Monday, February 1, 2010

NÔ LỆ XƯA VÀ NAY


    VẤN ĐỀ NÔ LỆ XƯA VÀ NAY
Nguyễn Quý Đại

Lịch sử nô lệ

Lịch sử về nô lệ có trước thời trung cổ, đầu tiên ở đảo Sizilien miền Nam Ý (136-132 trước Công nguyên) nô lệ trao đổi với Đế Quốc La Mã có các danh từ “Eunus, Antiochos“…. Những cuộc chiến đẩm máu trong lịch sử thế giới thường xảy ra. Phe chiến thắng chiếm đoạt tài sản và sinh mạng kẻ bại trận, kể cả đàn bà, trẻ em đều bị bắt làm nô lệ. Giới quý tộc bỏ tiền mua người nghèo về phục vụ. Cách đây hơn 100 năm ở Việt Nam những Điạ chủ giàu có, muốn bảo vệ gia trang, mua hay mướn những người Thượng phục vụ, gác nhà.

Tác phẩm Geschichte der Sklaverei/ History of Slave “Lịch sử nô lệ“ tác giả Sunsanne Everett mô tả cuộc đời người nô lệ thời Trung cổ, từ Á sang Âu đã có phong trào mua bán nô lệ, các dịch vụ chở nô lệ bằng tàu buồm hay áp giải vượt sa mạc Sahara. Trung Hoa có hàng triệu cô gái bị bán làm nô lệ.

Giáo chủ Hồi Giáo Mohammed (570-†632) cầm đầu giáo quyền năm 630 đánh chiếm Mecca. Những người chống đối (Do Thái giáo, Thiên chúa giáo) đều bị tiêu diệt, hàng ngàn đàn ông bị chém đầu, đàn bà bị bắt bán làm nô lệ! Trận chiến thành Troy, Hy lạp (Greeks) xua quân đánh chiếm thành Troy cuả Thổ Nhĩ Kỳ tiếp thu chiến lợi phẩm và bắt những người đẹp như: Briseis, Tecmessa và Chryseis.

Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) từng có chợ nô lệ Sandal Bedesten, tiểu vương Mehmet xây cất từ năm 1461 tại Istanbul. Chợ nô lệ người Hoà Lan tổ chức ở New Amsterdam (ngày nay là New York). Những thương thuyền lớn người Anh, Bồ Đồ Nha, Tây Ban Nha mua người da đen, thổ dân ở Phi Châu (Neger) làm nô lệ, vì giống người nầy đời sống kém văn minh nhưng có sức mạnh.

Thị trường mua bán thời đó phần lớn ở Hoa Kỳ cần người làm việc tại các đồn điền, nông trại, trồng miá, hái bông vải, kéo xe, đào mỏ. Thương thuyền Âu Châu chở vũ khí, máy móc, rượu, hàng hoá biến chế rẻ tiền bán cho Phi Châu, và ngược lại mua “người“ từ Phi Châu bán cho Hoa Kỳ, và mua của Hoa Kỳ nguyên liệu hàng hóa, bông vải, đường, caffe …

Kiếp người nô lệ khổ đau, bị cưỡng ép lao động như trâu bò kéo cày, bị đánh đập, hành hạ, nếu chống lại chủ thì bị xiềng xích, đóng gông. Người bỏ tiền mua nô lệ dùng thỏi thép nung đỏ, đóng dấu trên lưng họ để nhận dạng nếu bỏ trốn.

Đức giáo Hoàng Greogor I (540-†604) đã từng kêu gọi Thế giới ngưng mua bán nô lệ, phải tôn trọng phẩm giá con người mà Thượng Đế đã tạo dựng, không phân biệt màu da sắc tộc dù Đức Giáo Hoàng kêu gọi nhưng chưa đánh động được lương tâm của thế giới vì con người đầy tham vọng và quyền lực. Từ Thế kỷ 16 đến Thế kỷ 18 hơn 15 triệu người Phi Châu bị bắt bán làm nô lệ, dù ông William Lloyd Garrion từng đứng lên đòi giải phóng cho người da đen. Hiệp Hội chống lại chế độ nô lệ “Anti Slavery Society“ trên báo (The Genius of Universal Emancipation) đấu tranh giải phóng nô lệ.

Thế Kỷ thứ 18 đế quốc Anh chiến thắng Tây Ban Nha, Hiệp Ước Asiento năm 1713 Anh Quốc độc quyền mua bán nô lệ, mỗi năm 5,000 người ở Trung và Bắc Mỹ là các nước thuộc điạ của Tây Ban Nha.

Chấm dứt nô lệ ở Âu Châu

Trải qua những biến đổi lịch sử từ 01.01.1807 Anh Quốc cấm mua bán nô lệ, nếu thương thuyền vi phạm bị phạt tiền vạ 100 Bảng Anh và bỏ tù. Đại Hội Quốc Tế ở Wien / Vienna 1815 (Áo) các quốc gia phải bỏ chế độ nô lệ: Bồ Đồ Nha / Portugal năm 1817, Pháp và Hòa lan năm 1818. Ba Tây / Brasilien 1826 được độc lập và chấm dứt nô lệ. Ở Âu Châu năm 1820 việc buôn bán nô lệ cáo chung. Hiến pháp Đức ghi đìều 1 đoạn 1 “nhân phẩm con người bất khả xâm phạm“. Chỉ còn ở Hoa Kỳ kéo dài một thời gian, nội chiến Hoa Kỳ máu của những người nô lệ đổ nhiều và từ đó chế độ nô lệ cũng được giải phóng ở nhiều tiểu bang.

Năm 1860 Abraham Lincoln (1809 -†1865), được bầu làm Tổng Thống thứ 16 Hoa Kỳ, từ năm 1862 người nô lệ được giải phóng ở các thành phố phiá Đông, đến năm 1867 theo điều 13 Hiến Pháp Hoa Kỳ từ ngày 18.12.1865 chấm đứt chế độ nô lệ. Tổng thống Lincoln từng nói: “Vì không muốn làm một kẻ nô lệ nên tôi cũng sẽ không làm chủ nô lệ. Điều này diễn đạt ý tưởng của tôi về Dân Chủ. Bất cứ điều gì khác hơn thế, dù khác ít hay khác nhiều, đều chẳng phải là dân chủ”. Lần đầu tại New Orleans người nô lệ được tham gia bỏ phiếu. Năm 1965 mục sư Tin lành Martin Luther King (1929 -†1968) người nhận giải Nobel hòa bình năm 1964. tiếp tục đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen ở các tiểu bang Montgomery, Alabana …

Thời đại văn minh tiến bộ, chế độ nô lệ không còn phổ biến như xưa, Quyền lực không còn là phương tiện tuyệt đối bắt người làm nô lệ, nhưng thế lực đồng tiền vẫn là phương tiện vô biên cho đến nay. Dựa trên một số tài liệu, thì việc buôn người là một kỷ nghệ trị giá lên đến 40 tỷ đô la? Chợ nô lệ được trá hình dưới nhiều hình thức khác nhau, bọn gian thương khai thác triệt để, là món hàng không vốn, đắc giá nhất bởi vậy nạn buôn người và nô lệ vẫn tồn tại ở thế kỷ thứ 21.

Công Ước Genève ngày 25.09.1926 về việc ngăn cấm, phòng ngừa và trừng phạt mọi hình thức mua bán nô lệ. Từ trước đến nay thế giới đã có hàng chục Công ước, Hiệp định bổ túc cấm nạn mua bán, khai thác nô lệ trong các lãnh vực cưỡng bức trẻ em lao động, mại dâm vv… Thời đệ nhị thế chiến, quân đội Nhật Bản đã bắt đàn bà Đại Hàn làm nô lệ sinh lý. Mặc dù chính phủ Nhật đã xin lỗi Đại Hàn, nhưng vết mực đen đau thương cho thân phận đàn bà Đại Hàn còn sống sót khó có thể phôi pha.

Theo tổ chức Quốc Tế Di Dân trụ sở tại Genève cho biết hàng năm có khoảng từ 250.000 đến 300.000 trẻ em đàn bà từ khối Sô Viết bị bán qua các nước Tây Âu. Quỹ Bảo Trợ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) tổng kết hàng năm trên thế giới đến 2 triệu trẻ em bị mua bán về tình dục, riêng các nước Á Châu (Campuchia, Lào, Miến Điện, Thái lan và Việt Nam) người Việt chiếm một phân nửa? buôn bán phụ nữ, trẻ em để phục vụ cho ngành mại dâm dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu muốn hạn chế, kiểm soát chặt chẻ ngăn chận buôn bán người, phải cần sự hợp tác của nhiều quốc gia trên thế giới.

Nô lệ mới

Việt Nam trải qua nhiều khổ đau vì chiến tranh tàn phá. Năm 1945 gần triệu người miền Bắc chết đói, nhưng không có người Việt nào rời bỏ quê hương. Năm 1975 người ta vui mừng thống nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh đem lại thanh bình cho dân tộc. Niềm vui chưa trọn hàng trăm ngàn quan chức chế độ VNCH bị bắt tập trung cải tạo, những năm dài trên cao nguyên núi rừng từ Nam ra Bắc, đời sống trong các trại cải tạo đọa đày giống như người dưới thời nô lệ! Những tù nhân chính trị may mắn còn sống, từ năm 1990 được chính phủ Hoa Kỳ nhận qua chương trình H.O. (Humanitarian Operations), “tù nhân nô lệ” được giải phóng. Tổng Thống Lyndon Bainer Johnson (1908-†1973) năm 1965 nhắc lại thời kỳ còn nô lệ ở Hoa Kỳ “tự do chưa đủ vết thương nô lệ từ trăm năm qua chưa thể lành được“

Hòa bình hơn 3 thập niên, tưởng đất nước yên vui “đổi mới“ kinh tế phát triển thì xã hội phải văn minh, tốt đẹp hơn, nhưng nhìn lại thân phận đàn bà Việt Nam trở thành món hàng giải trí rẻ tiền cho thiên hạ. Dù với hình thức kết hôn, nhưng thực tế đàn bà VN bị bán cho những đàn ông ngoại quốc dốt nát, ít học, bệnh hoạn nhiều bài báo đã viết về trường hợp nầy. Những đàn ông ở xứ họ không thể tìm ra vợ hoặc muốn tìm người giúp việc nên họ để dành tiền, vàng sang Việt Nam tìm đàn bà. Xã hội Trung Hoa còn ảnh hưởng phong kiến trọng Nam hơn Nữ, sinh con gái họ đã vứt ra đường như con vật chả ai để ý tới (tuần báo Stern của Đức đã lên án và chụp hình hài nhi là con gái bị bỏ bên đường), gây ra nạn trai thừa gái thiếu, nên họ đổ xô đi tìm vợ VN

Thận phận đàn bà Việt Nam

Trường hợp rao bán phụ nữ Việt Nam trên Internet của ebay Taiwan gây dư luận về việc buôn người bất hợp pháp vi phạm nhân quyền, phẩm giá phụ nữ Việt Nam bị tổn thương. Tin này gây dư luận ở Đài Loan. Các Hội Nữ Quyền ở Mỹ, Úc và người Việt Nam tỵ nạn đều phản đối, nhưng Hội Phụ Nữ Việt Nam ở quốc nội vẫn im lặng?

Gia đình và xã Hội

Sài Gòn hiện nay là thành phố đông dân hơn 8 triệu người. Dù số thống kê chưa chính xác, nhưng người ta ước tính trong số 8 triệu người Sài Gòn có hơn 1 triệu người từ các vùng quê nghèo đến Sài Gòn mưu sinh. Trong số dân nhập cư này, đa phần là phụ nữ, họ vào Sài Gòn với giấc mơ đổi đời, nhiều người mưu sinh bằng những việc lương thiện, đánh đổi mồ hôi để kiếm ăn hàng ngày, cũng nhiều người bị đưa đẩy vào đường tội lỗi. Những tệ hại và khốn nạn với dịch vụ “chợ buôn người“ dưới dạng “lấy chồng ngoại quốc“. Ở Singapore mấy thiếu nữ Việt Nam ngồi trong những phòng kính để khách qua lại lựa chọn như một món hàng ở khu thương mãi.

