nay. Nhà thờ nhà chùa đã biến thành cái chợ và hơn nữa các nơi nầy còn cạnh tranh tổ chức văn nghệ mừng Xuân, ca hát ăn uống thì chắc Chúa và Phật cũng phải quay mặt trước tình trạng tu hành thời nay. Bây giờ giới trẻ ai cũng muốn đi tu, một nghề ngồi mát ăn bát vàng mà được thiên hạ đội lên đầu, chắp tay vái lạy thì còn gì quý hơn khi phải phí cuộc đời gần hai chục năm trong các nhà trường để rồi vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.

Cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ và ‘cái nôi nhân loại’ của chế độ cộng sản đã đẻ ra nhiều nghề quái gở: Từ nghề ăn xin, mai mối, bịp bợm, nô lệ … đã nổi tiếng trên thế giới và bây giờ còn thêm nghề đi tu thật độc đáo vô cùng ‘hoành tráng’ không có một quốc gia nào bắt kịp. Chính cộng sản đã dàn dựng lên hình thức tu hành trưởng giả nầy từ ngay từ trong nước để chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam hòa toàn có tự do tôn giáo. Thật vậy, cần phải ghi nhận, trong nước đi đến đâu cũng gặp đầy dẫy nhà thờ, nhà chùa là những khu vực nguy nga to lớn bên cạnh những ngôi nhà của con chiên, Phật tử vẫn còn nghèo nàn đói rách. Các thầy các cha thì đua nhau xin tiền để sửa sang cơ sở tôn giáo của mình càng lớn càng đẹp để tranh với chùa, nhà thờ bên cạnh !!! Đi đâu các vị tu hành cũng hân hạnh khoe rằng, ông nầy bà nọ là Phật tử hoặc con chiên nằm trong khuôn hội hay họ đạo dưới quyền ! Các vị tu hành đâu có hay rằng dưới mắt Chúa và Phật những ông bà nầy là những tay ăn hối lộ, cướp của, giật vợ cướp chồng người ta, buôn bán cần sa, rửa tiền dơ mà các vị tu hành cứ đội lên đầu những người núp bóng tôn giáo cho mưu đồ chính trị, xem họ như một vinh hạnh của nhà chùa, nhà thờ. Các vị tu hành cứ giành nhau ôm chân các ông bà nầy và ca tụng hết mình thì thật tội nghiệp cho Chúa và Phật quá ! Việc tu hành không màng nghĩ đến, kinh kệ hằng ngày không quan tâm mà thầy cha chỉ chú trọng đến các hình thức phô trương bên ngoài. Đó là cái nghiệp tham sân si đang lấn át các đức tính bình dị, liêm khiết, vị tha, bác ái trong con người các vị tu hành hiện nay. Tình trạng thầy cha mượn Phật-Chúa để phục vụ cho cái tham sân si vô đáy cá nhân đang thịnh hành đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại!.

Cộng sản đố kỵ tôn giáo nhưng chúng lại xây dựng một số giáo hội gọi là quốc doanh nhằm thu nạp những vị tu hành mà tâm vẫn còn nặng nợ trần gian đồng thời cộng sản còn ‘sản xuất’ ra một số sư đỏ, cha đỏ để phân hóa các giáo hội chính thống, đồng thời chia đôi khối giáo dân cũng như Phật tử làm nhiều phe phái nhằm phá hoại tôn giáo. Âm mưu của cộng sản là chúng tạo ra một lớp tu hành gồm thầy cha quốc doanh với tất cả những cái xấu xa hơn những người trần tục, không ngoài mục đích để cho giáo dân, Phật tử nhìn thấy tư cách các vị lãnh đạo tinh thần để rồi từ đó họ sẽ xa dần Chúa và Phật.

Trong nước chính cộng sản bỏ tiền xây dựng chùa, nhà thờ để đưa vào đó những cha thầy quốc doanh với hai mục đích. Một là chứng minh với thế giới rằng Việt Nam là nơi mà các tôn giáo đều được phát triển tối đa, và hai là, chùa nhà thờ là những cái ổ trú ẩn của những tên cộng sản đội lốt tôn giáo. Tình hình ở hải ngoai cũng vậy, chùa và nhà thờ mọc lên như nấm, nguy nga đồ sộ, nhưng thử tìm hiểu tiền ở đâu để các thầy cha vừa mua đất vừa xây những cơ sở tôn giáo vượt quá khả năng ? Đồng ý rằng tiền của do tín đồ Phật tử đóng góp, nhưng đó chỉ là số nhỏ nhằm che đậy bên ngoài, phần tài chính quan trọng là do cộng sản cung cấp để thành lập những động ổ an toàn cho bọn cộng sản mặc áo nâu, áo đen từ trong nước ra trú ẩn.

Trong nước thì giáo gian Huỳnh công Minh, tổng thư ký tòa Tổng Giám Mục Sàigòn và cũng là ‘tổng tư lệnh’ giáo hội công giáo quốc doanh. Giáo gian nầy đang tận tình ‘điều khiển’ ngài Hồng Y Tổng Giám Mục ‘dính chàm’ Phạm Minh Mẫn. Do đó tín đồ không lạ gì khi ngài Hồng Y thi hành lệnh một cách tích cực, từ vụ Cờ Vàng cho đến ‘tống khứ’ Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi Vatican chữa bệnh theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội. Ngoài ra, linh mục nào muốn ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc đầy túi, muốn được lấy vợ đẻ con chính thức công khai, muốn có nhà thờ to lớn và đông giáo dân (như Phan Khắc Từ) thì đến cúi mình trước mặt giáo gian Huỳnh Công Minh, ký giấy tờ cam kết rồi lãnh vài ba trăm triệu để xây nhà thờ và xây tổ ấm !

Trước năm 1957 tôi thường đến thăm và dùng cơm chay với nhiều vị Thượng Tọa trụ trì tại các chùa nhỏ (chùa nghèo) trong vùng Gia Định cũng như với những vị linh mục dòng Phanxicô hoặc dòng Vinh Sơn. Các vị nầy sống bình dị, ăn mặc thô sơ, ăn uống thanh đạm. Khi tiếp xúc với những vị nầy tôi cảm nhận được Phật tính cũng như tinh thần Kytô thoát ra từ lời nói, cách cư xử đến cử chỉ và ánh mắt bao dung. Thâm tâm tôi lúc nào cũng quý trọng những vị chân tu nầy. Nhưng ngày nay, với chủ trương diệt tôn giáo, cộng sản đã sản xuất ra một số quốc doanh để mưu đồ phá hoại các tôn giáo chân chính và thành phần nầy hiện đang đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại. Các chất bổ béo trong cơ thể các vị tu hành ngày nay quá dư thừa, thân hình các vị tu hành phì nộn và đa số mang bệnh nhà giàu (tiểu đường, cao huyết áp …) vì các cha cai quản họ đạo được con chiên mời dùng bữa luân phiên từ nhà nầy qua nhà khác. Các thầy thì được Phật tử làm các món chay dưới dạng tôm rim, cá chiên, cua lột, thịt kho tàu giúp cho các thầy tự đánh lừa cả thị, xúc, vị giác để được ngon miệng. Như vậy cái si vẫn còn quá lớn, là sao cho trọn kiếp tu !!!

Xin kết thúc bài viết: Chống cộng sản thì phải chú tâm đến vấn đề tôn giáo vận. Địch đã gài sẵn cha thầy quốc doanh vào nhà thờ, vào chùa nếu chúng ta vô tình hay thiển cận, vẫn tôn vinh, nuôi dưỡng và đùm bọc thành phần nầy thì Phật tử con chiên đã tự chính mình ra tay diệt tôn giáo của mình.

Đinh Lâm Thanh



Giờ Quyết Định Đã Đến - Nguyễn Huy Hùng




Nguyễn Huy Hùng

Chúng ta những người Việt Quốc Gia Nhân bản yêu nước đã quyết liệt đấu tranh chống Cộng sản Việt Nam (CSVN) từ hơn nửa thế kỷ nay, vì chúng ta biết rằng chế độ Cộng sản là một hình thức Thực dân, Đế quốc, Phong kiến, Quân phiệt mới, một chế độ phi nhân độc tài tàn bạo vô nhân đạo gấp trăm ngàn lần những chế độ cũ. Các lãnh tụ Cộng sản gian manh tuyên truyền xảo quyệt đưa ra những mục tiêu lừa bịp để lôi cuốn mọi người đi theo ủng hộ chúng cướp chính quyền như: - Nhân dân làm chủ, - Mọi người có quyền bình đẳng, - Lao động theo khả năng hưởng thụ theo nhu cầu, - Không còn giai cấp giầu nghèo, cường hào ác bá, người bóc lột người, - Không còn tư sản tư hữu, mọi của cải tài sản đều thuộc về nhân dân … nhưng do Nhà nước quản lý …?

Gương Liên Xô Nga cho chúng ta thấy là, sau khi có được chính quyền trong tay thì chúng lại dùng phương thức Tập đoàn chuyên chính vô sản độc quyền cai trị đất nước, đàn áp bóc lột sức lao động của toàn dân một cách tàn bạo thâm độc hơn tất cả những Tập đoàn chuyên chính Phong kiến, Thực dân, Quân phiệt mà loài người được biết qua các thời đại phát triển từ sơ khai cho đến nay. Toàn dân trở thành bầy nô lệ tiếp tục lao động khổ cực để phục vụ cho giai cấp lãnh đạo mới là Tập đoàn Cộng sản khát máu phi nhân gọi một cách nôm na chính xác là Tập đoàn Tư bản Quân phiệt Phong kiến Đỏ.

Về chính sách và phương pháp chống Cộng, chúng ta đã được thừa hưởng tất cả những khảo cứu và phương sách được coi là thuận lý và khoa học nhất do các chính trị gia và triết gia Âu Á nổi tiếng biên soạn hướng dẫn. Mã-Lai-Á và Nam-Dương đã thành công trong việc loại trừ hết cộng sản trên đất nước của họ vào những năm cuối Thập niên 1950. Hoa-Kỳ cũng nhờ đó đã thắng cuộc Chiến Tranh Lạnh vào cuối Thập niên 1980 qua đầu Thập niên 1990, làm tan rã hoàn toàn cái nôi thành trì cộng sản Liên Xô và Đông Âu, đặt Trung Cộng vào trạng thái ngất ngư phải xét lại đổi mới theo kinh tế thị trường, Cu-Ba ngắc ngoải, và bây giờ Bắc Hàn và Việt Cộng đang đến lượt bước vào thời kỳ khủng hoảng hậu quả của chiến dịch “Diễn biến hoà bình” để giẫy chết.

Sau mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam từ ngày Quốc Hận 30-4-1975, một câu hỏi được đặt ra là: Vậy thì tại sao chúng ta cũng đã từng được Hoa Kỳ viện trợ để chống Cộng sản, nhưng chúng ta lại thất trận phải bỏ nước ra đi lưu vong nơi xứ lạ quê người từ hơn 30 năm nay, để cho hơn 80 triệu đồng bào Việt Nam ở trong nước phải chịu đựng sự bóc lột tàn bạo của bè lũ bạo quyền Việt Cộng còn thậm tệ hơn hoàn cảnh của các nông nô thời Phong kiến Thực dân trước kia?

Nếu can đảm thẳng thắn xét lại những bài học kinh nghiệm đã trải qua, chúng ta phải chân thành mà nhận định rằng: Chúng ta có chính nghiã, không thua Cộng sản về mặt tranh luận lý thuyết, nhưng chúng ta đã thua Cộng sản vì không phát huy được sáng kiến đem chiến tranh du kích và bạo lực tiêu diệt Cộng sản ngay trong lòng xã hội Cộng sản như Cộng sản đã thực hiện đối với chúng ta, và cũng vì chúng ta quá quân tử, xử thế theo Đạo Trời trọng Nhân Nghiã Lễ Trí Tín, không xảo quyệt lừa bịp tàn bạo vô nhân bất nghiã như Cộng sản, nên không thể áp dụng bạo lực một cách bừa bãi phi nhân.