Thân phận gái quê lên thành phố cũng nhiều đắng cay, vì nhẹ dạ bị dụ dỗ bán qua biên giới Trung Hoa, Campuchia, Lào, Thái để làm việc. Nhưng thực tế phần lớn họ bị lừa, buộc nạn nhân phải làm việc trong các động mại dâm. Đời sống lặng lẽ như những chiếc bóng, những chiếc bóng chờ một ngày trôi qua khi màn đêm buông xuống ra đường sống kiếp phù du…

Hơn 100 ngàn phụ nữ Việt nam làm dâu xứ người, có bao nhiêu người hạnh phúc? ngôn ngữ phong tục là bức tường ngăn cách! nhiều cô bị bỏ đói, đánh đập, phục vụ sinh lý cho cả gia đình, sống bơ vơ xứ người phải bán mình như nàng Kiều! làm việc nhà từ sáng đến tối như người nô lệ. Chúng ta phải chạnh lòng và tủi nhục cho thân phận đàn bà Việt Nam xấu số, mời theo dõi phóng sự tại Đài loan:


http://www.youtube.com/watch?v=dV94AMrlA5w&feature=related


http://www.youtube.com/watch?v=Cs3J8WNKdOg

Một số phụ nữ Việt lấy chồng Hàn Quốc đã tự tử, hoặc bị đánh tới chết mà nhiều vụ được kể trên báo chí đã gây xúc động cho dư luận mấy năm qua. Theo một bản tin của báo Anh ngữ Korea Herald ngày 23 tháng 12 năm 2009, chỉ kể từ tháng 11, 2006 là thời gian cơ quan này được thành lập cho đến hết tháng 10, 2009 tin trên tường thuật, 40.4% các người gọi cầu cứu là phụ nữ Việt Nam (28,417 lần gọi). Các quốc gia trên thế giới xuất cảng máy móc, hàng hoá. Sau năm 1975 nhà cầm quyền Việt nam “xuất khẩu lao động“ sang các nước thuộc khối Xã Hội Chủ Nghiã Đông Âu để trả nợ chiến tranh. Nhưng chủ trương đó đến nay không ngừng mà còn tiếp tục xuất cảng người ra các vùng Đông Nam Á như Đại Hàn, Mã Lai, Nhật Bản, Singapore, Hồng kông, Nam Dương và cả các nước Á Rập.

Việt nam với tài nguyên giàu có “rừng vàng bể bạc“, không thiếu nhân tài, giới trẻ góp sức phát triển xây dựng một nước hùng mạnh, phú cường, không thua gì Nhật hay Đại Hàn, nhưng tiếc thay nhà nước không chú trọng đến việc khai thác nhân tài. Người Việt phải đi lao động xứ người thật khổ, làm những việc mà người bản xứ chê, bị kỳ thị, cô lập, đánh đập, trường hợp một số người lao động tại Mã Lai gặp khó khăn, không rành ngoại ngữ, họ lảnh lương không đúng hợp đồng, lý do là phía Việt Nam xuất khẩu lao động chỉ tìm cách đưa nhiều người sang để kiếm tiền, mà không chú ý tới các điều kiện lao động Theo Cục quản lý Lao động ngoài nước của CSVN, hiện có hơn 500 ngàn người Việt đang lao động tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Ở một số nước mới có người Việt lao động bắt đầu từ năm 2005 như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn và Mã Lai thì ngoại tệ chủ yếu tập trung chuyển về những khu vực nông thôn. Đây là những thị trường “xuất cảng lao động” lớn của VN. Năm 2010 sẽ có đến 85.000 người chính thức đi lao động. Tâm sự của một công nhân làm việc ở Malaysia:

“Do là các công ty của mình ở nhà, cứ đưa đẩy người sang để mà lấy phần trăm, cứ đưa người sang ào ào nhưng công việc lại chẳng đâu vào đâu cả. Bức tranh lộn xộn về lao động xuất khẩu Việt Nam, không chỉ tại Malaysia mà còn ở nhiều nước khác, cho thấy sự phối hợp và quản lý của các cơ quan chủ quản là rất yếu, nếu không muốn nói tới tình trạng đem con bỏ chợ. Thế cho nên những người lao động Việt Nam, vỡ mộng làm giàu nơi xứ người, giờ đây không biết bấu víu vào đâu … „

Ngoại tệ chuyển về VN hàng năm tăng liên tục và tăng rõ rệt trong 10 năm qua. Năm 2000 được 1 tỷ USD, năm 2001 tăng lên 1.5 tỷ USD, năm 2002 lên hơn 2 tỷ USD, năm 2003 2.6 tỷ USD, năm 2004 3.8 tỷ USD, năm 2005 lên gần 4 tỷ USD, năm 2006 nhảy vọt lên 5.2 tỷ USD, năm 2007 lên trên 6 tỷ USD và năm 2008 đạt kỷ lục 7.2 tỷ USD. cuối tháng 12 năm 2009 lượng kiều hối chuyển về VN chỉ được 6.283 tỉ USD, giảm 12,8% so với năm 2008.

Nhìn lại 19 năm qua, từ khi những đồng tiền đầu tiên của Việt kiều được gửi về VN qua đường chính thức kể từ năm 1991, đến nay con số này đã vượt quá 30 tỷ USD chiếm hơn 70% số vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) tính từ năm 1988 và cao gấp rưỡi nguồn vốn Viện Trợ Phát Triển Kinh Tế (ODA – Official Development Assistance) được giải ngân từ năm 1993. (Năm hết Tết đến tính sổ kiều hối với CSVN – Trần Việt Trình)

Đời sống Việt nam ngày nay đua theo vật chất, nguời có quyền lực thì giàu sang, các đại gia, công tử tiền tiêu không hết thành phố Hà Nội, Saigon không thiếu các loại xe đắt giá nhất thế giới như: Rolls Royce, Mercedes, BMW… người nghèo thì nghèo tận cùng xã hội, nghèo rớt mồng tơi! Thế hệ trẻ không nhìn thấy tương lại, nhiều gia đình muốn con mình ra nước ngoài làm việc, mong thu nhập cao hơn để giúp gia đình theo kinh tế thị trường. Bọn buôn người nhờ thế lực bao che, tổ chức đưa người ra nước ngoài.

Tại các nước Đông Âu (trước kia thuộc khối xã hội chủ nghiã) đã từ bỏ thiên đường cộng sản, nhưng lề lối làm việc còn ảnh hưởng dưới thời cộng sản, kẻ hở luật pháp chưa được tôn trọng, nhiều đường giây buôn người. Nhiều người ở quê nhà tưởng sang xứ người dễ làm giàu, nhờ bản tính cần mẫn siêng năng! bán tài sản ruộng vườn để đủ tiền nợp cho các dịch vụ ra nước ngoài làm việc, đến Nga và từ đó sang Ba lan, Tiệp Khắc hy vọng tìm đời sống như ước mơ. Đến nơi những gì hưá hẹn trở thành hư ảo, đứng trước hoàn cảnh nan giải tiến thối lưỡng nan, bị đem con bỏ chợ “hết xôi rồi việc“ tiền đã bỏ tuí bọn buôn người lẫn trốn. Nhiều người bơ vơ không giấy tờ hợp pháp phải sống chui rúc làm đủ các thứ việc, đồng lương bị bóc lột, trở thành nô lệ kêu trời không thấu. Mùa đông ở Âu Châu giá lạnh nhưng ở cảng Calais các khu rừng Téteghem, Grande Synthe, Angres bên Pháp có nhiều người Việt Nam sống bất hợp pháp chịu cảnh đói khổ mong tìm một nơi nương tựa có việc làm gởi tiền về trả nợ bên quê nhà ….

Theo loạt bài phóng sự “người rừng“ của ông Huỳnh Tân đăng trang
http://thongtinberlin.de/diendan/latnguaconbai,authuanvietnam.htm. Mùa đông năm nay khá lạnh đôi khi nhiệt độ -20 độ C. Chúng ta phải thông cảm nỗi khổ của những người lẫn trốn trong rừng vì đói lạnh, thiếu vệ sinh lo sợ bị ức hiếp. Họ là nạn nhân bị các tổ chức buôn người hứa hẹn tìm kiếm công ăn việc làm, với lương cao 5000€ hàng tháng, (chú thích: tiền lương nầy chỉ những người tốt nghiệp đại học làm lâu năm chưa trừ thuế, lao động VN không rành ngôn ngữ, không nghề nghiệp không có giấy phép làm việc, nếu người ta thuê làm lậu thuế tốt bụng lắm họ trả tối đa 5€ một giờ). Những người sống ở các khu rừng biên giới Pháp, chờ cơ hội để nhảy xe tải sang Anh tìm việc! Sau cơn khủng hoảng kinh tế không riêng gì ở Anh mà các quốc gia khác cũng không tránh được nạn thất nghiệp gia tăng. Nếu may mắn vào được nước Anh không phải dễ tìm được việc làm hợp pháp! Tương lai là những ngày dài đen tối, tâm sự của “người rừng“ được gởi gắm qua những dòng thơ buồn man mác, đọc hết bài thơ dài tôi không thể cầm được nước mắt:

    ………………….
    Anh ra đi gánh nợ em mang
    Lúc chia tay anh qúa vội vàng
    Không cùng em tâm sự lời sau trước
    Và nơi đây anh sống xa đất nước
    Nỡ lòng nào không thương vợ nhớ con
    Muốn quay về nhưng cách trở núi non
    Đường xa lắm em ơi xa ngàn dặm ………
    Thơ trích từ: “Người Việt chui lủi giữa rừng nước Pháp”cuả Nhà báo Võ Trung Dung tại Paris.


Họ là nạn nhân có thể chết đói, chết lạnh giữa xã hội văn minh dư thừa vật chất!

Người Việt ở Campuchia

Nội chiến Kampuchia năm 1975, Khmer đỏ do Pol Pot lãnh đạo (thân Trung Quốc) chiến thắng, giết hàng triệu người vô tội phơi xương trắng ruộng đồng. Năm 1979 chính quyến CSVN đưa quân đội giúp Heng Samrin chống lại Pol Pot & đóng quân cho đến 1989. Trong thời gian trên nhiều người Việt được sự bảo trợ của quân đội sang lập nghiệp, tại Phnom Penh và các thành phố, làng mạc khác. Ngày nay nhiều du khách Tây Phương đến thăm Angkor kỳ quan thế giới tráng lệ. Xứ Chùa Tháp nhưng đời sống hổn độn, đạo đức suy đồi, ở đâu cũng có quán bia ôm, những động mại dâm ở Svay Pak là những em gái vị thành niên phần lớn người Việt Nam đến từ các tỉnh phiá nam. Tệ nạn mại dâm do tổ chức buôn người về vùng quê Việt Nam dụ dỗ con gái nhà nghèo sang Campuchia làm việc có nhiều tiền hơn, đến nơi bị bán trinh cho người Tàu và buộc làm việc tiếp khách mua vui, công việc kinh tởm, không đạo đức vi phạm nhân quyền. Trường hợp cô Sina Vann tên thật là Nguyễn Thị Bích, quê ở Cần Thơ. Năm mười ba tuổi, Nguyễn Thị Bích bị một bà hàng xóm gạt dẫn sang Kampuchia, bán vào động mãi dâm. Cô được tổ chức Somaly Mam Foundation cứu thoát. Tháng Mười năm 2009, Sina Vann đến Hoa Kỳ để nhận giải thưởng Frederick Douglas vì nổ lực tự phục hồi bản thân và quyết tâm chống nạn buôn người mà cô từng là nạn nhân.

Đần năm 2010 hãng AAP (Australian Assciated Press) cho biết tổ chức The Grey Mann trụ sở ở Brisbane đã cứu thoát được 2 em bé Việt Nam bị bắt làm nô lệ tình dục, không biết còn bao nhiêu trẻ em đang phải sống kiếp người nô lệ của điạ ngục trần gian. Chúng ta nếu có dịp trở về thăm Singapore, Indonesia, Malaysia phải chạnh lòng ngao ngán thấy những cô gái Việt Nam trẻ đẹp ăn mặc hở hang đứng đường làm nghề buôn hương bán phấn. Họ đến đây trong những hoàn cảnh khác nhau, tìm chồng ngoại quốc vì hoàn cảnh gia đình nhiều cô tuổi vị thành niên bị bọn buôn người lừa dối, hứa hẹn giúp cho đi học nghề, nhưng thật ra đến nơi bị khống chế bởi bọn má mì và du đảng ép buộc làm nghề “đi khách“.

Nhìn lại lịch sử Việt nam qua các Triều đại các đấng nữ nhi như hai chị em Bà Trưng bà Triệu, Cô Giang, Cô Bắc đã làm vang danh lịch sử giống nòi. Ngày nay đàn bà Việt Nam phải bán thân khắp nơi làm nô lệ! Trẻ thơ Việt Nam bị đọa đày, ai là người quan tâm khi đang còn mãi mê, sa đoạ, vơ vét cho đầy túi tham hãy thức tỉnh nhân tâm giải phóng cho tuổi thơ Việt Nam! chấm dứt vi phạm nhân quyền cựu Tổng thống George.W. Bush đã tuyên bố:

“Chúng ta phải chứng tỏ sức mạnh mới trong việc chống lại một tệ nạn cũ. Gần 2 thế kỷ sau khi dẹp bỏ nạn mua bán nô lệ, và hơn một thế kỷ sau khi chế độ nô lệ bị chính thức khai tử ở các cứ địa cuối cùng của nó, không thể để cho nạn mua bán người vì bất cứ mục đích nào nẩy nở trong thời đại của chúng ta”.

Là người Việt ở khắp nơi trên thế giới cũng như trong nước, chúng ta phải làm gì cho một dân tộc sớm thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu? chấm dứt trình trạng buôn người “nô lệ”.
Năm mới Canh Dần hy vọng ánh sáng đến đẩy lui bóng tối đang bao phủ quê hương nước Việt.

Nguyễn Quý Đại
Tài liệu tham khảo
Geschicthte der Sklaverei tác giả Susanne Evertt NxB Becchtermünz
Hình đời nô lệ trên Internet



Lời kêu gọi tọa kháng của cô Phạm Thanh Nghiên



Âm thanh lời kêu gọi của cô Phạm


Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, hàng hàng lớp lớp các thế hệ tiền nhân cống hiến cuộc đời, mạng sống của mình cho sự nghiệp cứu nước và dựng nước. Giải giang sơn gấm vóc mà chúng ta có được ngày hôm nay đã nhuộm thắm mồ hôi, xương máu của biết bao công dân Việt Nam đầy lòng ái quốc. Trong trách nhiệm của một con dân Việt Nam, trong sự biết ơn và trân quý những hy sinh xương máu của tổ tiên, tôi tự cho mình có bổn phận phải tiếp nối truyền thống bảo vệ và gìn giữ đất nước. Sự gìn giữ và bảo vệ không chỉ đơn thuần ở từng mét vuông lãnh thổ mà còn là danh dự và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Sự gìn giữ và bảo vệ này nằm trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, đứng trên mọi bất đồng về ý thức hệ, chính kiến, tổ chức và đảng phái. Cách đây đúng 50 năm, vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, ông Phạm Văn Đồng đã đại diện đảng Cộng sản Việt Nam ký bản công hàm chấp nhận và tán thành bản Tuyên bố của đảng Cộng sản Trung Quốc về bề rộng lãnh hải của Trung Quốc trong đó bao gồm các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn tự nghìn đời thuộc vào lãnh thổ Việt Nam. Đây là một hành động cúi đầu bán nước của đảng cầm quyền CSVN đối với ngoại bang, chưa kể là ông cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thời điểm đó không có thẩm quyền ấy, vì 2 đảo Trường Sa và Hoàng Sa lúc ấy thuộc về quyền trách nhiệm sở hữu của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ và sẽ không bao giờ chấp nhận sự dâng hiến này của đảng CSVN. Hoàng Sa và Trường Sa muôn đời vẫn là lãnh thổ của Việt Nam.

50 năm trôi qua, mối nhục mất đất mất biển lại bị tiếp nối bởi nhiều sự dâng hiến khác, vì quyền lợi riêng tư, của thiểu số cầm quyền. Điển hình là Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung quốc vào ngày 30-12-1999 và Hiệp định phân định lãnh hải Việt Nam-Trung quốc ngày 25-12-2000. 789 cây số vuông dọc biên giới Trung Việt, trong đó có thác Bản Giốc và Ải Nam Quan cùng một phần lãnh hải của dân tộc, lại bị dâng hiến cho ngoại bang. Thêm một lần nữa, độc lập của Việt Nam lại bị xâm phạm, danh dự của dân tộc Việt Nam lại bị chà đạp. Trong khi đó, mọi tiếng nói, hành động bày tỏ quan điểm của công dân Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, mọi thái độ thể hiện lòng yêu nước và bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ cha ông của người dân đã bị thẳng tay đàn áp, bắt bớ hoặc giam cầm.

50 năm trôi qua nhưng chúng ta không thể quên. Vì một phần thân thể của đất mẹ vẫn còn bị cắt đứt. Chúng ta không thể cúi đầu. Vì danh dự và tự hào dân tộc vẫn là một vết nhục chưa được xóa nhòa. Chúng ta không thể im lặng. Vì im lặng là đồng ý với hành động bán nước. Chúng ta không thể buông xuôi. Vì mọi sự thờ ơ và buông xuôi sẽ dẫn đến những hành động bán nước tiếp diễn trong tương lai. Chúng ta, không những phải nỗ lực lấy lại những gì đã mất, mà còn phải ngăn chận những gì sẽ mất trong tương lai. Một người, chúng ta sẽ không thành công. Một ngày, một tháng, một năm là quá ngắn để đạt được mục đích. Nhưng với nhiều công dân Việt Nam, bằng trách nhiệm, lương tâm và lòng yêu nước, bằng chiều dài cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ thành công trong việc tiếp nối sự nghiệp cứu nước và giữ nước của tiền nhân.

Trong sự ý thức về trách nhiệm của một công dân Việt Nam, trong tinh thần Tổ Quốc trên hết, tôi quyết định sẽ tọa kháng ngay trước nhà của tôi khởi từ ngày 14 tháng 9 năm 2008 trở đi để phản đối hành động bán nước, dâng hiến Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc cách đây 50 năm. Lý do tôi phải chọn hình thức đấu tranh này là vì tôi đã từng nộp đơn xin phép nhà nước để được biểu tình, để được làm theo đúng pháp luật quy định của nhà nước, hầu không bị công an vô cớ đàn áp và vu khống như những lần tham dự biểu tình trước, nhưng đơn xin phép của tôi cũng đã bị bác bỏ, và bản thân tôi lại bị hành hung. Tôi khiếu tố và đơn khiếu tố ấy cũng bị tòa từ chối không giải quyết. Tôi không còn lựa chọn nào khác trừ phương thức đấu tranh tọa kháng ngay tại nhà tôi để thể hiện quyền bày tỏ thái độ của tôi, một quyền mà chính hiến pháp nhà nước trong điều khoản 69 cũng đã ghi rõ. Và lần này, nếu nhà nước đàn áp, sách nhiễu hay xử dụng bạo lực với tôi, hay thậm chí án tù với tôi, thì ít ra tôi cũng đã thể hiện qua chính sự an nguy của tôi cho cả thế giới được biết sự thật của đất nước này là không hề có tự do ngôn luận, cho dù là ngay tại chính nhà mình sở hữu.

Tôi cũng tọa kháng để phản đối mọi hành động khiếp nhược của nhà nước này trước ngoại bang phương bắc nhưng lại hung hãn đàn áp mọi tiếng nói, mọi thái độ bày tỏ lòng yêu nước của công dân Việt Nam. Đây chỉ là một việc làm nhỏ bé mà cá nhân tôi có thể làm được trong lúc này. Nhưng dù là một hành động nhỏ bé, nhưng với tinh thần đất nước là của chung, tôi xin kính khẩn kêu gọi mọi tầng lớp công dân Việt Nam, quý bác, quý chú đã từng hy sinh cuộc đời của mình cho nền độc lập của đất nước, các anh chị và các bạn trẻ đang mong ước đất nước Việt Nam sẽ ngẩng cao đầu với cộng đồng nhân loại, hãy cùng với tôi bày tỏ thái độ và lòng yêu nước của mình ngay tại chính nhà của quý vị, bất cứ ngày nào khởi từ ngày 14 tháng 9 này trở đi, nếu như quý vị cũng như chúng tôi bị ngăn cấm, không thể đến được nơi biểu tình ở Hà Nội vào 14/09 trước sứ quán Trung Quốc.

Mục đích duy nhất của hành động tọa kháng của tôi là bày tỏ lòng yêu nước và nhắc nhở cho chính tôi và đồng bào của tôi về mối nhục mất đất, mất biển và tôi mong mỏi được sự hỗ trợ và đồng thuận của nhiều người qua những hành động cụ thể. Nếu tôi bị bắt giam thì chắc chắn "tội" của tôi và đó là là tội duy nhất của tôi, là đã dám công khai bày tỏ lòng yêu nước của mình. Và nếu vì yêu nước mà bị giam cầm thì tôi rất sẵn sàng và hãnh diện đón nhận bản án tù ấy bất cứ lúc nào. Và nếu như tôi bị bắt giam trước khi tôi có cơ hội toạ kháng tại nhà như ước muốn, thì tôi sẽ tọa kháng phản đối trong nhà tù. Đối với tôi những khó khăn này rất là nhỏ bé so với những hy sinh của các bậc tiền nhân, của các vị cha chú đi trước tôi đã trải qua trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Kính mong,

Ngày 13 tháng 09 năm 2008
Công dân Phạm Thanh Nghiên
17 Phường Lưu 2, Phường Đông Hải, Quận Hải An, Hải Phòng


Bùi Dương Liêm phỏng vấn Liên Thành

    Tác giả cuốn sách "Biến Động Miền Trung" cựu Thiếu Tá Cảnh sát Nguyễn Phúc Liên Thành


1. http://www.youtube.com/watch?v=gM3rc_MQWZ4


2. http://www.youtube.com/watch?v=8Ix8eEi5c6w
Tác giả Liên Thành chia sẻ về trường hợp ông Bảo Quốc Kiếm


3. http://www.youtube.com/watch?v=uDWHSFgJH0c
Tác giả chứng minh Thích Trí Quang là cộng sản và muốn trở thành "Quốc Phụ" tại Miền Nam.



4. http://www.youtube.com/watch?v=E6Q8eaGMViQ
Thế lực của Thích Trí Quang và Chùa Từ Đàm
Sự thật về Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan,
những tên đao phủ thành phố Huế.


5. http://www.youtube.com/watch?v=QDvgN83H8xU
Sẽ khởi tố những tên sát nhân ra Tòa Án Hình Sự Quốc Tế về tội diệt chủng.


6. http://www.youtube.com/watch?v=BpzH-b4HSSg



ooOoo
    GÓP Ý CỦA BKĐ VỀ “BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG”
    tác giả Nguyễn Phúc Liên Thành
Cá nhân chúng tôi tự học tìm hiểu sự thật quá khứ từ nhiều người. Phần chủ quan không ai là không có. Nhưng không thể phủ nhận phần khách quan, mà chính họ là nhân chứng. Chúng ta có nên chủ quan phỉ báng tác giả Liên Thành một cách quá đáng không [Phật Giáo quá khích]??? Chúng ta có nên dùng tác phẩm vô tư của tác giả để phỉ báng Phật Giáo không [Công Giáo quá khích]??? Ngay cả trường hợp lúc đầu Hoà Thượng Thích Đôn Hậu cũng trong hàng ngũ kháng chiến Việt Minh cũng là thường tình [liên hiệp xảo trá nhất thời]!!!

Việc HT Thích Đôn Hậu đã giúp cho GHPGVNTN phục hoạt và phát triển ra hải ngoại cho đến ngày nay. Không ai có thể phủ nhận điều đó. Rất tiếc ông Liên Thành nhẽ ra nên tìm hiểu thêm về GHPGVHTN ... những gì đã xẩy ra sau khi ông ra đi từ 1975 cho đến hiện nay. Thêm vào tác phẩm của ông [vắn tắt thôi] phần Pháp Nạn của Phật Giáo đã xẩy ra sau khi VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi đến hiện tại. Chúng tôi tin chắc Biến Động Miền Trung sẽ được trân quý hơn nếu tác giả thêm phần sau 1975.