Những điểm yếu khiến chúng ta tạm thua cuộc chiến máu lửa, có thể quy tại 3 lý do:

1.- Một số chính khách lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ trước đây giúp chúng ta chống Cộng sản nhưng không muốn chúng ta thắng, vì lợi ích chiến lược toàn cầu của họ là đang trắc nghiệm phương thức tấn công làm tan rã hàng ngũ đối phương Cộng sản bằng “Diễn biến hoà bình” ngay trong đất nước Liên Xô, các nước Đông Âu và Trung Cộng trong thời gian cuối Thập niên 1960 sang đầu Thập niên 1970, để tránh nguy cơ làm bộc phát chiến tranh nguyên tử. Do đó mọi sáng kiến tấn công của chúng ta vào hậu phương Cộng sản Bắc Việt, dù hợp lý và cần thiết đối với hoàn cảnh của Việt Nam lúc bấy giờ, đã không được Đồng minh Hoa Kỳ khuyến khích yểm trợ mà còn bị gạt bỏ một cách phũ phàng, bằng lý do là họ viện trợ cho chúng ta để tự vệ chứ không phải để chúng ta đi xâm lăng lãnh thổ miền Bắc Việt Nam để tiêu diệt Việt Cộng.

2.- Những người lãnh đạo và các nhóm trí thức, chính khách của chúng ta không chịu cách mạng bản thân, không thích ứng kịp thời theo tiến triển tâm lý xã hội thời đại nguyên tử, vẫn quá câu nệ vào triết lý cai trị theo nhân bản Khổng Nho, nên trở thành lạc hậu lạc lõng không giải quyết thoả đáng kịp thời những đòi hỏi của quảng đại quần chúng, lại không có những quốc sách hữu hiệu hướng dẫn giáo dục, để mọi người sống trong tình trạng tự do quá trớn với tinh thần cầu an hưởng thụ, hoặc không dám áp dụng những biện pháp cứng rắn cần thiết đúng mức khi tình hình đòi hỏi, nên đến lúc xẩy ra cảnh rối loạn hiểm nguy thì không còn cơ hội cứu vãn ổn định được đành buông xuôi.

3.- Chúng ta dễ tự mãn, không chịu tiếp tục khai thác đẩy mạnh thắng lợi đến kết quả cuối cùng, chỉ dồn đối phương vào thế bại nhất thời rồi lơ là không phòng bị, để chúng có thời gian ổn dịnh củng cố lại thế lực, theo chính sách cố hữu “lùi một bước để tiến lên hai bước” do các quan thầy Cộng sản quốc tế đã truyền dạy cho chúng, để rồi khi đã ổn định xong chúng lại tung ra những chiêu pháp mới, khiến chúng ta bất ngờ rơi vào thế ứng phó thụ động mất đi khí thế tấn công lúc ban đầu.

Hiện nay, các thế lực chính trị kinh tế thế giới đang hoà hợp cùng Hoa Kỳ đẩy mạnh cuộc chiến “Diễn biến hoà bình” tại vùng Á Châu Thái-Bình-Dương để khai thác thu lợi tối đa cho quốc gia dân tộc của họ. Và cũng nhờ thế mà tại Việt nam hiện nay, đồng bào ở trong nước cũng đang dũng cảm lợi dụng thời thế đứng lên đấu tranh chống bạo quyền Việt Cộng để đòi quyền sống, đòi công bằng xã hội, đòi tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, tư do phát biểu và hội họp. Đây là thời cơ thuận lợi nhất cho chúng ta sát cánh bên nhau thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các chương trình hành động vận động thế giới hỗ trợ cho đồng bào trong nước, vùng lên mạnh mẽ hơn nữa để sớm đạt được thành quả sau cùng là loại trừ hẳn được bạo quyền Việt Cộng và đảng CSVN ra khỏi chính trường Việt Nam, để toàn dân tộc Việt Nam có được cuộc sống ấm no hạnh phúc với mọi quyền căn bản của con người được tôn trọng và bảo vệ bình đẳng, mà chúng ta đã dấn thân hành động nhưng chưa đạt được kết quả mong muốn suốt từ mấy chục năm qua.

Để thực hiện được điều này, chúng ta phải xét lại những hoạt động chính yếu mà chúng ta đã và đang làm xưa nay, để phối hợp đẩy mạnh liên tục hơn nữa là:

1.- Cập nhật hoá và gửi thêm những bằng chứng xác thực cụ thể mới nhất về những hành động vi phạm nhân quyền của bạo quyền Việt Cộng trong mọi hoàn cảnh sinh hoạt xã hội đối với đồng bào Việt Nam ở trong nước, đến đại diện các quốc gia thuộc tổ chức Liên Hiệp Quốc, đến các cơ quan Lập pháp của tất cả các nước trên Thế giới, nhằm vận động làm thức tỉnh lương tri nhân đạo của họ để họ áp lực cơ quan Hành pháp của nước họ chấm dứt giao thương cũng như yểm trợ phát triển cho bạo quyền Việt Cộng. Bởi vì mọi chương trình trợ giúp của quốc tế gửi vào Việt nam cho đến nay, đều bị Tập đoàn bạo quyền Việt Cộng các cấp ăn chặn để làm giầu sống phè phỡn xa hoa và tiếp tục cấu kết với nhau củng cố uy quyền dùng bạo lực đàn áp bóc lột nhân dân, chứ quảng đại quần chúng dân tộc Việt Nam chẳng được tiếp giúp gì đáng kể, mà vẫn phải thường xuyên sống lam lũ khổ cực còn hơn dưới các thời Phong kiến Thực dân cai trị trước kia. Những hành động nhân đạo không được ban bố đúng nơi hợp với nhu cầu sẽ là tiếp tay với tội ác.

2.- Mỗi đoàn thể tuỳ theo khả năng và phương cách hành động riêng, hãy gia tăng nỗ lực yểm trợ thực tiễn cho đồng bào của chúng ta ở trong nước về mọi phương diện, để họ vững lòng không chùn bước tiếp tục vùng lên theo dây chuyền tại khắp mọi nơi và trong mọi lãnh vực, để dồn bạo quyền Việt Cộng mọi cấp vào thế cùng không chịu đựng nổi phải rút lui giải thể trả lại cho toàn dân tộc Việt quyền tự chủ lựa chọn chế độ chính trị dân chủ thật sự không Cộng sản như mong muốn.

3.- Các đoàn thể đấu tranh nơi hải ngoại đang có những nhóm vệ tinh hoạt động ở trong nước Việt Nam, hãy tăng cường cài thêm người vào hoà đồng hoạt động trong các tổ chức ngoại vi của bạo quyền Việt Cộng, trong các đảng bộ quân đội nhân dân, công an nhân dân, cơ quan hành chánh trung ương và địa phương trong cả nước, để lôi cuốn thúc đẩy các phần tử này tự phát đứng lên sát cánh cùng đồng bào đấu tranh lật đổ bạo quyền, y như các đảng viên Cộng sản và nhân dân các nước trong khối Liên Xô Nga và Đông Âu đã làm vào cuối Thập niên 1980 sang đầu Thập niên 1990 trong thế kỷ 20 vừa qua trên đất nước của họ.

4.- Và đặc biệt, các đoàn thể cũng nên dồn mọi nỗ lực vào cuộc vận động tất cả đồng hương Việt Nam đang sống trên toàn thế giới và quảng đại quần chúng địa phương nơi mình cư ngụ, quyết liệt tẩy chay không tiêu thụ các sản phẩm vật dụng do Việt Cộng xuất khẩu dưới bất cứ nhãn hiệu nào, của Cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam hay của các công ty ngoại quốc hợp doanh với Việt Cộng sản xuất. Việc làm này nhằm mục đích cắt nguồn cung cấp ngoại tệ cho Việt Cộng dùng nuôi dưỡng các cơ sở Việt Cộng hoạt động tuyên truyền lừa bịp xảo quyệt nơi hải ngoại để giúp cho chế độ vô nhân của chúng được sinh tồn tiếp tục hại dân bán nước.

Dĩ nhiên còn rất nhiều việc khác nữa cần phải thực hiện, nhưng trên đây chỉ là những đề nghị hành động tối thiểu cấp thiết để chúng ta dồn trọng tâm nỗ lực thực hiện ưu tiên.

Hy vọng kết quả của những việc làm này sẽ là nguồn nhiên liệu thiết yếu hỗ trợ cho lửa thiêng ở trong nước bùng mạnh liên tục quyết liệt rộng khắp trên đất nước Việt Nam, để nhanh chóng đốt cháy Tập đoàn Việt Cộng Mafia Tư bản Thực dân Phong kiến Quân phiệt Đỏ sớm tan thành tro bụi, cho toàn dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách cai trị bạo tàn vô nhân phi nghiã của chúng từ suốt hơn nửa Thế kỷ nay.

Cầu xin Ơn Trên, Trời, Phật, và Anh Linh các Anh Hùng Liệt Nữ dòng giống Tiên Rồng Việt Nam phù trợ cho tất cả chúng ta.

Nguyễn Huy Hùng

Cựu Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến, Cựu tù nhân chính trị, 13 năm lao động khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của Đảng Việt Cộng và bạo quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ sau ngày Quốc hận 30-4-1975.



50 Năm Trước Hà Nội Khởi Xướng Cuộc Xâm Lăng Miền Nam Việt Nam - Tiến sĩ Uwe Siemon-Netto



South Vietnamese paratroopers getting ready to jump into combat
Photo Courtesy of HNDVN

Tiến sĩ Uwe Siemon-Netto
Người dịch: Duy Anh

Tết 2010 đánh dấu một cộc mốc quan trọng cho người Mỹ gốc Việt. Theo số liệu của Cơ Quan Thống Kê Hoa Kỳ (U.S. Census Bureau), cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã lên tới con số 1.6 triệu và trở thành cộng đồng thiểu số gốc Á Châu lớn thứ hai toàn nước Mỹ (sau người Trung Hoa*). Ðối với họ, năm 2010 cũng chứa đựng một khía cạnh đau buồn bởi vì là kỷ niệm thứ 50 của một biến cố khiến họ phải bỏ xứ lưu lạc đến bến bờ này. Năm 1960, cộng sản Bắc Việt thành lập “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, gọi tắt là Việt Cộng. Ðiều này đã mở màn cho một cuộc chiến mà hậu quả là nỗi đau đớn chưa nguôi cho hàng chục ngàn người đã từng nếm trải ngục tù cộng sản. Một công trình nghiên cứu y khoa dựa trên nhóm 200 người sống sót đã từng bị hành hạ cho thấy 64% đã biểu lộ những sự hư hại rõ rệt về thần kinh.

Khám phá của Richard F. Mollica, bác sĩ tâm thần của trường Ðại Học Harvard và các cộng sự viên đã xác nhận một điều là mặc dù người Mỹ cố quên đi chiến tranh Việt Nam, hậu quả cuộc chiến này vẫn luôn còn đó. Rất nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ không thể quên được sự đón tiếp tồi tệ khi họ trở về Mỹ và bị phỉ báng là những “tên sát nhân trẻ em”. Uất ức vì sự phản bội của đồng hương, hàng ngàn cựu chiến binh Hoa Kỳ đã phải tự tử.

Trong khi đó, dư luận Hoa Kỳ không hề nhắc đến số phận của các cựu chiến binh miền Nam Việt Nam đang sinh sống trên đất nước này. Bây giờ mới rõ ra là họ cũng chịu đựng đau đớn bởi những vết thương vô hình sau khi bị bỏ rơi vào tay bạo ngược. Ðiều này không có gì ngạc nhiên cả. Suốt chiều dài lịch sử, các chiến binh luôn luôn phải gánh chịu hai loại tổn thương - về thể xác gây ra bởi vũ khí và về tinh thần do những ám ảnh đau thương, đặc biệt là nỗi đau bị bỏ rơi ngay tại quê hương của mình.

Hẳn nhiên có nhiều cựu chiến binh miền Nam Việt Nam với những vết thương như vậy trong đám đông nồng nhiệt đầy tiếng pháo đón chào “Năm Canh Dần” vào sáng Chủ Nhật đầu năm. Họ có thể không để lộ ra nhưng sau nhiều năm nghiên cứu, Bác Sĩ Mollica đã khám phá ra là những vết thương vẫn luôn còn đó.

Khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, những nhà phê bình chính sách Hoa Kỳ đã đồng lòng vào sự bịa đặt rêu rao bởi những tư tưởng gia quá khích và một số bộ phận của truyền thông. Họ cho là Washington và những “tay sai tham nhũng” tại Sài Gòn đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam. Ðến nay đã có đầy đủ bằng chứng để chỉ mặt đích danh thủ phạm: đó là Hồ Chí Minh. Dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh là một thành viên cốt cán của Cộng Sản Quốc tế (Comintern) với nhiệm vụ rõ rệt là áp dụng chủ thuyết Lê-Nin-Nít vào Việt Nam. Hồ Chí Minh đã theo đuổi không mệt mỏi sứ mạng được giao, ngay cả sau khi Hiệp Ðịnh Geneve 1954 tạm thời chia đôi đất nước với Bắc Việt theo Cộng Sản và miền Nam Việt Nam theo khối Tây Âu.

Vài tháng trước kỳ đại hội Ðảng Lao Ðộng lần thứ ba, Quốc Hội Bắc Việt đẻ ra tổ chức Việt Cộng vào tháng 9 năm 1960. Ðiều này chứng tỏ giới lãnh đạo cộng sản đã chuyển từ giai đoạn “khuấy động và tuyên truyền”, giai đoạn đầu của chiến tranh du kích vẽ ra bởi Võ Nguyên Giáp, sang thành “đấu tranh bạo động,” giai đoạn hai của chiến lược này. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn tổng công kích với hình thức chiến tranh qui ước mà thế giới đã được biết qua màn hình TV hàng ngày.

Vào tháng 1, 1960, chính quyền Sài Gòn ghi nhận hàng ngày một số lượng trung bình khoảng 7“hành vi” khủng bố tại các vùng tiền đồn Việt Nam. Danh từ “hành vi” mà phát ngôn viên quân sự loan báo hàng ngày cho giới báo chí trong “bản tin vào lúc 5 giờ” nghe có vẻ tầm thường nhưng thực chất là những hành động ghê tởm mà số lượng tăng lên nhanh chóng thành hàng trăm và hàng ngàn vụ mỗi ngày.

Ðầu năm 1965, bản thân người viết làm nhân chứng cho một “hành vi” như vậy tại một ngôi làng đã được một toán Việt Cộng chiếu cố đêm hôm trước. Gia đình trưởng làng gồm cha mẹ và 11 người con bị treo cổ chết trên cây. Toàn làng bị bắt buộc phải chứng kiến cuộc tắm máu này. Trong khi đó, một tên cán bộ Việt Cộng răn đe họ “đây là hậu quả cho bất cứ ai cộng tác với ngụy quyền Sài Gòn.” Vị trưởng làng đã trung thành với chính quyền miền Nam Việt Nam trước đó.

Những ký ức như vậy không bao giờ phai mờ được, thì làm sao có thể quên được sự chịu đựng của những cựu chiến binh và công chức miền Nam Việt Nam đã trải qua khi đất nước họ bị đồng minh bỏ rơi và lọt vào tay cộng sản. Nhắc lại lần thứ 50 ngày thành lập tổ chức Việt Cộng cũng là dịp để tỏ lòng tri ân những người đồng minh cũ của Hoa Kỳ, những người đã bỏ mình ngoài biển cả trốn chạy chế độ cộng sản, và đồng thời cho những người đã không ngừng làm kinh ngạc người Mỹ với sự siêng năng, cần cù và lòng trung thành với đất nước này.

Ðã từng chịu đựng sự chế nhạo, nay họ xứng đáng được kính trọng và nhớ ơn sâu sắc. Rất mong năm Canh Dần này sẽ là một năm hạnh phúc và thành công cho tất cả những “Sài Gòn nhỏ” trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ.

(Người dịch: Duy Anh)
Bản gốc tại: www.uwe-thebeat.org

(*) Phần thêm của người dịch:

Giáo Sư Uwe Siemon-Netto, Ph.D gốc người Ðức, nguyên tổng biên tập về tôn giáo của United Press Internationa, hiện là bình luận gia quốc tế và một nhà thần học (không phong chức)của đạo Lutheran. Ông là sáng lập viên của Center for Lutheran Theology and Public Life (CLTPL) và chủ tịch của tổ chức “Tthe League of Faithful Masks” đặt bản doanh tại Capistrano Beach và trường Concordia University Irvine, California.

Với tư cách một nhà báo, ông chuyên về những đề tài liên quan đến niềm tin, xã hội và ngoại giao. Ông hiện là cộng tác viên thường trực của tờ “The Atlantic Times,” một tờ báo tiếng Anh hàng đầu của giới báo chí Ðức tại Mỹ.

Ông đã từng là phóng viên tường thuật những sự kiện lịch sử quan trọng như vụ xây dựng bức tường Bá Linh năm 1961, hoạt động của Liên Hiệp Quốc, phong trào nhân quyền tại Mỹ, vụ ám sát TT John F. Kennedy, cuộc chiến Việt Nam (trong thời gian 5 năm), cuộc chiến 6 ngày Ả Rập-Do Thái, và Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng.

Trong thời gian làm phóng viên chiến trường tại Việt Nam, ông đã chứng kiến tội ác Việt Cộng tại Huế kỳ Mậu Thân 1968, trong đó một số người quen của ông là 3 bác sĩ người Ðức cùng với vợ của một người đang làm việc thiện nguyện tại trường Y Khoa Huế đã bị thảm sát.

*************
    50 Years Ago: Hanoi Began the Vietnam War
By UWE SIEMON-NETTO


South Vietnamese paratroopers getting ready to jump into combat
Photo Courtesy of HNDVN

Têt 2010 presents a milestone for Vietnamese-Americans. Numbering more than 1.6 million, they are set to become the second-largest community of Asian ancestry in the United States this year, according to the U.S. Census Bureau. There is also a grim aspect to 2010. It is the 50th anniversary of an event that ultimately brought them to these shores. In 1960, Communist North Vietnam formed the “National Liberation Front of South Vietnam,” the Vietcong. This set the stage for a war whose legacy is still causing agony to tens of thousands of men tormented in Communist camps. A new medical study of a sample group of 200 torture survivors found that 64 percent of “showed neurologic impairment.”

The findings by Harvard University psychiatrist Richard F. Mollica and his fellow researchers illustrate that, much as Americans would like to forget about the Vietnam War, it is still very much with us. Many U.S. Vietnam Veterans find it hard to forget that when they returned from combat they were defamed as “baby killers.” Feeling abandoned by their compatriots, thousands committed suicide.

The U.S. public gave hardly any thought to the fate of South Vietnamese veterans living in this country. Now it turns out that they too are hurting from invisible wounds inflicted on them after having been abandoned to tyrants. This comes as no surprise. Throughout history combatants have always risked two kinds of wounds – physical wounds caused by weapons and psychological wounds due to the recall of their pain, particularly the pain of rejection at home.

There will be many neurologically injured veterans among the crowds greeting the “Year of the Tiger” with firecrackers and cheers early on Sunday morning. Their wounds might not show openly. But in years of research Dr. Mollica has discovered that they are there nonetheless.

When the Vietnam War was over, many critics of U.S. policies believed the fib disseminated by ideologues and segments of the media that Washington and its “corrupt puppets” in Saigon had caused this conflict. Yet for a long time there has been ample evidence pointing to the real identity of its author: Ho Chi Minh. Under the name of Nguyen Tat Thanh he had been a key player in the Communist International (Comintern) with the specific charge to apply Leninism to Vietnam. He pursued this mission relentlessly, even after the 1954 Geneva ceasefire accords that temporarily divided Vietnam’s Communist North and pro-Western South.

Months before Hanoi’s Third Workers’ Party Congress fashioned the Vietcong in September 1960, it became clear that the Communist leaders had shifted from “agitation and propaganda,” the first phase in guerilla warfare in the guerilla warfare strategy designed by North Vietnam’s defense minister Vo Nguyen Giap to “armed struggle,” the second phase. The third and final “phase three was the type of conventional war the world eventually watched every night on its television screens.

In January 1960, the Saigon government registered a daily an average of seven terrorist “incidents against its outposts. The term, “Incidents,” was banal term military spokesmen used during in “five o’clock follies,” the daily press briefing in Saigon. In reality, these “incidents” were gruesome outrages whose numbers multiplied quickly into hundreds and eventually thousands every day.

In early 1965, this correspondent witnessed one such “incident” in a village that had been “visited” by a Vietcong team during the previous night. The village mayor, his wife and their eleven children were hanging from trees. All other villagers had been forced to watch this bloodbath, while listen a Vietcong cadre told them: “This will happen to anybody cooperating with the Saigon puppets.” The mayor had been loyal to the South Vietnamese government.

Memories like these do not fade away, nor do memories of the torture South Vietnamese soldiers and public officials were subjected to after their country, abandoned by its Western allies, had fallen to the Communists. On the 50th anniversary of the Vietcong’s creation, it is time to pay homage to America’s former allies, to those who drowned fleeing from Communism, to those who made it to the United States where they have not stopped astounding their neighbors with their industry and their loyalty to this country.

Once derided, they deserve respect and gratitude. May the Year of the Tiger be a happy and successful one for all the “Little Saigons” in the United States.

Source: http://www.uwe-thebeat.org/uwe.html



Việt Cộng Hợp Pháp Hóa Việc Hiến Hoàng Sa Trương Sa Cho Tàu Cộng Qua Liên Hiệp Quốc - Nguyễn Thành




Nguyễn Thành

* Phát hiện kinh hồn: Hội thảo HS-TS chỉ là quả mù, trong hồ sơ nộp LHQ, VC đã vứt Hoàng Sa ngoài đường ranh 200 hải lý của VN; nghĩa là cắt Hoàng Sa cho Tàu từ lâu và vài đảo của Trường Sa ! Lê Công Phụng - Đỗ Mười - Lê Khả Phiêu là những tên lừa gạt !

Hội thảo Biển Đông ở Paris là hỏa mù, Hà Nội đang tiến tới việc bàn giao Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua LHQ.

Sau Hội Thảo Hoàng Sa Trường Sa ở Sàigòn ngày 25.7.2009 với tình trạng diễn giả “bị ngăn chặn” không đến được và Hội Thảo Biển Đông ở Hà Nội ngày 10.11.2009 với những lời tuyên bố lung tung, dối trá của Hà Nội [xin đọc trong bài viết dưới đây], Hà Nội lại vừa bày ra vụ Hội Thảo Biển Đông ở Paris ngày 27-28.2.2010 rồi hủy bỏ vào phút chót mà nếu có hội thảo thì trưởng đoàn Hà Nội cỡ Phó Chủ Tịch nước Nguyễn Thị Bình [Ngoại-trưởng, Trưởng đoàn MTDTGPMN “cò mồi” ở Hoà Đàm Paris 1973] thì kết quả thế nào mọi người đều thấy trước! Nói rõ hơn: Hội thảo cái gì nữa -Hoàng Sa Trường Sa của VN ai cũng biết; vấn đề lúc này là từ lâu đảng CSVN đã dâng cho đảng CSTH và nay thì Hà Nội đang hoàn tất việc bàn giao cho Bắc Kinh qua Luật Biển LHQ và tung đủ thứ tin tức hỏa mù trong đó có hội thảo chẳng qua để mọi người không chú ý tới 2 cái hồ sơ xúc tiến việc bàn giao có nhiều khả năng sẽ được Ủy Ban Thềm Lục Địa LHQ chấp thuận nay mai.