Nhân vô thập toàn, khiến tác phẩm của ông bị 36 chiến thuật xảo trá lưu manh của VC lợi dụng triệt để gây xáo trộn trong cộng đồng tỵ nạn VC!!! Đúng như GS Võ Văn Ái đề cập đến, người cầm đầu về tuyên truyền của Phát Xít Đức Quốc Xã, từng tuyên bố một lời nói láo: nếu được nhắc lại 1000 lần sẽ trở thành sự thật.

Ông Liên Thành là Phật Giáo. Mẹ ông nói bà cụ cũng thấy sai... nhưng Thầy bảo [VC Trí Quang] thì phải làm. Ông là cháu của Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết. Chính Đệ Nhất Tăng Thống là người theo phe VC nằm vùng Trí Quang [chúng tôi gọi]. Khi ông Liên Thành dám đề cập đến việc tên VC Trí Quang hoành hành dưới 2 thể chế VNCH như thế nào. Có nghĩa tác giả Liên Thành đã vô tư khách quan khi đề cập đến ngay cả mẹ ông, có liên quan với VC Trí Quang.

Chính tai chúng tôi nghe một chiến hữu thường lên youtube thảo luận; đã khẳng định Liên Thành là Cần Lao và là người Công Giáo nói láo. Lịch sử Phật Giáo Việt Nam truyền thừa luôn luôn đứng về phía Dân Tộc. Đạo Phật là một tôn giáo hiền hoà nhất, không bao giờ gây chiến tranh với bất cứ tôn giáo nào.

Nhân vô thập toàn, nên khi Hoa Kỳ đưa TT Ngô Đình Diệm về Việt Nam, đương nhiên vì địa thế quan trọng của Việt Nam. Họ muốn giúp đồng minh Việt Nam ít nhất cũng phải đạt được kết quả như Nam Hàn, để ngăn chặn làn sóng Đỏ từ Tàu Cộng. Chứ không phải để thay thế Thực Dân Pháp ở Việt Nam!

Ngay cả với Phát Xít Nhật từng tấn công Trân Châu Cảng của Hoa Kỳ ... khiến Hoa Kỳ phải nhẩy vào vòng chiến. Sau Thế Chiến thứ 2 chấm dứt, Nhật đầu hàng tên "Sen Đầm Quốc Tế" Hoa Kỳ [VC gọi Mỹ khi miền Nam bị "giải phóng", chúng tôi được VC dậy đạo đức lưu manh của tên Nô Lệ Hồ Chí Minh] có xâm lăng Nhật Bản để biến Nhật thành một tiểu bang mới không???

Thử hỏi sau khi miền Nam Việt Nam được Đồng Bào ruột thịt VC "giải phóng" lại áp dụng một thể chế Nô Lệ ngoại bang, chưa từng bao giờ xẩy ra ở Việt Nam [trừ khi yếu thế bị thua trận quân thù xâm lược quê hương ta]???

Tên Phản Quốc Trí Quang yêu Quê Hương chống Đế Quốc Mỹ triệt để trong thập niên 1960. Tại sao hắn không dám hô hào quần chúng nổi dậy chống Đế Quốc Tàu Đỏ từ năm 1979, năm 1984, năm 1988- 1992, năm 1999, năm 2000 liên tục đến 2009???!!!

Đơn giản vì hắn là VC nằm vùng ở miền Nam !!! Hắn đã lợi dụng sự thiếu xót hám danh của LM Ngô Đình Thục, sự ngu muội, cao ngạo, của Cố Vấn Ngô Đình Nhu, sự kênh kiệu, ngu xuẩn của Trần Lệ Xuân, đổ xăng đốt cả Chồng lẫn cả cơ nghiệp chính trị của dòng họ Ngô Đình!!!

Thử hỏi một Tu Sĩ Phật Giáo Chân Chính có bao giờ lại thích sách động quần chúng nổi dậy quyết liệt để chống lại một thể chế Quốc Gia còn quá non trẻ, và còn bao di sản khó khăn, Thực Dân Pháp để lại phải giải quyết???

Nếu tên Trí Quang là người Quốc Gia, một Tu Sĩ Phật Giáo chân chính. Hắn đã áp dụng Vô Lượng Từ Bi... đối với Đệ Nhất VNCH, vì quyền lợi tối thượng của Quốc Gia Việt Nam , hơn sự thiệt thòi nhất thời của Phật Giáo [không được treo cờ ngoài đường]!!! Dễ hiểu, vì hắn là VC nằm vùng ở miền Nam Việt Nam !!! Phật Giáo thuần túy rất nhân từ không khích động quần chúng, ghen tị với tôn giáo khác.

Tên Trí Quang đóng kịch với phóng viên ngoại quốc là hắn chống VC. Tại sao năm 1975 hắn lại nói Phật Giáo không làm chính trị bỏ họp với VC, ra ngoài để cho các thành phần Quốc Gia ở chùa Ấn Quang đương đầu một mình với bọn VC??? Trong khi cả 4 anh em ruột VC Trí Quang đều gia nhập Kháng Chiến chống Pháp của tên Nô Lệ Hồ Chí Minh!!!

Việc hắn sách động Phật Tử biểu tình treo cổ 2 ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ trước pháp trường cát, ở chợ Bến Thành ngày 31/03/1966, chống Hoa Kỳ đòi tự trị… là tuyên vận cho VC hay là tu đấy???!!!

VC đã phao tin tên Trí Quang là người của CIA Hoa Kỳ. Nếu hắn làm cho CIA tại sao hắn lại đòi đuổi Mỹ ra khỏi Việt Nam; đòi Tự Trị Hoà Hợp Hoà Giải với VC???

Vì chính hắn là VC nằm vùng!!!

Hoa Kỳ đổ quân vào việt Nam từ 1965, một phần vì không thể giải quyết chiến tranh mau chóng như ở Nam Hàn.

Người Hoa Kỳ đã hy sinh trên 58,000 chiến sĩ ở chiến trường Việt Nam . Dân chúng Hoa Kỳ không thể kiên nhẫn hơn, vì là một nước quá Dân Chủ và Tự Do [Jane Fonda đã qua Việt Nam ủng hộ VC. VC Trí Quang đã sai VC Nhất Hạnh ra hải ngoại chống VNCH. Hắn vào Thượng Viện Mỹ bênh vực MTGPMN năm 1966. Hắn sách động phản chiến Hoa kỳ chống chính quyền Mỹ ngay sau khủng bố 9/11…]. Việt Nam mất nước, vì VC khoác áo nhà tu quá nhiều, nhất là Phật Giáo!!!

Tại sao tên Trí Quang êm re trước hiện tình tàm thực xâm lăng của Đế Quốc Tàu Đỏ, Kẻ Thù Truyền Kiếp của Dân Tộc Việt Nam hiện nay ??? Vì hắn là VC nằm vùng ở miền Nam Việt Nam !!!

Tên Trí Quang sách động Phật Tử nổi dậy chống cả 2 thể chế VNCH bênh vực Phật Giáo truyền thừa??? Tại sao dưới thể chế VC, bọn Mafia Tư Bản Đỏ VC kìm kẹp GHPGVNTH gấp ngàn triệu hơn thời Đệ I VNCH. Hắn vẫn bình chân như vại là sao??? Dễ hiểu quá, vì hắn là VC nằm vùng ở Nam Việt Nam !!! Chỉ có người ngây thơ; để VC dùng 36 chiến thuật hoả mù quấy phá nội bộ người Việt tỵ nạn VC!!!

Tại sao tên Trí Quang hết sách động chống Đệ Nhất VNCH bằng biểu tình tẩm xăng, ướt đẫm mình mẩy HT Thích Quảng Đức, để Ngài quên cả Vô Lượng Từ Bi mới là thượng sách???


Pháp nạn dưới thể chế VC không phải chỉ đơn giản, không cho treo cờ ngoài đường như ngày 07/05/1963 ở Thừa Thiên [đạo dụ 10 thời Pháp thuộc].

Cố Đệ IV Tăng Thống Thích Huyền Quang bị tống về miền Trung từ đầu tháng 02/1982 cho đến ngày VC địa phương mưu sát Ngài tại bệnh viện Bình Định qua đời ngày 05/07/08. HT Viện Trưởng Thích Quảng Độ cùng ngày bị tống vào tù miền Bắc đằng đẵng 10 năm. Năm 1994 Ngài đi cứu lút ở miền Nam , lại bị bắt kết án tù 5 năm…

Ngay ngày 02/11/75, 12 Tu Sĩ Phật Giáo tự thiêu ở Cần Thơ... VC thủ tiêu HT Thích Thiện Minh năm 1977. VC bức tử HT Thích Trí Thủ năm 1984. Tiếp theo 1993 cả trên 40 ngàn Phật Tử nổi dậy biểu tình để cứu Thầy ở miền Trung…

Thử hỏi tên Trí Quang chết chui chết nhủi ở đâu mà không thấy ra bênh vực Phật Giáo một lần nào???!!! Bộ hắn áp dụng Từ Bi Hỉ Xả với VC, tuy là miệng từng xoen xoét là không nên làm lợi cho VC sao???!!! Rõ ràng hắn là vẹm ngụy 1000%!!! Chối làm sao nổi, tên vẹm khốn nạn, Phản Bội Tổ Quốc, Dân Tộc Việt Nam!!!

Chúng tôi không hiểu nổi, có người còn nói tên Trí Quang là chống Cộng [Tú Gàn]; với ý đồ thâm độc!!! Tà ngụy quyền VC hay VC Nhất Hạnh nên sai hắn ra bênh vực chùa Bát Nhã đi để cho chúng sanh bỏ mồi bắt bóng mệt nghỉ. Hầu VC có thể tiêu diệt GHPGVNTN dễ dàng nhé!!! Nhưng không phải dễ đâu! Đừng tưởng bở!!!

Hôm qua chính tai chúng tôi nghe đài Á Châu Tự Do; phát thanh lời tên VC Trung Hải ở Pháp trong nhóm 25 người đại diện cho 400 Tăng Ni của chùa Bát Nhã ở Lâm Đồng theo môn phái VC Nhất Hạnh [hiện ở chùa Phước Huệ]. Hắn bịp bợm nói láo vô liêm sỉ là hắn không phải là môn sinh của “Bụt” Nhất Hạnh!!! Hắn chỉ là đại diện 400 tu sĩ bị VC đàn áp đang ở chùa Phước Huệ, làm đơn ngày 16/12/09, đề nghị Tổng Thống Pháp cho phép họ được tạm trú, cho đến khi nào VC bỏ chính sách đàn áp Phật Giáo. Để họ có thể cùng nhau tu tập ở Việt Nam !!!

Sáng nay [Dec. 17/09] qua đài RFE, VC Trung Hải đã vô liêm sỉ khai thêm: hắn đang ở Pháp đã trên 10 năm!!! Hắn lại không thuộc môn phái của “Bụt” Nhất Hạnh. Làm sao hắn và đồng bọn 25 người có thể nói là đại diện của 400 môn sinh của “Bụt” Nhất Hạnh của Tu Viện Bát Nhã???!!!

Chúng tôi đã tiên đoán thế nào VC Nhất Hạnh cũng có chiến thuật mới để tăng thêm công an trọc ở hải ngoại bao vây GHPGVNTN mỗi ngày một chặt chẽ hơn. Đuôi chồn con cháu Hồ Ly Tinh lộ ra quá sớm!!! Chúng ta nên nhớ VC không chỉ dùng 36 chiến thuật hỏa mù, xảo trá mà có thể là 3600 kiểu, hay nhiều hơn nữa nếu cần!!!

Chúng ta nên thông cảm tại sao Đại Lão HT Thích Tâm Châu thấy đệ tử nào khóc, cũng bao dung thương xót!!! Năm nào Ngài ra Trung thăm Phật Tử thay Thầy Thích Chánh Lạc [đi du học] liền bị VC Trí Quang dẫn Phật Tử ra tận phi trường đả đảo… khiến Ngài phải ra về Sàigòn ngay. Thế mà Ngài vẫn chưa sợ??? Phải chăng các người tu chân chính lúc nào cũng thương chúng sanh như nhau [xin nhắc nhỏ Ngài nhớ đừng bao giờ lớn tiếng kết án chúng tôi là VC lần thứ 2 nhé].

Thế mà bọn “về nguồn VC” ở Hoa kỳ đã tổ chức tụng kinh, cầu an cho tên VC khốn nạn Trí Quang ngày 21/02/09 tại chùa Bát Nhã của VC 30/07 Nguyên Trí là sao ???

Tại sao 2 tên Công Giáo gian Lai Thế Hùng và Chu Tất Tiến lại cam tâm làm Tà Lọt cho VC Minh Tâm là sao??? Tên Công Giáo Gian Nguyễn Cần tức Tú Gàn, còn vô liêm sỉ phổ biến VC Trí Quang không phải là VC!!! Phải chăng là cùng cội nguồn VC; phản bội Tổ Quốc, Dân Tộc Việt Nam ??? Nên đã hơn một lần đánh phá vụ kiện WJC do ông Nguyễn Hữu Luyện cầm đầu???!!!

Công Giáo gian Hoàng Duy Hùng, được gia đình ông Trương Như Phùng hỗ trợ hết mình ở Texas . Ông Trương Như Phùng rất thân với Lai Thế Hùng.

Từ May 19/05 Hoàng Duy Hùng khoe được VC mời để thảo luận về đại sự quốc gia Việt Nam !!!

HDH từng đưa $100,000.00 dollars cho tên VC nằm vùng Phạm văn Thành [đệ tử của VC phản gián Nguyễn Xuân Nghĩa ở Bolsa] để tạo một Thiên An Môn ở Việt Nam !!!

Sau không thành, HDH nói đã giao tiền cho Phật Giáo Hòa Hảo. Tên Công Giáo Gian Lai Thế Hùng rất thân với tên Nguyễn Tấn Đức tự xưng là người cầm đầu Phật Giáo Hòa Hảo ở Georgia, cùng đi với Tà Lọt Lai Thế Hùng và ông Trương Như Phùng lên DC chống VC Nguyễn Minh Triết năm 2007.

Cá nhân chúng tôi từng chứng kiến, tên Việt Gian Nguyễn Tấn Đức, đã mạt sát bà Tôn Nữ Hoàng Hoa trong khi ông Phùng nhờ bà TNHH làm thông dịch, ngay cả khi ở trong phòng họp của Bộ Ngoại Giao!!! Vậy Nghị Viên HDH nên nhờ ông Phùng hỏi Nguyễn Tấn Đức phổ biến số tiền $100,000.00 dollars đã được sử dụng như thế nào??? Kế hoạch nổ lớn, xẹp nhanh; được VC nể vì là phải!!! Nên việc HDH có đi đêm, hay đi ban ngày cũng không có gì lạ.

Xin đính kèm vài hình ảnh liên quan đến VC Trí Quang và bọn Tà Đạo Liên Châu về nguồn VC. Cho thấy cuộc sống của trần thế quá vô thường. Loài người có nên bớt tham sân si, quên hận thù không [VC 30/07 Thiện Hương (ảnh có DB Văn) vác gậy đập chúng tôi năm ngoái… bênh vực VC 30/07 Nguyên Trí vừa qua đời. VC Trí Quang trông quá bệnh hoạn]???

BKĐ. Dec 17/2009

Thiệp Mời - Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Trần Văn Hương

Vị Tổng Thống Dân Cử Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa

Ông TRẦN VĂN HƯƠNG
Cựu Giáo Sư Trường Trung Học Mỹ Tho


Nguyễn Thanh Liêm

Từ lúc bắt đầu đi học cho đến bây giờ, tôi đã có rất nhiều may mắn được học hỏi với biết bao nhiêu thầy cô đáng thương đáng kính. Nhưng ngoài những thầy cô đáng thương đáng kính ấy còn có ba bậc thầy tôi rất mực tôn sùng, nhưng tôi không hề được thọ giáo bao giờ. Vị thứ nhất là một nhà nho có học vị cao nhất Miền Nam, là vị tiến sĩ Nho học đầu tiên và duy nhất của Miền Nam, cụ Phan Thanh Giản, một nhà cai trị đầy lòng yêu nước thương dân với chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Vị thứ hai là một nhà văn hóa có cái học uyên thâm, nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký, và vị thứ ba là cụ Trần Văn Hương, cựu giáo sư Trường Trung Học Mỹ Tho, và cũng là vị Tổng Thống dân cử cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Cụ Phan Thanh Giản cả đời lo cho dân cho nước, địa vị có cao, nhưng cuộc đời hết sức giản dị đạm bạc, cuối cùng phải tuẩn tiết đền ơn sông núi sau khi đã tiết kiệm được bao nhiêu xương máu của người dân Nam Kỳ. Ông Đốc Ký thì đã đi dạy từ hơn nửa thế kỷ trước khi tôi chào đời, đã để lại cho Việt Nam một công trình văn hóa to lớn, đã khai đường mở lối cho nền văn chương chữ quốc ngữ, và đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc xây dựng nền học thuật mới, tổng hợp khoa học kỹ thuật Âu Tây với luân lý đạo đức Á Đông vào hồi cuối thế kỷ thứ XIX. Vị thứ ba là cụ Trần Văn Hương, tuy không có một công trình văn hóa lớn lao như hai vị trên, nhưng đã để lại trong lòng người dân Việt một hình ảnh không phai mờ của một kẻ sĩ đầy khí tiết, một tấm gương ngay thẳng trong sạch, và là một chính trị gia lúc nào cũng tận tụy, hy sinh cho dân chúng và quốc gia Việt Nam trong thời đen tối của lịch sử hiện đại.

Về hai vị thầy thứ nhất và thứ nhì thì những sách vở văn học và sử học đều có nói đến, tuy chưa có tài liệu nào dành cho họ một ngôi vị xứng đáng với công trình to tát mà họ đã đóng góp cho nền chính trị và học thuật nước nhà. Nhưng dù sao thì phương danh của họ cũng đã được lựa chọn để đặt cho hai ngôi trường trung học lớn và có tiếng ở miền Nam Việt Nam: trường Petrus Trương Vĩnh Ký, ở ngay tại thủ đô Sài Gòn của Miền Nam tự do, và trường trung học Phan Thanh Giản ngay tại thủ đô của Miền Tây nước Việt. Nhưng về vị thầy thứ ba là cụ Trần Văn Hương thì tôi chưa thấy có một công trình biên khảo nào đáng kể để được xem như là một nỗ lực nhằm tôn vinh một người chí sĩ nổi tiếng của miền Nam Việt Nam cho xứng đáng với đức độ và sĩ khí của Người. Do vậy mà trong thâm tâm tôi vẫn thầm nguyện ước phải làm một cái gì để chính bản thân tôi và nhiều người Việt Nam khác, nhứt là thế hệ trẻ, có thể biết đến, kính phục và thương mến một con người đạo đức và rất yêu thương dân chúng và quê hương xứ sở.

Ước nguyện nầy đã thúc đẩy tôi cùng một số bạn hữu tổ chức những buổi lễ tưởng niệm cố Tổng Thống Trần Văn Hương, từ hồi tháng 3 năm 1996 tại San Jose với sự tham dự đông đủ của những người ngưỡng mộ ông. Chúng tôi hy vọng buổi lễ tưởng niệm nầy sẽ là bước khởi đầu cho những công trình quan trọng hơn và ý nghĩa hơn ở nhiều nơi.

Rồi hôm nay, sau một phần tư thế kỷ ngày từ trần của cụ Hương, ở tại đây, nơi được xem là thủ đô của người tỵ nạn, chúng tôi muốn khởi đầu lễ tưởng niệm vị Tổng Thống hợp hiến cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà để nhắc nhở các thế hệ sau về tấm gương của một nhà ái quốc đạo đức, một chính trị gia trong sạch, liêm chính, hết lòng vì dân vì nước, đã phải sống những ngày cuối cùng của cuộc đời trong cảnhỉ nghèo túng, đạm bạc, cũng như cụ Phan Thanh Giản trước kia. Cụ Hương cũng đã tiết kiệm được nhiều xương máu của người dân Nam, đã ở lại với người dân, sống khổ sở tũi nhục trước sự hống hách của những can binh cộng sản không tình người, vô đạo đức, vô liêm sĩ, chỉ biết dùng sức mạnh võ lực để kiềm hảm, áp bức người dân Nam hiền lành. Chúng tôi mong nhân dịp này tạo cơ hội để hằng năm những người quốc gia chân chính hãy cùng tưởng niệm vị giáo sư lỗi lạc có một không hai của trường Nguyễn Đình Chiểu, nhà chí sĩ khí tiết cao cả của miền Nam Việt Nam, vị Tổng Thống hợp hiến cuối cùng được nhiều người mến phục của Việt Nam Cộng Hoà. Bên cạnh cụ Hương còn có những vị tướng lãnh đã nêu cao nghĩa khí của người chiến sĩ bất khuất, thà chết chứ không chịu nhục trước cái chiến thắng không chính đáng, không danh dự của bọn người nô lệ mù quáng cho chủ nghĩa cộng sản chật hẹp, lỗi thời. Các vị tướng lãnh Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Hai, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, và những sĩ quan, binh sĩ khác đã tuẩn tiết ngày Cộng Sản xăm chiếm Miền Nam cũng đều đáng được tôn thờ, tưởng niệm bên cạnh vị Tổng Thống bất khuất của Việt Nam Cộng Hoà.


Ông Trần Văn Hương sanh năm 1902 tại Vĩnh Long trong một gia đình nông dân nghèo khó. Cha làm ruộng, mẹ đi bán cháo ở ngoài chợ. Nhà nghèo, thuở nhỏ ông phải đi làm để kiếm tiền đi học. Nhờ học giỏi nên ông được học bổng của chính phủ. Sau khi xong Trung Học Pháp, ông tiếp tục học Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội. Năm 1926, sau khi tốt nghiệp, ông được bổ về dạy tại Trường Trung Học Collège Le Myre de Vilers, Mỹ Tho. Ít lâu sau, ông được bổ nhiệm làm Thanh Tra Học Chánh (inspecteur provincial) tỉnh Tây Ninh. Chính tại đây, nhà giáo Trần Văn Hương đã vượt qua cương vị của một nhà mô phạm để bắt đầu dấn thân vào con đường chính trị. Thực ra, khi quốc gia hữu sự thì mọi người, dù kẻ thất phu cũng còn có trách nhiệm, huống chi là người có tâm huyết, chí khí như giáo sư Trần Văn Hương. Cho nên, năm 1945, sau khi Thế Chiến thứ hai chấm dứt, ông mạnh dạn bỏ nghề dạy học để tham gia phong trào toàn quốc kháng chiến chống Pháp, đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Kháng tỉnh Tây Ninh. Khi Pháp tái chiếm tỉnh nầy, ông đưa bộ đội rút về Đồng Tháp Mười để tiếp tục kháng chiến.

Nhưng vào khoảng 1946-47, khi biết phong trào nầy đã bị Cộng Sản thao túng, ông Hương giải tán bộ đội, trở về thành để làm “cu-li viết”, như ông thường nói, hầu sống đạm bạc qua ngày. Tư cách, uy tín cũng như tài năng của ông được nhiều người biết đến Cho nên khi Ngô Đình Diệm tìm một người có đủ tài năng và đức độ làm đô trưởng Sài Gòn thì Trần Văn Hương đã được đề nghị trước hết. Năm 1955, ông nhận lời mời của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra làm Đô Trưởng Saigon lần thứ nhất. Đây là lần đầu tiên người dân miền Nam Việt Nam được thấy một chính trị gia cỡi xe đạp đi nhậm chức đô trưởng. Nhưng mấy năm sau, khi thấy chánh quyền Đệ Nhất Cộng Hòa bắt đầu có nhiều sai lầm trong chánh sách, ông Hương cùng 17 nhân sĩ khác trong nhóm Tự Do Tiến Bộ (thường gọi là nhóm Caravelle) ký tên vào bản thỉnh nguyện và tổ chức họp báo tại khách sạn Caravelle để yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm thay đổi đuờng lối cai trị để cứu nguy dân tộc. Kết quả là ông Hương và 17 nhân sĩ bị vào tù, và là thời gian ông có dịp làm bài thơ bất hủ: Ngồi buồn gãi (dái) ngứa tăng tăng ...

Năm 1964, ông được mời làm Đô Trưởng lần thứ hai. Không bao lâu sau, ông lại được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu mời thành lập chánh phủ và đây là lần đầu tiên ông làm Thủ Tướng Chính Phủ. Khi tướng Nguyễn Khánh làm chỉnh lý, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu bị truất phế, Thủ Tướng Trần Văn Hương bị bắt và bị quản thúc một thời gian ở Vũng Tàu.