Học giả Vũ Hữu San, chuyên gia về Biển Đông, tác giả “Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa”, nhận xét về hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ngày 6 và 7.5.2009 để giải quyết vấn đề Biển Đông như sau: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ. Dân chúng VN đừng bao giờ nghe chúng nói, hãy nhìn những gì chúng làm. Nếu xem hải đồ do Hà Nội nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải-phận Tàu; 4.5 biển Trường Sa không còn trong hải-phận VN ... Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được ... Trung Cộng sẽ dùng hải đồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”

Cả 2 hồ sơ của Hà Nội đều được Ủy Ban Thềm Lục Địa thông qua bước đầu ở khóa họp 24 cuối năm 2009, sẽ được giải quyết tiếp ở khóa họp 25 khai mạc vào ngày 15.3.2010 sắp tới và nếu chúng ta không tìm được cách ngăn chặn thì Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt sẽ vĩnh viễn rơi vào tay bành trướng Bắc Kinh qua chính Luật Biển LHQ. Sau khi đọc Thông Cáo của Ủy Ban Thềm Lục Địa kết thúc khóa họp 24 vào ngày 11.12.2009 thông báo việc hồ sơ Hà Nội đã được chấp thuận bước đầu, người viết thực hiện ngay bài cảnh báo dưới đây và dự tính phổ biến vào dịp Tưởng Niệm Chiến Sĩ Hoàng Sa 19.1 năm nay do Gia Đình Hải Quân Hàng Hải VNCH tổ chức long trọng ở nhiều nơi trên thế giới. Nhưng một trận cúm kéo dài khiến người viết không thực hiện được mong muốn và bài viết chỉ vừa tạm hoàn tất để kịp gửi cho Đặc San Luật Khoa phát hành vào dịp Hội Ngộ Cựu Sinh Viên Luật Khoa Sàigòn Toàn Cầu ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, 2-4.4.2010 và trước tin tức loại hỏa mù [kiểu Hội Thảo Biển Đông ở Paris] người viết xin được phổ biến bài viết để cảnh báo: Hà Nội đang hoàn tất việc giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua Luật Biển LHQ; tất cả những tin tức này nọ hay hội họp ồn ào về vấn đề Biển Đông của Hà Nội chỉ là hỏa mù mà thôi!

Cựu Sinh Viên Luật Khoa Sàigòn ở hải ngoại cảnh báo: Hội thảo Biển Đông ở Paris là hỏa mù, Hà Nội đang tiến tới việc bàn giao Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua LHQ

Tường trình - Nhận định: CSVLK Nguyễn Thành.

I. Tin Liên Hợp Quốc

Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ [từ đây viết là Ủy Ban=Commission] kết thúc khoá họp 24 về thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở trụ sở LHQ, New York, vào ngày 11.12.2009. Thông Cáo rất dài của Ủy Ban đã được phổ biến trên trang nhà “UNCLOS” và người viết bài này xin tóm lược một số điều cần biết và liên quan tới VN dưới đâỵ [1]

1. Ủy Ban cho biết đã nhận được 35 hồ sơ mới cho khóa họp 24, từ 10.8.2009 đến 11.9.2009; trong số này có 2 hồ sơ của Hà Nộị Tuy là khóa họp 24 nhưng là khóa họp đầu tiên dài nhất của Uỷ Ban về thềm lục địa mở rộng sau hạn kỳ nộp đơn 10 năm, ngày chót là 13.5.2009. Vì số lượng hồ sơ quá nhiều nên Ủy Ban đã phải họp thêm 2 lần, mỗi lần 1 tuần lễ vào đầu tháng 11 và 12.2009. Tuy vậy, Ủy Ban vẫn chưa giải quyết được gì về 35 hồ sơ mới nàỵ

Ủy Ban đã dành gần hết khóa họp để giải quyết 5 hồ sơ cũ [của Pháp, Barbados, Anh và North Ireland, Indonesia, Nhật] tồn đọng từ các khóa họp cũ. Dù cả 5 hồ sơ này đều đã được các Tiểu Ban [Sub-Commission] thành lập bởi các khóa họp cũ xem xét và đề nghị khuyến cáo, Ủy Ban chỉ giải quyết dứt điểm được 1 hồ sơ của Pháp, nộp từ 2 năm trước. Bốn hồ sơ cũ còn lại, Ủy Ban có giải quyết được thì sớm nhất cũng cuối năm 2010 hay 2011. Ủy Ban đã nghe đại diện 18 nước trình bầy về hồ sơ mở rộng thềm lục địa và VN là nước duy nhất trong số 18 nước này đã nhờ chính chuyên viên của Ủy Ban Thềm Lục Địa giúp soạn thảo hồ sơ Ngày 27.8.2009, đại diện Hà Nội trình bầy trước Uỷ Ban về hồ sơ nộp ngày 6.5.2009 liên quan tới Nam Biển Đông, trong đó có Trường Sa và ngày 28.8.2009 trình bầy về hồ sơ ngày 7.5.2009 liên quan tới Bắc Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt.

2. Về Thủ Tục Cứu Xét, muốn mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, nước ven biển phải nộp hồ sơ cho Ủy Ban. Hồ sơ gồm bản đồ với tọa độ rõ ràng và cách tính để quy định đường ranh thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo quy định của Luật Biển LHQ. Tổng Thư Ký LHQ phải thông báo bằng văn bản cho các nước hội viên Luật Biển khi nhận hồ sơ và phổ biến văn bản này trên trang nhà LHQ.

Để giải quyết hồ sơ, Ủy Ban phải chỉ định Tiểu Ban gồm 7 người để xem xét. Tiểu Ban họp riêng khi xét hồ sơ, có thể yêu cầu nước liên hệ cung cấp thêm tài liệu hay thay đổi hồ sơ, phải thông báo cho nước liên hệ biết kết luận về hồ sơ và đọc cho nước này biết các khuyến cáo [Recommendations] của Tiểu Ban trước khi đệ trình Ủy Ban. Nước liên hệ được quyền tham dự buổi họp của Uỷ Ban để trình bầy quan điểm về khuyến cáo của Tiểu Ban. Ủy Ban cũng có thể yêu cầu nước liên hệ thay đổi một phần hay toàn bộ hồ sơ cho hợp với Luật Biển. Nếu Ủy Ban không có ý kiến khác thì khuyến cáo của Tiểu Ban sẽ là quyết định của Uỷ Ban. Quyết định của Ủy Ban có giá trị chung quyết và ràng buộc các nước liên hê..

3. Uỷ Ban hiện nay do Đại Hội Đồng các nước hội viên Luật Biển [họp năm 2007] bầu ra, gồm 21 ủy viên, nhiệm kỳ 5 năm [2007 – 2012]. Như thế, Ủy Ban chỉ có thể thiết lập tối đa 3 Tiểu Ban nên việc giải quyết hồ sơ rất chậm và thường mất vài năm. [Hồ sơ Brazil nộp ngày 17.5.2004, Ủy Ban giải quyết 9.4.2008, mất 4 năm; hồ sơ của Cuba nộp 1.6.2009 -tức sau 13.5.2009 có 17 ngày, Ủy Ban quyết định năm 2030 mới giải quyết, tức 20 năm nữa].

Điều cần lưu ý ở đây là trong số 21 ủy viên của Ủy Ban đương nhiệm có 3 đại diện của 3 nước CS: Trung Cộng, Bắc Hàn và Ngạ Điều cần lưu ý nữa là trước khi Uỷ Ban họp để cứu xét hồ sơ thì các nước hội viên Luật Biển họp trước để thông qua chương trình nghị sự của Uỷ Ban. [2] Hơn nữa, theo Luật Biển, Uỷ Ban chỉ có 2 nhiệm vụ: a] Cứu xét và chấp thuận hồ sơ thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý và b] Cố vấn về khoa học và kỹ thuật biển cho các nước ven biển, nếu được yêu cầu. [3]

Tóm lại, Hà Nội đang ở tư thế cầm quyền và hội viên Luật Biển để độc quyền nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng VN và quyền “nhào nặn” hồ sơ sau khi nộp. Trong số 21 ủy viên của Ủy Ban có đại diện của Nga, Trung Cộng và Bắc Hàn là một lợi thế khác của Hà Nộị Hà Nội đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và nhận ra lợi thế và “kẽ hở” của Luật Biển. Hà Nội bất ngờ nộp hồ sơ cho LHQ vào phút chót là do Bắc Kinh hối thúc và Nguyễn Tấn Dũng là kẻ hoàn tất tiến trình bàn giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh.

II. Về 2 hồ sơ Hà Nội nộp LHQ

A. Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN, chỉ xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế. [4] [5] Học giả Vũ Hữu San, chuyên gia hàng đầu về Hoàng Sa Trường Sa, sau khi đọc hồ sơ Hà Nội đã lên án: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ. Nếu xem hải đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; 4.5 Trường Sa không còn trong hải phận VN ... Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không đượ c... Tàu sẽ dùng hải đồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”

1. Theo Luật Biển, ngày 13.5.2009 là ngày chót để nộp hồ sơ về Thềm Lục Điạ mở rộng, không phải để xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Hà Nội đã bỏ lơ suốt 10 năm [từ 13.5.1999 đến 13.5.2009], vào những ngày chót mới nộp hồ sơ nhưng thay vì xin mở rộng Thềm Lục Địa VN lại xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Chủ quyền của nước ven biển đối với 2 Vùng này khác hẳn nhau.

Theo Luật Biển, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý là để đánh cá và thuộc chủ quyền tuyệt đối và đương nhiên của các nước ven biển, không cần phải đăng ký. Hà Nội đã đăng ký Vùng Đặc Quyền Kinh Tế này từ ngày 12.11.1982 rồi.

Thềm Lục Địa rộng 200 hải lý theo Luật Biển là vành đai mở rộng của lãnh thổ và có thể kéo dài ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa [continental margin] nhưng không được quá 350 hải lý. Nước ven biển có độc quyền khai thác khoáng sản và nguyên liệu không phải sinh vật sống ở vùng ngoài 200 hải lý xin mở rộng này.

2. Hà Nội ký Luật Biển ngày 10.12.1982 và phê chuẩn ngày 25.7.1994, tức rất sớm, tất phải biết rõ những điều trên đây. Khi Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, bắn giết bừa bãi ngư dân VN hành nghề hợp pháp trong vùng và dùng võ lực xâm lăng Trường Sa, Hà Nội có trách nhiệm phải nhờ các cơ quan thẩm quyền phân xử nhưng Hà Nội chỉ phản đối xuông cho có phản đối.

Điều 8 Luật Biển LHQ quy định:

Đường căn-bản [Baseline] là lằn nước thuỷ triều xuống thấp nhất. –Nội-hải [Internal water] là vùng biển bên trong đường căn-bản. -Lãnh-hải [Territorial water] rộng 12 hải lý ngoài đường căn-bản. -Hải-phận [Contiguous Zone] là vùng biển ngoài lãnh-hảị -Vùng đặc quyền kinh tế [Exclusive Economic Zone] 200 hải lý, tính từ đường căn bản ra khơi.

[Xin đọc bản đồ LHQ quy định chiều rộng các Vùng biển trên đây để thấy Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN và chỉ xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý]

- Thềm Lục Địa [Continental Shelf] cũng rộng 200 hải lý tức trùng điệp với Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý.

- Thềm Lục Địa mở rộng [Extended Continental Shelf]: Từ 13.5.1999, Luật Biển cho phép các nước ven biển thời hạn 10 năm để xin mở rộng thềm lục địa đến tối đa 350 hải lý [còn gọi là nền lục địa=continental margin] nếu đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên từ đất liền ra biển [như trường hợp đáy biển của VN chạy thoai thoải từ đất liền ra khơi]

- Cần phân biệt: Lãnh hải rộng 12 hải lý; Hải phận là vùng biển từ lãnh hải ra khơi nên có thể rộng tối đa 350 hải lý.

3. Biển Đông rộng gần 1 triệu 100 ngàn hải lý vuông, Vịnh Bắc Việt chiếm hơn 1.3 diện tích Biển Đông và bờ biển VN dài 3,260 km, trải qua 13 vĩ độ, từ vĩ độ 21 N đến vĩ độ 8 N.

Nếu Thềm Lục Địa VN mở rộng tới 350 hải lý thì hải phận VN rộng gấp 4 lần đất liền và gồm Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó hai quần đảo này nằm gần trọn trên Thềm Lục Địa mở rộng 350 hải lý của VN.

Cũng cần biết là 2 nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có một phần rất nhỏ nằm cách bờ biển VN 200 hải lý, hầu hết các đảo của hai nhóm này đều nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ biển VN tới 400 hải lý. Hà Nội biết rõ điều này nên khi xác nhận Thềm Lục Địa VN chỉ 200 hải lý là có ý đồ gạt Trường Sa Hoàng Sa ra ngoài hải phận VN.

B. Hà Nội gạt Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN

1. Hà Nội không xin mở rộng thềm lục địa VN ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện để được hưởng và xác nhận hải phận VN có 200 hải lý và bản đồ kèm theo hồ sơ 6.5.2009 thì gạt hầu như toàn bộ Trường Sa ra ngoài hải phận VN. [Bản đồ hồ sơ 6.5.2009 của Hà Nội, đường ranh 200 hải lý của VN mầu đỏ bên trái]

Trung Cộng ký Luật Biển LHQ ngày 10.12.1982 và phê chuẩn ngày 7.6.1996 nhưng chưa bao giờ tôn trọng Luật Biển. Trung Cộng còn tự ban hành luật biển riêng vào năm 1992 và công bố bản đồ hình lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông, bất chấp các quy định của Luật Biển LHQ.

Bản đồ lưỡi bò Trung Cộng lấn sát bờ biển VN ở nhiều nơi, có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý, vi phạm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, chạy xuống tận đảo Natuma của Nam Dương, tức cách lục địa Trung Hoa gần 1000 hải lý, trong lúc Luật Biển qui định thềm lục địa mở rộng cũng không được vượt quá 350 hải lý.

2. Trung Cộng không nộp hồ sơ mà chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm ngày 8.5.2009 cho Tổng Thư Ký LHQ để yêu cầu Ủy Ban không cứu xét hồ sơ của VN và Mã Laị Kèm với công hàm là bản đồ lưỡi bò mà Trung Cộng biết chắc Uỷ Ban sẽ không thể nào chấp thuận được vì nó trái ngược với các quy tắc của Luật Biển LHQ.

Uỷ Ban Thềm Lục Địa không có quyền chia ranh giới biển. Nguyên tắc của Uỷ Ban là khuyến khích các nước liên hệ tự giải quyết việc phân ranh với nhau. Nếu có tranh chấp giữa 2 hay nhiều nước thì Uỷ Ban có thể không chấp thuận hồ sơ của cả 2 hay nhiều nước.

3. Tuy thế, vấn đề chưa hẳn phải kết thúc ở đây. Các nước liên hệ còn quyền đưa vấn đề ra trước Tòa Án Quốc Tế chuyên về biển ở Hamburg, Đức-quốc hay Tòa Án Quốc Tế ở La Hague, Hòa Lan.

Đưa ra Tòa Án Quốc Tế La Hague thì cũng như không, chẳng giải quyết được gì vì theo quy chế của Tòa này thì hai bên tranh tụng có quyền “không thi hành” phán quyết của Tòa cho dù chính họ nhờ Tòa phân xử.

Trái lại, phán quyết của Tòa Án Quốc Tế Hamburg thì có giá trị chung quyết và các bên tranh tụng phải chấp hành. Nhưng vấn đề là Hà Nội có dám tiến tới hay không? Điều này rất khó xảy ra lúc này vì ai cũng biết đảng CSVN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc đảng CSTH và Bắc Kinh bảo sao thì Hà Nội cúi đầu làm vậy.

C. Hà Nội gạt Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý VN

1. Ngày 7.5.2009, Hà Nội nộp hồ sơ liên quan đến phía Bắc Biển Đông, tức Vịnh Bắc Việt và Hoàng Sạ Tuy lời mở đầu hồ sơ này tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của VN và cũng nói tới việc mở rộng thềm lục điạ ngoài 200 hải lý nhưng phần chính văn bản thì lờ đi và rõ rật nhất đường ranh 200 hải lý khi gặp nhóm đảo Hoàng Sa thì dừng lại vì 2 bên đã giải quyết qua hiệp ước lén lút ngày 25.12.2000 rồi.

Bản đồ trong hồ sơ 7.5.09 của Hà Nội [dưới] vẽ vùng mở rộng hình tam giác ngược, đỉnh nhọn ở dưới, cạnh đáy nằm nghiêng ở trên gạt Hoàng Sa ra ngoài, tức đã giải quyết rồi.

2. Đường ranh giới 200 hải lý VN màu đỏ chạy từ vĩ độ 10 N lên phía Bắc, khi vừa gặp quần đảo Hoàng Sa ở vĩ độ 15 N thì đột ngột dừng lại. Đường vẽ ở bản đồ của Hà Nội không chính xác; Hà Nội cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên tận vĩ tuyến 16 N, trong lúc hồ sơ ghi đường này dừng lại ở 15 N 067, tức chỉ nhô khỏi 15 N một chút, không thể tới vĩ tuyến 16 N được.

3. Vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý trong hồ sơ 7.5.2009 có hình tam giác ngược, đỉnh rất nhọn phía dưới cách xa nhóm Trường Sa, cạnh đáy nằm chếch ngang ở phía trên vừa đụng nhóm Hoàng Sa thì dừng lại vì nhóm đảo Hoàng sa nằm trọn từ vĩ độ 15 N đến 17 N, tức Hoàng Sa Trường Sa đều ở ngoài hình tam giác mở rộng của Hà Nội.

Nói cách khác, vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý hình tam giác ngược chỉ là một vùng nước biển, dưới cố tránh đụng Trường Sa, trên cố né chạm Hoàng Sa, tức chẳng ảnhhưởng gì tới phần chính của hai quần đảo này hay đụng chạm đôi chút đến nhóm Trường Sa thì cũng chỉ là một vài đụn hay đá mà thôi.

Hay theo chuyên gia về Hoàng Sa Trường Sa Vũ Hữu San thì: “VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa,” “VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số trên 100 đảo nổi và chìm của nhóm Trường Sa”.

D. Hiệp ước 25.12.2000 phân định lại Vịnh Bắc Việt

1. Ngày 25.12.2000, Hà Nội và Bắc Kinh ký hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt, nhưng dấu kín nội dung trong nhiều năm tuy dư luận đã ầm ĩ từ trong nước ra hải ngoại là đảng CSVN đã dân đảng CSTH 11 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt qua hiệp ước lén lút này. Khi bản đồ [dưới đây] trong 1 hồ sơ mật của Hà Nội bị phát hiện thì giới nghiên cứu cho rằng Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh tới 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, chứ không chỉ 11 ngàn km2.

[Bản đồ trong hồ sơ mật của Hà Nội về hiệp-ước Vịnh Bắc Việt 25.12.2000 bị phát hiện]

Trong số 21 điểm quy định trong bản đồ đính kèm hiệp ước 25.12.2000, ngoại trừ điểm 1 nằm ở vĩ tuyến 21 độ Bắc, tức cửa sông Bắc Luân [ranh giới tỉnh Móng Cái VN và tỉnh Quảng Đông TH], các điểm mốc từ số 2 đến số 21 đều lấn sâu vào bờ biển VN. Như điểm mốc 17 cách bờ biển VN 44 hải lý và cách đảo Hải Nam tới 73 hải lý; tức TH vượt trội VN 29 hải lý; sự phân chia không đều và cũng không giữa bờ biển với bờ biển hay đảo với đảo như Luật Biển quy định.

2. Trước dư luận lên án đảng CSVN lén lút dâng biển cho đảng CSTH ngày càng dữ dội, ngày 28.1.2002 Lê Công Phụng [Thứ-trưởng Ngoại Giao - Trưởng đoàn đàm phán về biên giới và phân định lại Vịnh Bắc Việt] lên tiếng thanh minh thì lại càng lộ ra việc đảng CSVN đã bán nước cho đảng CSTH từ lâu và Phụng thì dối gạt về Luật Biển LHQ và trách nhiệm chính trong vụ hiệp ước 25.12.2000.

Theo Lê Công Phụng, chính TBT Đỗ Mười [năm 1993] và TBT Lê Khả Phiêu [1997] đã sang tận Bắc Kinh để “thoả thuận các nguyên tắc căn bản về biên giới và lãnh hải” với TBT Giang Trạch Dân. Phần Phụng thì dối gạt trắng trợn rằng y đã “căn cứ vào các quy định của Luật Biển LHQ và các nguyên tắc quốc tế và tập quán” trong lúc đàm phán với Bắc Kinh.

Sự thực trái ngược hẳn lời Phụng nói với báo chí và sau đây là vài dẫn chứng:

- Theo Luật Biển, nếu 2 bên không thể thỏa thuận được với nhau thì phân chia lãnh hải “đường trung tuyến” [median line].Đường trung tuyến ở đây phải là đường giữa đảo Bạch Long Vĩ của VN và đảo Hải Nam của TH và khoảng cách phải bằng nhau giữa 2 đảo này. Nhưng Phụng bất chấp điều luật này và chấp thuận đường phân chia cách Bạch Long Vĩ 15 hải lý và cách Hải Nam tới 55 hải lý, tức không đều nhau và TH vượt trội VN tới 40 hải lý.

Bộ trưởng ngoại-giao Hà Nội Nguyễn Duy Niên còn “ngon” hơn khi tuyên bố: “Đường trung tuyến cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, tức đảo được hưởng lãnh hải 12 hải lý, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa được hưởng 3 hải lý.”

- Luật Biển quy định đường trung tuyến phải chạy giữa 2 đường bờ biển hay giữa đảo với đảo. Phụng cũng bất chấp quy định này và chấp thuận đường trung tuyến giữa đảo Hải Nam TH với bờ biển VN, hy sinh đảo Bạch Long Vĩ của VN vì theo luật thì đường trung tuyến phải giữa đảo Bạch Long Vĩ VN với đảo Hải Nam TH.

- Tòa Án Quốc Tế, Án lệ Lybia kiện Malta [1985], đã phán quyết:

Đảo dù lớn đến đâu cũng không bình đẳng với Lục địa được và không cho đảo Malta được có hải phận rộng bằng lục địa nước Lybiạ. Phụng đảo ngược Án lệ này khi cho đảo Hải Nam của TH có hải phận rộng hơn cả lục địa nước VN.



3. Theo giới hiểu biết thì Hà Nội và Bắc Kinh đều không có một lý do nào để phân định lại Vịnh Bắc Việt. Hiệp ước Constans ký kết tại Bắc Kinh ngày 16.6.1887 giữa đại diện Pháp [đô hộ VN lúc đó] và đại diện nhà Thanh [đô hộ TH] vẫn còn nguyên hiệu lực và hoàn toàn phù hợp với Luật Biển LHQ mà Hà Nội và Bắc Kinh đều đã ký kết. Ngày 12.11.1982, chính Hà Nội đã công bố lãnh hải VN vùng Vịnh Bắc Việt phải theo hiệp ước 16.6.1887, tức 63% diện tích Vịnh Bắc Việt thuộc về VN. Nhưng Bắc Kinh không chịu, buộc Hà Nội phải phân định lại vùng này và đảng CSVN do Lê Công Phụng đại diện đã ngoan ngoãn cúi đầu khuất phục và ký hiệp ước 25.12.2000.

Hậu quả của hiệp ước 25.12.2000 là VN đi từ 63% diện tích cũ xuống còn 53%. Theo nhà nghiên cứu Vũ Hữu San thì thực tế còn bi đát hơn nữa: TQ chiếm 55%, VN 45% là tối đa, tức VN mất 20% hay 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt và vùng biển Hoàng Sa cũng về tay TrungCộng qua hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Vì mất mát quá nhiều Hà Nội đã phải dấu kín hiệp ước 25.12.2000 và nay Nguyễn Tấn Dũng mưu toan “công khai hóa” qua hồ sơ nộp LHQ.

III. Một vài nhận xét

1. Công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng và vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa

Trước hết, công hàm 14.9.1958 là một bằng cớ không thể chối cãi trong số biết bao hành vi bán nước của đảng CSVN từ khi đảng này du nhập vào VN. Sau khi Phạm Văn Đồng gửỉ Chu Ân Lai để nhìn nhận lãnh hải 12 hải lý Tàu, bao gồm cả Hoàng Sa Trường Sa của VN, Hà Nội dù có “cãi chầy cãi cối” đến đâu cũng không xoá đi được tội ác bán nước của đảng CSVN. Bút sa gà chết, gà ở đây là đảng CSVN, vì công hàm 14.9.1958 không thể làm mất chủ quyền VN đối với Hoàng Sa Trường Sa trước pháp luật.