Năm 1968, sau Tết Mậu Thân, trong cảnh hỗn loạn hiểm nguy, ông Hương đã can đảm nhận lời mời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra làm Thủ Tướng lần thứ hai. Sau một năm chấp chánh, tình hình chánh trị, quân sự ở miền Nam Việt Nam đã có phần được ổn định lại. Năm 1971, ông đắc cử Phó Tổng Thống trong liên danh với Nguyễn Văn Thiệu. Ở ghế ngồi chơi xơi nước, ông chỉ làm chủ tịch một số hội đồng quốc gia trong đó có Hội Đồng Văn Hoá Giáo Dục. Tưởng như vậy cũng đã yên thân lúc tuổi già, nào ngờ, vào ngày 20 tháng tư năm 1975, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, lúc vận mệnh quốc gia đi đến hồi thập tử nhất sinh, ông Trần Văn Hương lại mạnh dạn đứng ra nhận lấy trách nhiệm trước quốc dân đồng bào khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ông Trần Văn Hương lên làm tổng thống chỉ vỏn vẹn có bảy ngày, vừa đủ để gặp gỡ Đại Tướng Dương Văn Minh, và điều trần trước lưỡng viện Quốc Hội về tình trạng khẩn trương của đất nước, để tìm một giải pháp chính trị trong tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam. Trước áp lực mạnh mẽ của Mỹ, với sự đồng ý của lưỡng viện Quốc Hội, Tổng Thống Trần Văn Hương đã trao quyền lãnh đạo lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh trong một buổi lễ tại Dinh Độc Lập chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, khoảng 36 tiếng đồng hồ trước khi quân Cộng Sản tiến vào Saigon. Ông Trần Văn Hương là vị tổng thống dân cử cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Trước khi Saigon mất, đại sứ Hoa Kỳ có đến mời ông ra đi để có thể bảo đảm cho ông một cuộc sống yên ấm cho đến trăm tuổi già. Ông nhứt đinh ở lại quê hương, chia xẻ nỗi đau và cảnh khốn cùng của dân quân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa.

Năm 1977, chánh quyền Cộng Sản đem giấy tờ trao trả quyền công dân lại cho ông. Ông đã khẳng khái khước từ. Ông dõng dạc tuyên bố với chánh quyền Cộng Sản rằng ông sẽ là người sau cùng nhận lãnh sự trao trả đó khi nào tất cả các dân quân cán chánh đang bị giam cầm đều được trao trả quyền công dân.

Ông đã sống hết sức thanh bần trong những ngày còn lại của ông. Tuy rất nghèo nàn, thiếu thốn, ông vẫn muốn sống, để sống hơn Hồ Chí Minh một tuổi thôi.

Ông đã được thỏa mãn với ước nguyện của ông. Ông mất hồi 4 giờ chiều ngày 27 tháng 1 năm 1982, tức ngày mùng ba Tết năm Nhâm Tuất, hưởng thọ 80 tuổi.

Ông Trần Văn Hương là một nhà giáo và cũng là một nhà nho với tất cả phong độ của một kẻ sĩ thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh mặc dù ông theo Tây học từ thuở nhỏ. Theo quan niệm nhà nho, tiến vi quan, thối vi sư, tùy theo thời cơ mà ra làm quan giúp vua trị nước hay là đi dạy học, truyền bá đạo lý thánh hiền. Tu, Tề, Trị, Bình, là con đuờng mà kẻ sĩ phải theo trong tiến trình hoàn thành trách nhiệm mà đất trời giao phó. Cuộc đời đi dạy học và chấp chánh của ông cho thấy ông đã đi đúng con đường mà ngày xưa Khổng Tử đã đi.

Lớn lên trong hoàn cảnh loạn ly, Khổng Tử muốn đem đạo đức luân lý cải thiện con người và xã hội. Hoài bão đem đạo thánh hiền để cứu đời, đem vương đạo để cai trị, làm cho quốc gia có trật tự và hưng thịnh, cho thiên hạ được thái bình, là hoài bão luôn được Khổng Tử ấp ủ trong lòng. Do đó, sau một thời gian dạy học, Khổng Tử lại vượt ra cuộc đời của nhà mô phạm để chấp chánh.

Ngày kia, khi đến nước Sái, thấy có hai người cày ruộng. Khổng Tử sai Tử Lộ đến hỏi thăm đường. Người thứ nhứt tên là Tràng Thư nói với Tử Lộ: “Ông ấy (tức Khổng Tử) chu du đã lâu để dạy đạo cho đời, hẳn phải biết đường rồi còn hỏi chi nữa.” Người thứ hai là Kiệt Nịch lại bảo: “Đời loạn đã lâu, làm sao mà trị được. Anh đi theo Khổng Khâu đã lâu làm gì để bị người đời xa lánh. Sao anh không theo ta để chính mình xa lánh cuộc đời có phải hơn không!”

Nghe vậy , Khổng Tử bèn than: “Người mà không sống chung với loài người thì sống với ai? Nếu thiên hạ đã đạt được đạo rồi thì Khổng Khâu nầy đâu cần phải dấn thân vào đời đổi loạn ra trị làm gì nữa!”

Thương thay cho những người muốn dấn thân giúp đời như Khổng Tử! Tội nghiệp thay cho thân phận nhà giáo muốn đem đạo đức vào địa hạt chính trị để cho vương đạo được phổ cập trong thế giới loài người!

Ông Trần Văn Hương khi nhận lời chấp chánh chắc cũng nghĩ như Khổng Tử là đem tất cả thành tâm thiện chí của mình để mong cải thiện đường lối chánh trị, đem lại trật tự cho xã hội đang hồi loạn ly, đem yên ổn thanh bình cho dân chúng. Vốn là nhà giáo, thấm nhuần tư tưởng Khổng Nho, ông muốn đem đạo đức vào địa hạt chánh trị để cho vương đạo được sáng tỏ.

Ông hành sử như vậy vì ông thấy mình có trách nhiệm phải làm chớ không phải vì bổng lộc, danh vọng hay quyền lợi cho cá nhân hay gia đình ông. Thanh bạch, liêm khiết là những đức tánh không ai phủ nhận được nơi ông Trần Văn Hương. Dù giữ chức vụ cao cấp trong chánh quyền, cuộc sống của ông lúc nào cũng đạm bạc, khiêm tốn, ngay cả quần áo ông cũng không có một bộ cho đáng giá. Nói về tư cách của người lãnh đạo, nhà nho bảo là khi quốc gia hữu sự, nhân dân khốn khổ mà mình làm bậc cha mẹ dân lại được giàu sang sung túc là một điều sỉ nhục. Ông Trần Văn Hương đã theo đúng tinh thần nho giáo ấy khi ông lãnh đạo quốc gia dân tộc.

Nói đến ông Trần Văn Hương là phải nói đến con người cương trực, khẳng khái của ông. Những kẻ hay dùng tiền bạc hay một sức mạnh nào khác tạo áp lực để mưu cầu lợi riêng cho cá nhân hay đoàn thể chắc chắn không đạt được kết quả gì trước cái ngay thẳng gan lì của “Ông già gân”. Dù bị chống đối, bị áp lực đủ trò, ông vẫn một mực đặt tôn giáo và chánh trị ra ngoài học đường, thượng tôn luật pháp để vãn hồi an ninh trật tự cho xã hội. Tinh thần bất khuất của kẻ sĩ đã khiến ông phải mạnh dạn đứng lên phản kháng khi gặp phải diều bất bình, bất lợi cho quốc gia dân tộc, dù có phải nguy hại đến an ninh cá nhân.

Hai lần được mời làm đô trưởng, hai lần được mời làm thủ tướng, một lần được mời đứng chung liên danh ứng cử Thượng Viện, và một lần được mời đứng chung liên danh ứng cử tổng thống, khả năng và nhân cách của ông Trần Văn Hương đã được người đương thời biết đến và kính phục. Tuy ông đã không đem lại được thắng lợi và vinh quang cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ông cũng đã để lại cho người dân miền Nam Việt Nam một tấm gương yêu nước, thương dân, trong sạch, liêm khiết và tiết tháo mà người đương thời ít ai sánh bằng. Với tư cách đạo đức trong sáng của một nhà giáo, với khí tiết hùng dũng, bất khuất của một chính trị gia thật sự yêu nước thương dân, ông Trần Văn Hương và những chiến sĩ Quốc Gia chết vì chế độ tự do của Việt Nam Cộng Hoà thật vô cùng xứng đáng để ngày nay chúng ta tưởng niệm vậy.

oOo
    Tưởng Niệm Trần Văn Hương - Nhân Sĩ Suốt Đời Giữ Tiết Tháo
Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Trần Văn Hương


Hứa Hoành

"Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền công dân trước..." (Lời cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trả lời một cán bộ CS, khi họ đến nhà định làm lễ, quay phim "trả quyền công dân cho ông").

Hàng năm, cứ đến ngày oan trái 30 - 4, tôi lại bâng khuâng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ đã bỏ mình vì nước. Làm tướng giữ thành, thành mất, tuẫn tiết theo thành, ngày xưa có Tổng đốc Hoàng Diệu (1828 - 1882), Tổng đốc Nguyễn Tri Phương (1800 - 1873)... Ngày nay có Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Thiếu tá quận trưởng Bồng Sơn Hoàng Lê Cương (1972) và hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh khác, đã tự sát để giữ tròn khí tiết, không để lọt vào tay kẻ thù làm nhục. Họ nêu những gương hy sinh cao quý, tiết liệt, lịch sử ghi nhớ muôn đời.

Hai mươi năm chiến tranh, một cuộc chiến tranh vệ quốc sáng ngời chính nghĩa quân dân miền Nam đã hy sinh hàng triệu người, chỉ vì muốn bảo vệ một lý tưởng "Độc lập, tự do" và không muốn đất nước rơi vào tay CS. Nhưng cuối cùng phải thất bại trong nỗi uất hận, nghẹn ngào.

Năm nay, nhân ngày tang tóc đau thương của toàn thể dân tộc Việt Nam , chúng tôi muốn nhắc lại với thế hệ mới lớn lên, về những cái chết oai hùng. Trong phạm vi bài nầy, chúng tôi kể lại những ngày sau cùng của một chính khách thanh liêm, cương trực, suốt đời giữ được tiết tháo và lòng yêu nước: người đó là cụ Trần Văn Hương, hai lần làm đô trưởng Sàigòn, hai lần làm thủ tướng và Phó Tổng Thống, và cuối cùng là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ được 3 ngày... Cụ Hương mất đi không một lời cáo phó. Cụ mất, nhưng gương hi sinh và thái độ sống của người quân tử mà cụ nêu gương không bao giờ mất. Tuy là người đồng hương, vì nhà tôi ở chỉ cách nhà người chị ruột của cụ Trần Văn Hương chừng 300 mét, trên đường Văn Thánh (tức Văn Thánh miếu thờ Đức Khổng Tử và cụ Phan Thanh Giản) tại Vĩnh Long. Là thế hệ sau, thuộc hàng con cháu, nên tôi không được quen biết với cụ. Tháng Hai năm 1975, tôi là thành viên của một phái đoàn vận động thành lập Viện Đại học Long Hồ cho 3 tỉnh Vĩnh Long Kiến Phong và Vĩnh Bình, có đến tư thất của cụ ở đường Phan Thanh Giản Sàigòn, để yết kiến và xin cụ giúp đỡ. Tháng 3 năm 1975, cụ với tư cách là Phó Tổng Thống, có đến tại hội trường thuộc trường Sư Phạm (cao đẳng) Vĩnh Long, để chứng kiến lễ chấp nhận thành lập Viện Đại Học Long Hồ, do Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh ký trước mặt cụ. Mặc dầu rất nhiều lần giữ những địa vị cao trong chính trường miền Nam, nhưng cụ Trần Văn Hương là một người có đời sống giản dị, mẫu mực, thanh liêm không bất cứ một ai có thể mua chuộc được. Khi thôi việc, cụ Hương sống cuộc đời chật vật nhưng vẫn giữ được tư cách.

Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu, nay thuộc quận Châu Thành Vĩnh Long, trong một gia đình nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia đình, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư Phạm... Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Le Myrle de Vilers Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà ông đã theo học mấy năm trước. Thời gian từ năm 1943 - 1945, ông Hương là giáo sư dạy môn văn chương và luân lý tại trường nầy. Sau đó ông Hương được đổi lên làm Đốc học tỉnh Tây Ninh.

Năm 1945, Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền khắp 3 kỳ, nhóm Việt Minh mới của Trần Văn Giàu (chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam bộ) cử cụ làm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với Việt Minh được mấy tháng, thấy họ không thành thật, và theo con đường bá đạo, nên ông Hương từ chức. Tuy vậy cụ vẫn còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Khi thấy bộ mặt thật của Việt Minh là CS, tìm cách khủng bố, ám sát thủ tiêu những người yêu nước có tinh thần quốc gia, cụ bỏ về thành. Ban đầu cụ bán thuốc tây cho nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan (Pharmacy Kim Quan) ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành bây giờ).

Theo tài liệu của tình báo Mỹ, ông Hương có hai người con: Trần Văn Dinh và Trần Văn Doi (Giỏi?). Hồi còn theo học trường "College de Can Tho", kháng chiến nổi lên, Doi bỏ học theo kháng chiến. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua Pháp cùng một lúc với hội nghị Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Doi theo xuống tàu ra Bắc. Từ đó hai cha con không bao giờ gặp nhau nữa. Theo ông Huỳnh Văn Lang, cựu Tổng giám đốc Viện Hối Đoái dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho biết "Ông Trần Văn Giỏi (không phải Dõi) ở tại Sàigòn, bên cạnh ông Hương như một người cố vấn, như vậy ông Giỏi không tập kết ra Bắc. Không rõ chi tiết naò đúng?

Năm 1964, ông Hương làm Thủ tướng chính phủ, tình báo Mỹ có đem lại một hồ sơ cho biết cụ có người con theo CS. Cụ Hương thẳng thắn nhìn nhận và cho biết từ đó cho đến nay, cụ không còn liên lạc gì với người con đó hết. Khi cụ tham chính, thì nguòi con lớn là Trần Văn Dinh ở kế cận đóng vai người cố vấn thân tín.

Tháng 7 - 1967, ông cùng với ông Mai Thọ Truyền, ra ứng cử chức Tổng Thống chỉ được 10% số phiếu, về hạng tư. Tháng 5 - 1966, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mời làm Thủ Tướng, thay thế Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc. Trong nhiệm kỳ Tổng Thống 1971 - 75, ông Trần Văn Hương làm phó tổng thống, và khi ông Thiệu từ chức tổng thống giữa lúc tình thế đất nước lâm nguy,ông Hương được đôn lên làm tổng thống đúng theo hiếp pháp.

Các chi tiết về cuộc đời của cụ Trần Văn Hương trong những ngày tháng cuối cùng, được bà Phan Cẩm Anh cùng chồng là bác sĩ, người có dịp gần gũi với cụ Hương kể lại. Tôi được phép chỉ để trích một phần lớn trong bài ấy: "Hương trà năm cũ" trong bài viết để đồng bào, đồng hương có dịp biết thêm về nhiều chi tiết cảm động của một kẻ sĩ thế hệ cũ còn sốt lại. Kính xin anh chị Phan Cẩm Anh thể nhận nơi đây lòng biết ơn của tác giả.

"... Nhiều năm trước, khi tôi học trung học, một buổi tối sau khi dùng cơm, chị tôi dẫn tôi đến phủ "cây tùng" để thăm Mai Hương, một người bạn cùng "khóa I Nữ quân nhân" của chị, bây giờ vừa lập gia đình với đại úy Phan Hữu Chương, cháu ruột cụ Trần Văn Hương. Ba chị em đứng trò chuyện dưới táng cây của phủ phó tổng thống. Thình lình, cụ Hương từ trong nhà bước ra, nhìn về phía chúng tôi, gật đầu, rồi đưa tay ra hiệu bảo Mai Hương theo cụ vào trong phủ. Khi trở ra, Mai Hương lè lưỡi nói với chị tôi:

- Ông cụ vừa mới la.

- La về chuyện gì vậy?

- Ông cụ nói: "Sao không mời bạn bè vào phòng khách nói chuyện đàng hoàng mà để bạn đứng dưới gốc cây ... ông cụ nói tiếp: "Tiếp bạn đến chơi như vậy là không trọng bạn chút nào hết."

Đó lần đầu tiên tôi thấy cụ Hương, nhưng nghe thuật lại những lời cụ trách, lòng tôi tự nhiên nhen nhúm một cảm tình đầy quý trọng. Sau đó, tôi có dịp trở lại phủ phó tổng thống vài lần lúc Mai Hương sắp vào nhà bảo sanh. Vì lẽ phu quân Mai Hương bận công vụ, nên Mai Hương cho tài xế đến nhờ tôi và em gái tôi giúp đưa Mai Hương vô bịnh viện. Tất cả những lần đó, tôi chẳng có dịp nào giáp mặt cụ Hương.

Thời gian trôi qua, miền Nam sụp đổ, Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng. Ngay buổi sáng sớm ngày đầu mất nước, tại ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất trong ngõ hẻm ngăn đường Phan Thanh Giản, thân nhân sống trong biệt thự này đã đau đớn đem đặt giữa nhà hai xác người cùng nhau tìm cái chết. Họ vừa chia nhau ống thuốc ngủ đêm qua. Đó là đại úy Phan Hữu Chương và vợ là cựu trung úy Trần Mai Hương. Họ để lại vỏn vẹn vài lời trăng trối "xin nhờ lòng tha thứ của cụ Hương và gia đình vì không thể sống khi đất nước rơi vào tay kẻ thù... Đôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa con trai còn thơ dại, nhờ ông bà nội (em rể cụ Hương) dưỡng nuôi. Cũng trong ngôi biệt thự bao phủ một bầu không khí ảm đạm và im lìm đó, nơi một căn phòng khác trên lầu, cụ Hương đóng cửa, im lặng, trầm mình trong nỗi đau khổ của một người đã từng lãnh đạo đất nước, bây giờ đành tâm chứng kiến giờ phút suy vong, cảnh nhà tang chế. Nỗi đau khổ của cụ ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được cụ hé môi thổ lộ.

Nhưng ý định cùng chồng đi tìm cái chết của Mai Hương, không được toại nguyện bởi lẽ một người cháu đem Mai Hương đi cấp cứu. Sự sống của Mai Hương đã được các bác sĩ giành giựt lại từ đường tơ kẻ tóc. Nhờ đó Mai Hương trở thành một chiếc cầu để tôi có cơ hội biết thêm chút ít về cụ Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng của cụ.

Nhiều lần Mai Hương dẫn tôi về lại ngôi biệt thự trên để thăm các con của Mai Hương, hiện đang sống nương nhờ vào ông bà nội. Tôi đã chứng kiến cảnh sống đạm bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn, túng quẩn của gia đình cụ Hương. Cụ Hương luôn luôn sống lặng lẽ một mình trong căn phòng nhỏ ở trên lầu. Căn phòng bày trí thật sơ sài, chẳng có món đồ nào được coi là sang trọng. Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật còn lại là hai chiếc ghế bành, một cái tủ đựng quần áo đã cũ, một chiếc bàn con trên đó cụ để một tượng Phật Di Lạc. Căn phòng có một cửa ăn thông ra sân thượng. Hầu cận, săn sóc cụ là người em rể của cụ mà tôi gọi theo như Mai Hương là Dượng. Phía dưới lầu là các gian nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo bức tường phía trong của khuôn viên biệt thự, có lẽ trước kia là nhà kho, bây giờ trở thành nơi tá túc qua ngày cho các thân nhân gồm các em và cháu của cụ, vì phải gặp cảnh khó khăn dưới quê, tìm về Sàigòn nương náu trong ngôi biệt thự cũ nát mà tổng thống Thiệu đã cấp từ thời trước.

Ngôi biệt thự nầy, trước khi cấp cho cụ Hương, tổng thống Thiệu đã chỉ thị phải sửa chửa, chỉnh trang lại đàng hoàng, nhưng cụ từ chối viện lẽ cụ già rồi, không làm việc gì ích nước lợi dân được nữa, nên không muốn làm hao tốn công quỹ. Do đó, đến khi CS vào, ngôi biệt thự trên chẳng phải là mồi ngon cho cán bộ của họ tranh nhau giành giật chiếm đoạt như các ngôi biệt thự xinh xắn khác. Tường biệt thự nhiều nơi nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ vở bung lên, màu vôi trải qua nhiều năm tháng vàng ố không được trùng tu, sơn quét. Hình ảnh cụ lúc nầy như một con chim đại bàng sa cơ, gãy cánh mà vẫn cố giương đôi cánh mang thương tích của mình để bảo bọc chim non. Tôi được nghe kể lại cứ mỗi lần người nhà bưng cơm lên lầu cho cụ, phần cơm rất đạm bạc, lâu lâu mới có chút cá thịt, thân nhân muốn nhường cho cụ để bổ dưỡng, cụ hỏi xem mọi người trong nhà có được ăn như cụ vậy không. Mặc dầu người nhà thường trả lời "có" cho cụ an tâm, nhưng cụ vẫn hiểu sự thật của chữ "có", nên thường cụ để dành lại thức ăn ngon trên mâm, hầu đem xuống nhà cho con cháu.

Có những lần tôi theo Mai Hương đến thăm ông bà nội các con Mai Hương, lúc trở về, ra tới cánh cổng, tôi quay đầu nhìn lên sân thượng thấy cụ Hương, ngồi yên lặng trên đó. Mình cụ để trần, mái tóc bạc trắng, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước không hề di động... Tôi thấy cụ Hương ngồi trên sân thượng như vậy nhiều lần, và những lần như vậy, trên đường đạp xe về nhà, hình ảnh già nua, im lặng và cô độc của cụ cứ lẩn quẩn mãi trong đầu óc tôi,

Một hôm, có lẽ cũng vào dịp gần Tết, Mai Hương đưa một củ sâm Đài Loan và nói với tôi:

- Bà nội sắp nhỏ biểu chị đem củ sâm nầy đi bán. Đó là củ sâm người ta tặng cho ông cụ từ lúc ông cụ sang Đài Loan, còn cất giữ mãi đến bây giờ. Ông nói chắc không dùng đến nó, nên sai đem bán lấy tiền đong gạo cho sắp nhỏ".

Mai Hương mở gói giấy bọc củ sâm ra, củ sâm vỏn vẹn bằng hai phần ba bàn tay, nằm giữa mấy lớp giấy gói đã cũ. Nhìn qua, ai cũng biết củ sâm được gói kỹ lưỡng, và bị lãng quên trong một ngăn tủ nào đó lâu lắm rồi, nay mới được nhớ lại... Tôi nhìn củ sâm nghẹn ngào. Một nhà giáo thanh bạch, một người lãnh đạo quốc gia trong sạch như cụ, chỉ lấy đạo đức bản thân làm tài sản. Cụ đâu có nén vàng nào có thể đem bán lấy tiền đong gạo cho đàn cháu, hay giúp đỡ người thân đang tá túc trong nhà, những người đã ít nhiều liên lụy vì các hoạt động chính trị của cụ.

Khoảng hơn một tuần sau, ông nội các cháu, tức em rể cụ Hương, ghé lại nhà Mai Hương và tôi (lúc này Mai Hương và tôi sống chung với nhau trong một căn nhà nhỏ ở quận Tân Bình) kể cho chúng tôi biết là ông vừa làm theo ý cụ Hương: đem mấy bộ đồ veste còn tốt của cụ ra chợ trời bán. Để an ủi người nhà bớt đau lòng, cụ Hương bình thản giải thích:

- Từ đây cũng đâu có dịp nào mặc nó nữa, đem bán đi chớ để làm chi!

Số tiền bán áo trên, chẳng ở trong túi được bao lâu, vì ngay sau đó bà Út đi chợ mua đồ ăn cho sắp nhỏ ... Gia đình cụ Hương đã chịu chung số phận đau khổ và bi đát tột cùng từ tinh thần đến vật chất khi miền Nam rơi vào tay CS. Có một sự kiện làm tôi chảy nước mắt mỗi khi nhớ đến, lòng thêm kính mến và cảm phục cụ Hương: Trước khi chính quyền CS cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội (bịp) đầu tiên, cụ Hương được họ thông báo sẽ có một buổi lễ để chính phủ trả quyền công dân cho cụ. Sau đó, để có buổi lễ được quay phim tuyên truyền, khi một cán bộ thay mặt chính quyền, đọc "chính sách khoan hồng, rộng lượng" của nhà nước đối với những "thành phần" như cụ, cụ dõng dạc nói:

- Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân này. Dù gì tôi cũng là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân trước. Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân này, sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đã được nhận.