Vì thế, tuy thường dùng công hàm 14.9.1958 để tuyên bố lung tung về Hoàng Sa Trường Sa nhưng Trung Cộng thừa biết nó vô giá trị trước luật pháp. Nguyên tắc của hình luật phổ thông là: Không ai được quyền cho một vật mà mình không có. Huống hồ là Hoàng Sa Trường Sa, biển đảo của một nước, không những không phải “của” Đồng và Đồng còn biết chắc “chúng” thuộc về VNCH qua nhiều văn kiện có giá trị quốc tế còn lưu trữ.

Chính vì biết rõ văn kiện 14.9.1958 vô hiệu trước luật pháp nên Trung Cộng chưa bao giờ dám nộp vào hồ sơ để tranh chấp Hoàng Sa Trường Sa trong khi đó Trung Cộng đã lập một hồ sơ với đầy đủ văn kiện, bản đồ nộp cho Ủy Ban Thềm Lục Địa để tranh chấp chủ quyền với Nhật về bãi đá ngầm Okinotori, phía Đông Biển Đông [East China Sea], một bãi đá nhỏ mà gía trị không thể nào so sánh với Hoàng Sa Trường Sa.

Giới học giả Trung-quốc cũng biết rõ như thế và Tiến Sĩ Lo Chi-Kin Trung-quốc từng thú nhận: “Bắc Kinh không bao giờ dám đưa những tranh chấp về hải đảo tại Biển Đông ra trước các cơ quan trọng tài quốc tế.” [6]

Hà Nội cũng biết thế nên mới bày ra việc phân chia lại Vịnh Bắc Việt, ký hiệp ước 25.12.2000 để Trung Cộng lấn sâu vào hải phận VN [có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý] và nay, nhânviệc nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, Hà Nội đã không ngần ngại gạt Hoàng Sa Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN và giải thích quanh co.

LS Nguyễn Hữu Thống, tác giả “Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế”, đã nhận xét chính xác về công hàm 14.9.1958 như sau: “Trên phương diện luật pháp và hiến pháp, vấn đề lãnh thổ quốc gia thuộc chủ quyền của quốc dân do Quốc Hội đại diện. Chính phủ là một cơ quan hành pháp có nhiệm vụ chấp hành các đạo luật, hiệp ước và công ước do Quốc Hội phê chuẩn và ban hành. Do đó thủ tướng chính phủ không có tư cách và thẩm quyền chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ.” [7]

2. Nguyễn Tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Cộng

Công hàm 14.9.1958 thì vô hiệu và hiệp ước 25.12.2000 thi vẫn phải lén lút nên Luật Biển LHQ là cơ hội “ngàn năm một thưở” để Nguyễn tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa TrườngSa cho đảng CSTH của đảng CSVN, khởi đi từ công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng và rất có thể trước nữa, giữa HCM và Mao Trạch Đông.

Như trên đã nói, học giả Vũ Hữu San cho rằng: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ ... Nếu xem hải đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3.4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4.5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa”. Nhưng một phó thủ-tướng Hà Nội vẫn trắng trợn tuyên bố: “Tại vùng Trường Sa, ta được thêm 23 đảo ngầm dưới mặt biển, như vậy coi như một thắng lợi!”

Vẫn theo Vũ Hữu San: “Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, VN cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được. Hà Nội tuyên bố sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông và trong thời gian sắp tới, hai bên “cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới biển. Khi đó, Tàu sẽ dùng hải đồ mà VN đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”

Sự thật thì Hà Nội đang mưu toan dâng trọn Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp LHQ, không chỉ 3.4 Hoàng Sa, 4.5 Trường Sa.

Thật vậy, đường hải phận 200 hải lý ở bản đồ Hà Nội nộp LHQ không đúng với vĩ độ thực của nó. Hà Nội đã cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên quá vĩ độ 16 N, trong lúc toạ độ thực của nó trong hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ghi rõ ràng là nó dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức nhô quá vĩ độ 15 N một chút, chứ không thể vượt quá cả vĩ độ 16 N như Hà Nội vẽ được. Nhóm đảo Hoàng Sa nằm trọn trong 3 vĩ độ, 15 N đến 17 N; đường ranh 200 hải lý VN dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức Hà Nội gạt toàn bộ nhóm đảo Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN.

Theo Luật Biển, Uỷ Ban sẽ không cứu xét nếu hồ sơ bị phản đốị Hồ sơ của Hà Nội bị Bắc Kinh phản đối ngay sau khi nộp nhưng vẫn được Uỷ Ban cứu xét. Điều này chỉ có thể giải thích: Hoặc công hàm phản đối của Bắc Kinh đã không được Ủy Ban lý cứu xét vì cái bản đồ lưỡi bò bất hợp pháp của Trung Cộng hoặc Hà Nội và Bắc Kinh đã thay đổi hồ sơ sau khi nộp như Thủ Tục Cứu Xét cho phép. Vì lý do nào thì cũng chứng tỏ một điều là Hà Nội và Bắc Kinh đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và Thủ Tục Cứu Xét và đang lợi dụng Luật Biển để dâng biển đảo cho Bắc Kinh.

Bắc Kinh biết Uỷ Ban sẽ không lý tới phản đối của mình vì cái bản đồ hình lưỡi bò được vẽ bất chấp qui định của Luật Biển nhưng vẫn gửi công hàm phản đối để tung hoả mù và đánh lạc hướng dư luận. Hà Nội, trước sự đòi hỏi chính đáng từ trong nước đến hải ngoại nên không thể không nộp hồ sợ Hà Nội và Bắc Kinh đều biết rõ có quyền sửa đổi hay thậm chí thay đổi hồ sơ sau khi nộp và kết quả cuối cùng thì vẫn do 2 bên liên hệ quyết định vì, theo Luật Biển, Uỷ Ban hầu như chỉ đóng vai trọng tài điều đình hay hoà giải và nhất nhất đều phải tham khảo với đôi bên.

3. Việc mở rộng thềm lục địa và vấn đề chủ quyền Hoàng SaTrường Sa

a] Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10.11.2009, Vu.trưởng Ban Biên-giới Nguyễn Duy Chiến phát biểu: “VN là nước ven biển nên đã nộp báo cáo cho Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý”“việc Ủy Ban này xem xét báo cáo không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo”. Qua lời Chiến, Hà Nội một lần nữa lại dối gạt và bóp méo Luật Biển, y hệt Lê Công Phụng khi ký hiệp định 25.12.2000 và Vũ Dũng, một thứ trưởng của Hà Nội, nói với báo chí về biên giới năm 2008. [8] [9]

Thật thế, hồ sơ Hà Nội nộp LHQ sẽ gây thiệt hại vô tiền khoáng hậu cho VN vì chẳng những trước mắt mất Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt qua Luật Biển mà hậu quả tất yếu là rồi đây Trung Cộng có thể thôn tính VN dễ dàng bất cứ lúc nào khi đã khống chế được phía Đông VN! Quyền lợi cấp thiết và sinh tử của VN ở đây rõ ràng là mở rộng thềm lục địa ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng và khi đó thì Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Theo Điều 77 Luật Biển, quyền của các nước ven biển đối với thềm lục địa là một quyền tuyệt đối để thăm dò và khai thác dầu khí và như thế thì liệu các công ty dầu khí quốc tế có dám ký hợp đồng hàng chục tỷ với Trung Cộng để vào khai thác ở vùng biển được LHQ xác định là của VN nữa hay không?

Thế nhưng Hà Nội lại xác định thềm lục địa VN chỉ 200 hải lý; tức gạt vùng biển Hoàng Sa Trường Sa ra ngoải thềm lục địa VN, gián tiếp gạt Hoàng Sa Trường vào trong hải phận hay chu vi bản đồ lưỡi bò Trung Cô.ng. Về mặt luật pháp thuần túy, đây là một hành vi “chuyển nhượng lãnh thổ quốc gia” bất hợp pháp và có dự mưu cho ngoại bang; Nguyễn Tấn Dũng và đồng bọn có thể bị truy tố về tội danh phản quốc và chí ít cũng thêm tội lạm quyền; khuynh hướng luật pháp quốc tế hiện nay liệt tội lạm quyền vào loại tội ác nghiêm trọng. [10]

b] Âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho ngoại bang của đảng CSVN lộ rõ hơn nữa khi đại diện Hà Nội vừa tuyên bố “sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông” và trong thời gian sắp tới “2 bên cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới trên biển”. Hai bên sẽ đàm phán thế nào thì vụ đàm phán 10 năm trước với hiệp ước 25.12.2000 về Vịnh Bắc Việt đủ để biết trước hậu quả của đàm phán song phương của Hà Nội với Bắc Kinh.

10 năm trước, Nhật Báo Nhân Dân Bắc Kinh của Trung Cộng đã hoan hỉ ghi lại kết quả về đàm phán: “Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của TH, nhưng sở hữu tới 2 triệu 200 ngàn km2 Vùng Đặc Quyền Kinh Tế” và học giả Vũ Hữu San nhận xét: “Chỉ một hòn đảo Hải Nam thôi, TH đã chiếm phần lớn Biển Đông ... Làm sao VN còn đầy đủ sức lực cho cuộc thương thảo nhiều lần quan trọng hơn về Trường Sa Hoàng Sa cũng như toàn thể chủ quyền Biển Đông sau này. Phía Trung Cộng vẫn chưa chính thức bước vào cuộc thương thảo lớn về Biển Đông thế mà họ đã thực sự thắng hiệp quyết định. Sỉ nhục Quốc Thể! Sĩ khí ở chỗ nào thế? Hỡi các “đồng chí” CSVN ơi!”

Nói cụ thể hơn, qua thương thảo 10 năm trước trong việc phân định lại Vịnh Bắc Việt, Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh khoảng 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch ở cửa sông Hồng, nơi có tiềm năng dầu khí, và để cho Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế phía Bắc VN, có nơi chỉ còn cách bờ biển VN có 40 hải lý. Nay thì tệ hại vô cùng vì chưa bước vào thương thảo tay đôi với Bắc Kinh mà Hà Nội đã tự “trói miệng” hay chịu thiệt trước khi xác nhận với LHQ là Thềm Lục Địa hay Vùng Đặc Quyền Kinh Tế hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý, tức Hoàng Sa Trường Sa ngoài hải phận VN!

Hà Nội biết rõ hơn ai hết Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng chứng gía trị về tất cả mọi mặt, Trung Cộng dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa và cùng một số nước khác chiếm đóng bất hợp pháp phần lớn Trường Sa thì Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước cơ quan thẩm quyền để trục xuất kẻ xâm lược nếu không tự mình làm được điều này chứ sao lại thương thảo để chia chác biển đảo VN với quân cướp? Cho dù không trục xuất được bọn cướp ngay thì phán quyết của Tòa Án Quốc Tế [như Hamburg chuyên về Luật Biển chẳng hạn] chí ít cũng giúp VN giữ được chủ quyền về pháp lý [và rất cần thiết cho mai sau] và ngăn chặn bất cứ ai muốn nhẩy vào hợp đồng khai thác với bọn cướp.

c] Nguyễn Duy Chiến còn cho rằng “việc mở rộng thềm lục địa không liên hệ gì đến chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa” hay “việc Uỷ Ban cứu xét hồ sơ thềm lục địa mở rộng không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo”

Sự thật cũng trái ngược với lời Chiến: Việc mở rộng thềm lục địa VN liên đới chặt chẽ với chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa; rõ ràng là nếu thềm lục địa VN mở rộng ra 350 lý thì VN đương nhiên làm chủ Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Hơn nữa, theo Điều 77 Luật Biển thì đây là chủ quyền tuyệt đối của nước ven biển trong việc thăm dò và khai thác dầu khí.

Một lý do quan trọng khác khiến không nên tách Hoàng Sa Trường Sa ra khỏi thềm lục địa VN là vì 2 nhóm đảo này không được xem là hải đảo hay quần đảo theo nghĩa của Luật Biển. Theo Luật Biển, hải đảo hay đảo là một giải đất thiên nhiên bao bọc bởi nước và cao hơn mực nước thủy triềụ Nhóm Hoàng Sa Trường Sa chỉ có tiểu đảo, không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế nên không được hưởng quy chế hải đảo hay đảo [Điều 121 Luật Biển].

Hoàng Sa Trường Sa cũng không phải là quần đảo theo nghiã Luật Biển vì diện tích quá nhỏ [6 hải lý vuông] trong một vùng biển rộng tới 180 ngàn hải lý vuông, vì theo Luật Biển [Điều 46, 47], quần đảo bao gồm các đảo nằm san sát bên nhau và phải có diện tích bằng ít nhất 1.9 vùng biển [như Nam Dương chẳng hạn].

d] Hà Nội lúc nào cũng cho rằng VN có chủ quyền đối với Hoàng Sa Trường Sa nhưng chỉ tuyên bố cho có tuyên bố hay hội thảo um sùm nhưng thực tế thì để cho Trung Cộng chiếm trọn Hoàng Sa và lấn chiếm dần dần Trường Sạ Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng cớ giá trị về tất cả phương diện lịch sử, địa lý, hành chánh và pháp lý thì ai cũng biết và chắc chắn Trung Cộng cũng biết nên mới phải dùng võ lực lấn chiếm. Nếu không đử sức để bảo vệ khi Hoàng Sa Trường Sa bị xâm lăng, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý huyết mạch bị xâm lấn và thậm chí ngư dân VN bị bắn giết bừa bãi, tịch thu tàu thyền trong lúc hành nghề hợp pháp trong vùng biển VN, thì chí ít Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền phân xử. Nhưng Hà Nội chỉ phản ứng xuông qua loa vì có nhiều dấu hiệu khả tín chứng tỏ đảng CSVN đã dâng Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho đảng CSTH từ lâu rồi và nay Nguyễn Tấn Dũng nộp hồ sơ cho LHQ để hoàn tất tiến trình bàn giao những gì đã thoả thuận ngầm giữa 2 đảng CS này mà thôi.

Về mặt luật pháp, sau nhiều thập niên bàn cãi qua nhiều hội nghị quốc tế, Luật Biển LHQ ra đời để giải quyết những tranh chấp xảy ra trên biển nhất là từ khi khám phá ra tiềm năng to lớn về dầu khí và khí đốt dưới đáy biển. Quan niệm biển cả là tài sản chung của nhân loại, Luật Biển dành quyền giải quyết mọi tranh chấp xảy ra trên biển, đặc biệt là vấn đề mở rộng thềm lục địa với những điều khoản quy định rõ ràng và “chỉ vấn đề nào Luật Biển không đề cập tới mới giải quyết theo tập tục hay quy tắc tổng quát của Công Pháp Quốc Tế.” Do đó, các nguyên tắc như quyền chiếm hữu [occupation] hay công bố minh thị [express proclamation], nếu có được viện dẫn sau này để cho rằng “việc Trung Cộng chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của VN” [11] thiết nghĩ làm sao vô hiệu được quyết định của Ủy Ban Thềm Lục Địa khi Uỷ Ban này căn cứ vào thẩm quyền minh thị bởi Luật Biển LHQ để xác định thềm lục địa hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý -tức Hoàng Sa Trường Sa nằm ngoài hải-phận VN- do Hà Nội chính thức đề nghị.

*****
- Coordinator of Justice & Peace Group for Paracel & Spratly Islands of Vietnam -Florida, viết cho Quê Hương Tôi, cho Ngày 19.1 Tưởng Niệm Chiến Sĩ “Quyết Chiến” bảo vệ Hoàng Sa và cho Hội Ngộ Cựu SV Luật Khoa Sàigòn Toàn Cầu, 2 & 3.4.2010, Houston, Texas, Hoa Kỳ.

Tài liệu tham khảo:

- Submission by VN in respect of North Area, VNM-N [7 May 2009]

- Joint Submission by Malaysia & VN in respect of the South part of the South China Sea [6 May 2009]

- UN Convention on the Law of the Sea

- Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa, 2007; vuhưsan.com

- Nguyễn Hữu Thống, Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế, 2008

- Nguyễn Thành, Đưa VC ra trước Toà Án Hình Sự Quốc Tế và Toà Án các Quốc Gia về những Tội Ác Nghiêm Trọng, bài nghiên cứu, các báo Tiếng Vang, CaliToday, Chánh Đạo, Gọi Đàn,... California, Hoa Kỳ, tháng 5 và 6 năm 2002; Hà Nội âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp LHQ, bài thuyết trình, Nam California, Hoa Kỳ, ngày 25 và 26.7.2009.

Chú thích:

[1] Statement by the Chairman of the Commission 24th Sessions [8 Aug 2009 to 11 Dec 2009], UNCLOS.com

[2] Theo Luật Biển, chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa do Đại Hội các nước hội viên Luật Biển duyệt xét và quyết định trước. Do đó, trước khi Ủy Ban Thềm Lục Địa khóa họp 24 khai mạc ngày 8.8.2009 ở trụ sở LHQ, các nước hội viên Luật Biển [trong đó có VN và TQ] đã họp trước, từ 22 đến 26.6.2009 ở cùng địa điểm, để duyệt xét và thông qua chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban. Vì thế mà hồ sơ Thềm Lục Địa VNCH do nhóm cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn soạn thảo kèm 2 thùng tài liệu và gửi cho Tổng thư ký LHQ ngày 27.4.2009 đã không tới được Ủy Ban Thềm Lục Địa là cơ quan có thẩm quyền về mở rộng thềm lục địa. Quý vị quan tâm tới vần đề Hoàng Sa Trường Sa cần lưu ý điều này, nếu không thì hầu như Tuyên Cáo, Bạch Thư, Kháng Thư,... có gửi cho TTK LHQ thì cũng không được chuyển tới cơ quan có thẩm quyền là Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa và có tới thì Ủy Ban cũng không thể vượt ra ngoài 2 nhiệm vụ hay thẩm quyền nói ở chú thính
[3] dưới đâỵ

[3] The functions of the Commission shall be: 1] to consider the data and other material submitted by coastal States concerning the outer limits of the continental shelf in area where those limits extend beyond 200 nautical miles, and to make recommendations in accordance with article 76 and 2] to provide scientific and technical advice, if requested by coastal States. [Điều 3 Phụ Bản II Luật Biển LHQ]

[4] The continental shelf of a coast al nation extends out to the outer edge of the continental margin but at least 200 nautical miles from the baselines of the territorial sea margin does not stretch that far. The outer limit of a country’s continental shelf shall not stretch beyond 350 nautical miles of the baseline, or beyond 100 miles nautical miles from the 2,500 meter isobath. [Điều 77 Luật Biển LHQ]

[5] An Exclusive Economic Zone extends for 200 nautical miles [370km] beyond the baselines of the territorial sea, thus it includes the territorial sea and its contiguous zonẹ A coastal nation has control of all economic resources within its EEZ, including fishing, mining, oil exploration, and any pollution of those resources. Hpwever, it can’t regulate or prohibit passage or loitering above, on, or under the surface of the sea, whether innocent or belligerent, withinthat portion of its EEZ beyond its territorial seạ [Điều 76 Luật Biển LHQ]

[6] “On its position over the islands, China has been most reluctant to sujects the disputes to international legal arbitration: The case of South China Sea Islands by Chi-Kin Lo, 1989”.

[7] [11] LS Nguyễn Hữu Thống, sđd, tr. 38 và 16.

[8] Vietnamnet, Hội nghị Biển Đông Hà Nội, 10..11.2009.

[9] Vũ Dũng, một thứ-trưởng ngoại giao Hà Nội khác, sau Lê Công Phụng, tuyên bố với báo chí đầu năm 2008 đã bị chính cựu Đại tá CS Bùi Tín cho là dối trá và thách đối chất như sau: “Do nắm chắc tình hình .. mà tôi [Bùi Tín] muốn hỏi ông Vũ Dũng là theo ông có thật là ta không mất đất ở vùng Hà Giang, Lào Kay, Hoàng Liên Sơn không? Theo tôi, các đoàn đàm phán của ta từ 1996 đến 1999 đã tỏ ra rất mềm yếu. Nhiều giải núi ở Tây Bắc thưa dân, giầu tài nguyên, có gía trị quân sự bị lấn chiếm. Con số 700 đến 800 km2 bị mất không phải là bịa đặt. Thực tế có thể hơn ... Giang Trạch Dân luôn thúc dục Lê Khả Phiêu phải thương lượng nhanh, phải ký hiệp ước trên bộ trong năm 1999 và trên biển trong năm 2000. Có ai đi thương lượng lại chịu ép trước về thời gian đến thế? Cho nên rất dễ hiểu là các nhà đàm phán VN đều nhũn như con chi chị Chính Đỗ Mười cũng tố cáo Lê Khả Phiêu là nhượng bộ quá, “để mất quá nhiều” cho Trung-quố c... Hai bên đã thỏa thuận tháng 6.2008 này sẽ hoàn tất việc phân giới, cắm mốc và ký nghị định thư về biên giới trên bộ .... Lúc ấy muốn che dấu, úp mở cũng không được nữạ Phía Bắc Kinh sẽ nhanh nhẩu phổ biến tập bản đồ mới để khoe thắng lợi, vì họ thắng đậm ... Lúc ấy, các ông Vũ Dũng, Lê Dũng, Lê Công Phụng, rồi các ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Di Niên, đến ông Lê Khả Phiêu và 4 ông tứ trụ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng sẽ có đầy đủ chứng cớ minh bạch là đã bảo vệ biên giới bất khả xâm phạm của Tổ-quốc ra sao, hay sẽ đực mặt bán đất bán nước ra sao!” [Vietbao.com, 4.9.2008]

[10] Tòa Án Quốc Tế ad hoc Bosnia thiết lập bởi nghị quyết của HĐBA ngày 25.5.1993 đã truy tố Slobodan Milosovic, Tổng thống đương quyền Liên Bang Nam Tư, và thẩm phán Tây Ban Nha Baltasar Gapzon đã thành công khi ký trát nã bắt quốc tế bắt Augusto Pinochet, cựu tổng thống Chile, ở London ngày 16.10.1998 khi ông này đến đây chữa bịnh, nhưng ông Gapzon không thành công khi đòi thẩm vấn Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ, khi Kiss đến London diễn thuyết năm 2002 vì Kiss kịp trốn về nước khi được mật báo; Milosovic, Pinochet và Kiss đều bị truy tố về tội lạm quyền cùng với nhiều tội ác nghiêm trọng khác. [Nguyễn Văn Thành, Vụ án Pinochet làm rung chuyển luật Pháp quốc tế, VN Nhật Báo, 5.8.2000]


HY Mẫn sẽ tham dự và chủ sự Thánh Lễ "Lòng Chúa Thương Xót" tại Long Beach !!

    ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm trả lời phỏng vấn về chuyến đi mục vụ tại Hoa Kỳ vào tháng 3.2010
VietCatholic News (02 Apr 2010 08:46)

WGPSG (2.4.2010) – Đại hội Giáo lý của Tổng giáo phận Los Angeles (LA Religious Education Congress) được tổ chức hằng năm, quy tụ tất cả những ai quan tâm đến việc giáo dục và đào tạo tôn giáo. Năm nay, Đại hội đã diễn ra từ ngày 19 đến 21-3-2010 với hơn 40.000 người tham dự. Đức Hồng Y Mahoney của Tổng giáo phận LA đã nhân danh mối liên kết chị em giữa hai tổng giáo phận LA và Sàigòn để mời ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm sang thuyết trình tại đại hội. Đức cha Phêrô đã nhận lời, lên đường cùng với cha Luy Nguyễn Anh Tuấn, và nhân dịp này, Đức cha cũng thăm viếng mục vụ những nơi cần thiết.

Sau khi Đức cha Phêrô trở về Việt Nam, cha Hiền, đại diện BBT Website TGP.TPHCM, đã xin gặp và phỏng vấn Đức cha Phêrô về chuyến đi đặc biệt này.

Cha Hiền: Thưa Đức cha, chúng con được biết Đức cha vừa có chuyến công tác tại Hoa Kỳ?

ĐC Khảm: Đúng vậy. Tôi và cha Luy Nguyễn Anh Tuấn đã rời Việt Nam ngày 11.3 và về nhà vào đêm Thứ Tư Tuần Thánh, 31.3, để kịp dự lễ Truyền Dầu tại Nhà thờ Chính toà vào sáng Thứ Năm Tuần Thánh.

Cha Hiền: Đức cha có thể cho biết mục đích của chuyến đi này?

ĐC Khảm: Tôi sang Mỹ lần này để dự Đại hội Giáo lý của Tổng giáo phận Los Angeles (viết tắt: LA). Thực ra, trước đây Ban Tổ chức cũng đã ngỏ ý mời nhưng tôi chưa nhận lời. Lần này, trong thư mời, Đức Hồng Y Mahoney của Tổng giáo phận LA đã nhắc đến mối liên kết chị em giữa hai tổng giáo phận LA và Sàigòn, và nhân danh mối liên kết đó, ngài mời tôi sang thuyết trình tại đại hội. Tôi thấy không thể nào từ chối được.

Cha Hiền: Con có nghe nói khá nhiều về Đại hội này, nếu có thể, xin Đức cha cho biết vài thông tin?

ĐC Khảm: Đại hội Giáo lý của Tổng giáo phận LA (LA Religious Education Congress) được tổ chức hằng năm, quy tụ tất cả những ai quan tâm đến việc giáo dục và đào tạo tôn giáo. Thành ra, tuy tổ chức ở LA nhưng các tham dự viên đến từ khắp các tiểu bang trên đất Mỹ, và hơn nữa, từ nhiều quốc gia trên thế giới. Gặp gỡ, trò chuyện với các tham dự viên trong những ngày đại hội cho tôi thấy rõ điều đó. Theo đúc kết của Ban Tổ chức, hơn 40.000 người đã đến tham dự đại hội lần này.

Cũng như những lần trước, Đại hội lần này được tổ chức tại Trung tâm hội nghị Anaheim (Anaheim Convention Center), gần với khu vực giải trí nổi tiếng Disneyland. Toàn bộ khu vực đó có rất nhiều khách sạn, thuận tiện việc ăn ở của các tham dự viên trong những ngày đại hội.

Trong đại hội, ngoài nghi thức khai mạc và Thánh Lễ kết thúc được tổ chức trong hội trường lớn với sức chứa cả chục ngàn người, chương trình đại hội được chia ra thành rất nhiều buổi thuyết trình của nhiều diễn giả về rất nhiều đề tài. Đúng là Incredible Abundance (Phong phú tuyệt vời – tên gọi của Đại hội lần này)! Các đề tài này đã được lên danh sách từ trước và các tham dự viên có thể tham dự buổi thuyết trình nào mình thích. Cha cứ tưởng tượng cứ mỗi buổi sáng chiều, có 50 diễn giả thuyết trình về 50 đề tài khác nhau tại 50 phòng họp khác nhau, mỗi phòng họp chứa được 300 người …

Cha Hiền: Đức cha thuyết trình về đề tài gì ạ?

ĐC Khảm: Theo đề nghị của Đức Hồng Y Mahoney, tôi có hai bài thuyết trình, một bằng tiếng Việt, một bằng tiếng Anh.

Trong bài thuyết trình tiếng Việt cho cộng đồng người Việt hải ngoại, tôi chia sẻ về Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam và nhấn mạnh đến chủ đề hiệp thông. Tôi mời gọi các tham dự viên trở về với nguồn Thánh Kinh để tìm lại ý nghĩa đích thực và nền tảng của từ hiệp thông là hiệp thông với Chúa, với Mình Máu Chúa Kitô, với ân huệ Thánh Thần. Chính nhờ sự hiệp thông nền tảng đó, chúng ta mới có sự hiệp thông đích thực trong Hội Thánh. Như thế, Năm Thánh phải là thời gian đặc biệt cho mỗi người – giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân – củng cố mối hiệp thông của mình với Chúa. Đồng thời, khi có những khác biệt, kể cả những xung đột, chúng ta cần phải tìm lại xem đâu là sứ mạng của Hội Thánh và đâu là đường lối của Chúa mà Hội Thánh phải đi; nhờ đó mới có thể vượt lên trên những khác biệt mà sống sự hiệp thông đúng nghĩa như Chúa muốn.

Trong bài thuyết trình tiếng Anh, với phần lớn cử toạ cũng là người Việt! (nhưng tôi hiểu ra rằng đối với các bạn trẻ Việt kiều từ 30 tuổi trở xuống, nghe tiếng Việt là điều rất khó khăn), tôi nói đến những điều tôi mong học hỏi từ Giáo Hội Hoa Kỳ, ví dụ như làm sao có thể sống và làm chứng cho Tin Mừng trong một đất nước giầu có về vật chất và khoa học kỹ thuật cao như nước Mỹ, làm sao để phát triển vai trò của người giáo dân trong Giáo Hội như tôi quan sát thấy trong Giáo Hội Hoa Kỳ. Đồng thời, tôi chia sẻ với các bạn kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội Việt Nam, nhấn mạnh đặc biệt đến gia đình như môi trường căn bản và cần thiết nhất trong việc nuôi dưỡng, vun xới và chuyển giao sự sống đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Cha Hiền: Đại hội này có để lại cho Đức cha ấn tượng đặc biệt nào không, thưa Đức cha?

ĐC Khảm: Khá nhiều ấn tượng. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến một điều là sức sống của Giáo Hội. Hình như các phương tiện truyền thông thích nói đến những chuyện tiêu cực trong Giáo Hội Hoa Kỳ như vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em … và hình như phải làm rùm beng những chuyện đó thì mới thu hút người xem và người nghe. Nhưng có biết bao điều tích cực khác mà chúng ta không để ý đến. Chẳng hạn, khi tham dự đại hội này, tôi tự hỏi các mục tử trong Giáo Hội Hoa Kỳ đã nỗ lực như thế nào để có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng trong thời đại tục hoá như ngày nay? Các ngài và những cộng sự viên đã phải làm việc cật lực ra sao để có được một đại hội phong phú về số lượng và chất lượng như thế? Anh chị em giáo dân nói chung, cách riêng các giáo lý viên, đã tha thiết thế nào với sứ mạng của Hội Thánh để có được sự tham gia tích cực như thế? Tất cả đều nói lên sức sống mãnh liệt của Hội Thánh, sự phong phú tuyệt vời của ân huệ Thiên Chúa.

Cha Hiền: Ngoài việc tham dự Đại hội Giáo lý, Đức cha còn có công việc nào khác tại LA?

ĐC Khảm: Tôi và cha Luy Tuấn đã đến thăm Đại chủng viện Saint John và Nhà Đào Tạo Chủng sinh dự bị của giáo phận LA. Chúng tôi đã có những buổi gặp gỡ và trò chuyện thân tình với cha Giám đốc và một vài cha giáo sư ở đó, tìm hiểu về chương trình đào tạo và trao đổi những vấn đề liên hệ đến hai bên.

Cha Hiền: Con nghe nói Đức cha có cuộc gặp gỡ với cộng đồng công giáo Việt Nam tại Quận Cam (Orange County)?

ĐC Khảm: Theo lời mời của Đức cha Tod Brown và Đức cha Mai Thanh Lương của giáo phận Orange County, tôi đã đến thăm các ngài và sau đó, dâng Thánh Lễ với cộng đồng giáo dân Việt Nam tại Trung Tâm Công Giáo của Orange County. Sau Thánh Lễ, còn có buổi trò chuyện thân mật về đề tài Thánh Kinh trong Đời Sống Kitô hữu. Anh chị em giáo dân Việt Nam tại đây rất đạo đức tốt lành. Chỉ là buổi tối Thứ Hai trong tuần nhưng anh chị em đã đến rất đông để cùng cầu nguyện, gặp gỡ và trao đổi về Lời Chúa.

Cha Hiền: Trong chuyến đi lần này, ngoài tiểu bang California, Đức cha có đi đến tiểu bang nào khác nữa không?

ĐC Khảm: Sau thời gian ở Cali, tôi và cha Luy Tuấn đã đi Washington, DC. Ở đây, theo lời mời của cha chính xứ giáo xứ Mẹ Việt Nam tại Maryland, tôi đã có một buổi tối tĩnh tâm Mùa Chay với cộng đoàn và hôm sau cử hành Lễ Lá với cộng đoàn. Nhân cơ hội này, tôi cũng đến thăm trường cũ và tìm hiểu một vài việc liên quan.

Cha Hiền: Như vậy, Đức cha đã có chuyến đi thật tốt đẹp, xin chúc mừng Đức cha. Chúng con cũng nghe nói Đức Hồng Y của chúng ta cũng sẽ đi Mỹ vào thời gian gần đây?

ĐC Khảm: Đúng thế. Cha biết là cách đây gần hai năm, Đức Hồng Y Mahoney của LA và Đức Hồng Y của chúng ta đã ký kết bản liên kết giữa hai tổng giáo phận, nhìn nhận nhau như chị em và nâng đỡ nhau trong việc thi hành sứ mạng. Cũng vì mối liên kết đó, Đức Hồng Y Mahoney đã gửi thư mời Đức Hồng Y của chúng ta sang chủ sự Thánh Lễ tôn vinh Lòng Chúa thương xót, cử hành vào Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm. Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc của giáo phận, Đức Hồng Y của chúng ta đã nhận lời mời, nhằm mục đích củng cố tình hiệp thông giữa hai tổng giáo phận. Ngược lại, có thể vào cuối năm nay, Đức Hồng Y Mahoney sẽ đến thăm giáo phận chúng ta, tất cả đều nằm trong mối liên kết giữa hai tổng giáo phận chứ không có mục đích nào khác.

Cha Hiền: Dù vậy, có một câu hỏi khá tế nhị xin được nêu lên với Đức cha. Người ta nói rằng có dư luận chống đối chuyến đi sắp tới của Đức Hồng Y tại Hoa Kỳ, điều này có thật không, thưa Đức cha?

ĐC Khảm: Qua các phương tiện truyền thông, tôi cũng biết đến điều đó và phải nói là rất buồn. Những phản ứng đó có thể do thiện ý nhưng có lẽ phát xuất từ cách nhìn nhận vấn đề khác với chúng ta, nghĩa là nhìn từ góc độ chính trị. Hôm nay là Thứ Sáu Tuần Thánh và tôi không thể không nghĩ đến vụ án Chúa Giêsu. Người Do Thái lúc đó đã tố cáo Chúa Giêsu trước toà tổng trấn Philatô rằng: Ông này xưng mình là Vua, mà kẻ nào dám xưng mình là vua thì người đó là kẻ thù của hoàng đế Rôma! Rõ ràng là lời tố cáo mang tính chính trị, và chính lời tố cáo đó đã đẩy Philatô đến chỗ phải ra lệnh đóng đinh Chúa Giêsu dù trong lòng vẫn tự nhủ: “Ông này không có tội lỗi gì cả”. Thế nhưng Chúa Giêsu có đến trần gian này để làm chính trị đâu! “Nước của Tôi không thuộc thế gian này”, Người đã tuyên bố như thế trước mặt Philatô và người công giáo nào cũng thuộc lòng lời tuyên bố đó.

Cũng vậy, Đức Hồng Y của chúng ta có mặt ở LA không vì mục đích chính trị. Dù tôn trọng chính kiến của mỗi người, nhưng tôi thấy cần khẳng định điều này: Ngài đến đó để chủ sự một nghi lễ tôn giáo, để bày tỏ và củng cố sự hiệp thông giữa hai tổng giáo phận LA và Sàigòn cũng như mối hiệp thông giữa cộng đồng công giáo Việt Nam hải ngoại và Giáo Hội tại quê nhà. Đơn giản chỉ là thế và tôi dám tin rằng đại đa số anh chị em tín hữu công giáo Việt Nam hải ngoại cũng thấy rõ điều đó. Ngài sẽ chủ sự Thánh Lễ tôn vinh lòng Chúa thương xót. Vì thế, chúng ta cùng cầu xin cho sứ điệp và sức mạnh của lòng thương xót chạm đến cõi lòng mỗi người và biến đổi chúng ta nên chứng nhân của lòng thương xót: “Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.

Đặng Văn Kiểm