Đại diện của chính quyền CS không ngờ sự thể xảy ra như vậy. Tức giận, họ ra lịnh cúp máy thu thanh, thu hình. Vài ngày sau cụ nhận được lịnh quản thúc tại gia 3 năm. Cụ Hương nói với người nhà:

- Bọn nó cũng chẳng cần phải quản thúc tao. Tao già và đau yếu như vầy, có khi nào bước chân ra khỏi nhà đâu mà cần phải quản thúc! Vào năm 80 tuổi, mỗi lần theo Mai Hương ghé vào thăm ông bà nội của các cháu, tôi ít thấy cụ Hương ra ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức khỏe của cụ sa sút nhiều. Một hôm, em rể cụ Hương bảo tôi:

- Ông cụ dạo nầy yếu quá. Ông lại dứt khoát không muốn vô nhà thương khám bịnh hay chữa trị gì cả. Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao rồi. Dượng muốn nhờ Cẩm Anh có quen ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến nhà khám bịnh giùm cho ông cụ. Nếu không thì Dượng chẳng yên tâm.

Nghe ông Dượng nói tôi mới nhớ, cách đó không lâu, cụ Hương bị mệt xỉu phải đưa vô nhà thương cấp cứu. Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định đòi người nhà phải đưa cụ về ngay. Cụ một mực từ chối, không chịu để điều trị trong bịnh viện đã thuộc về tay chính quyền CS.

Mặc dầu có quen biết vài bác sĩ, nhưng tôi nghĩ ngay đến nhà tôi, lúc ấy còn là một người bạn, vì trong hoàn cảnh không biết tương lai ra sao, nên chúng tôi chưa nghĩ đến việc lập gia đình. Tôi nhận lời Dượng, hứa tìm một bác sĩ của "chế độ mình" để nhờ khám bịnh cho cụ. Khi nghe tôi trình bày, nhà tôi chẳng chút ngần ngại, vui vẻ nhận lời ngay. Lần đầu tiên nhà tôi đến, cụ bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nhìn mặt vì mắt cụ đã mờ. Cụ Hương hỏi nhà tôi:

- Con đến đây thăm bịnh cho qua, con có sợ họ làm khó dễ con không?

Nhà tôi trả lời:

- Thưa cụ, cháu chỉ làm bổn phận và công việc của người thầy thuốc, cháu không ngại

Cụ xúc động, ghé người gần lại, đưa tay ôm lấy đầu nhà tôi. Nhà tôi tiếp:

- Thưa cụ, cháu là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh nghiệm và kiến thức hãy còn ít, chữa bịnh cho cụ, nếu có điều gì không biết, cháu sẽ về đọc sách lại.

Cụ Hương vui vẻ, mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay nhà tôi như để trấn an.

Từ đó nhà tôi lui, tới với cụ thường xuyên để thăm bịnh cụ. Dường như việc trị bịnh đối với cụ chẳng có gì quan trọng, cụ không quan tâm lắm, mặc dầu cụ luôn luôn là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng những lời dặn của bác sĩ. Điều làm cho cụ vui và thoải mái hơn có lẽ là có người để cụ nói chuyện. Do đó, nhà tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau khi khám bịnh. Cụ nói thuốc men cụ dùng hàng ngày là do bà Trần Văn Văn và bạn bè ở Pháp gởi về tặng cụ. Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa cho người em rể cụ đem ra chợ trời bán, lấy tiền chia đều cho gia đình con cháu đong gạo. Một hôm cụ kể cho nhà tôi nghe một câu chuyện rất cảm động như sau:

- Con biết không, chú có thằng em đến thăm (cụ xưng chú với nhà tôi, khi biết thân phụ nhà tôi lớn hơn cụ vài tuổi) nó đem đến một hộp sữa bò còn tặng chú 5 đồng (lúc mới đổi tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1 đồng tiền mới). Chú thương nó có tình, nhưng nghĩ nó phải đạp xích lô cực khổ để sinh sống, nên chú không nở lấy. Nhưng nếu chú không nhận thì "sợ nó" buồn tội nghiệp, nên chú chỉ nhận có 5 đồng, còn hộp sữa thì bảo nó đem về cho gia đình (lúc ấy sữa rất khó mua). Người mà cụ kể là "thằng em" một cách thân mật chính là thuộc hạ cũ của cụ.

Cụ Hương còn tâm sự với nhà tôi những chuyện lúc cụ còn trẻ. Có một thời gian cụ cùng với một người con trai (Trần Văn Doi) theo hoạt động cho Việt Minh chống Pháp. Nhưng khi nhận ra bộ mặt thật của Việt Minh, cụ dứt khoát trở về lại trong Nam và mất liên lạc với người con trai từ lúc ấy. Người con trai nầy đã ở lại miền Bắc, và phục vụ trong quân đội CS. Sau khi Sàigòn bị chiếm, anh có về thăm cụ với vợ là một bác sĩ VC. Có lẽ sự lui tới của cặp vợ chồng nầy cũng nhằm mục đích theo dõi cụ.

Cụ Hương cũng có một người con khác đang sinh sống tại California. Anh có một đứa con bị bịnh Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa trị trước năm 1975. Đã bao lần anh muốn bảo lãnh cụ ra nước ngoài, nhưng cụ nói với nhà tôi:

- Trước kia đại sứ Martin năn nỉ, yêu cầu chú đi, chú đã từ chối. Bây giờ đời nào chú lại xin chính quyền CS để được đi.

Những lần đi thăm bịnh sau của nhà tôi, cụ tâm sự nhiều hơn về những vụ buồn trong cuộc đời tham chính của cụ. Cụ luôn nhắc đến tên của những người mà cụ đặc biệt quý mến như bác sĩ Bạch Đình Minh. Cụ ngậm ngùi kể:

- Bác sĩ Minh là một người mà chú rất quý trọng. Hồi trước chú thấy bác sĩ Minh đi khám bịnh mà không có đồng hồ đeo tay. Chú mua tặng cho bác sĩ Minh một cái, nhưng đeo được vài tuần, bác sĩ Minh đem trả lại chú. Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân đội hết lòng tận tụy và giàu tinh thần trách nhiệm, chú đề nghị lên tổng thống Thiệu tưởng thưởng "Bảo quốc huân chương" cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối không nhận viện lẽ ông đang làm việc ở chỗ an toàn, xin dành huy chương ấy cho những người xả thân chiến đấu, hy sinh xương máu cho đất nước. Một lần khác cụ hỏi nhà tôi:

- Con có biết bác sĩ Trần Lữ Y không?

Nhà tôi thưa:

- Bác sĩ Trần Lữ Y dạy con môn Nội Khoa ở trường Y khoa.

Cụ Hương tâm sự:

- Hồi trước bác sĩ Hoa Kỳ sang đây khám bịnh cho chú, họ đề nghị đưa chú sang Hoa Kỳ chữa bịnh. Thằng Trần Lữ Y đi theo chú, xin lỗi con, chú gọi bác sĩ Trần Lữ Y bằng "thằng", vì chú thương nó như con chú vậy. Khi máy bay ghé Manille, suốt mấy hôm chú ăn không nổi đồ ăn của họ, nên bác sĩ Trần Lữ Y phải ra phố kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú nghe có người nói bác sĩ Trần Lữ Y qua đời bên Pháp vì bịnh ung thư, có đúng như vậy không?

Nói tới đây, cụ im lặng hồi lâu như nén sự xúc động. Mấy tuần sau, nhà tôi được tin bác sĩ Trần Lữ Y vẫn còn khỏe mạnh ở bên Pháp và có phòng mạch tư, gần với phòng mạch của bác sĩ Phạm Tu Chính. Nhà tôi vội vàng ghé lại thăm và nói cho cụ Hương biết tin thật về bác sĩ Trần Lữ Y. Nghe xong, cụ Hương nắm lấy tay nhà tôi mà chẳng nói gì. Hai giòng nước mắt từ từ lăn trên má cụ.

Mặc dầu sức khỏe cụ Hương lúc đó đã sa sút nhiều, đi đứng khó khăn, dầu chỉ vài bước cũng cần cây gậy. Bên cạnh giường ngủ có gắn một cái chuông điện, trên bàn luôn có một cái chuông nhỏ để khi cần người nhà, cụ lắc bằng tay. Nhà tôi thán phục cụ có trí nhớ đặc biệt. Cụ có thể nhớ nguyên văn câu nói của từng người, ngày tháng, giờ giấc của sự kiện đã xảy ra. Cụ không quên từng chi tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ với nhà tôi rằng:

- Chú nghĩ người làm chính trị phải có giáo dục và đạo đức. Khi tham chính tất nhiên chú chấp nhận có phe đối lập, nhưng dầu khác lập trường, chú vẫn luôn luôn tôn trọng họ. Có một dân biểu trẻ tên là (xin giấu tên), trong một buổi họp quốc hội, đã đứng lên đập bàn, chỉ vào mặt chú nói những lời vô lễ (xin không ghi lại câu vô lễ nầy)... Vì dân biểu nầy đáng con chú. Chú buồn và tiếc cho người làm dân biểu mà không biết đến chữ "lễ", không tỏ ra có tư cách của người học thức, chớ không buồn về lập trường đối lập của họ.

Một hôm đến thăm cụ, nhà tôi thố lộ với cụ rằng "sớm muộn gì con cũng phải ra đi". Chuyện ra đi không biết khi nào mới thành công, nhưng không bao giờ con bỏ ý định đó. Chẳng phải vì miếng cơm manh áo, hay sự cực khổ mà phải bỏ quê hương. Nhưng vì cuộc sống lúc nào cũng thấy bị đe dọa, thiếu an toàn, ngủ một đêm thức dậy có thể bị bắt vì bất cứ một lý do viển vông nào... Nghe nhà tôi nói, cụ Hương trầm ngâm một hồi lâu mà không nói gì. Mãi một lúc sau, cụ thở dài chép miệng:

- Có lẽ chú làm không đúng khi ra lịnh ngăn người ta ra khỏi nước trong những ngày hỗn loạn.

Lúc nhà tôi từ giã cụ ra về, cụ ôm hôn nhà tôi và nói:

- Chú gặp con muộn quá!

Vào tháng 4 - 1981, tôi đạp xe đưa nhà tôi đi vượt biên lần thứ 13. Trước khi đi, nhà tôi có đến thăm cụ lần cuối. Biết cụ rất buồn, nhưng cụ giấu kín tình cảm để người đi bớt vướng víu. Một tháng sau đó, tôi cũng rời Việt Nam đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình do anh chị tôi bảo lãnh. Một ngày trước khi đi, tôi đạp xe trở lại đường Phan Thanh Giản, đứng một mình bên chiếc cổng sắt. Giữa một niềm vui khi sắp sửa thoát khỏi cảnh đời vô vọng, tăm tối, và một nỗi buồn khi biết rằng mình sẽ mất bao nhiêu gắn bó thân thuộc khi lìa khỏi nơi đây... cụ Hương vẫn là hình ảnh làm cho lòng tôi se thắt, là một cánh sen nổi trên dòng nước đang giao động của tâm hồn tôi...

Dưới đây là hai mẩu chuyện được nhắc lại như một giai thoại. Hồi tháng 4 năm 1954, khi có sự vụ lịnh của thủ tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm cụ Hương làm đô trưởng Sàigòn - Chợlớn, thì cụ đi làm việc hàng ngày bằng chiếc xe đạp Alcyon. Khi vô tòa đô chính nhận việc, người lính gác cổng chận lại và không cho cụ vô. Cụ phải nói thật "Tôi là Đô Trưởng" họ cũng không tin. Cụ phải trình sự vụ lịnh mới được bổ nhiệm, người lính mới hoảng hồn, định chắp tay lạy cụ, nhưng cụ từ tốn, an ủi mấy câu, rồi dẫn xe đạp vô làm việc. Khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bịnh (1964), hàng tháng chính phủ trả phụ cấp thêm 10.000 đồng, nhưng cụ từ chối, gởi trả lại công quỹ, vì cụ nói ..."không có chuyện gì cần phải xài ..."

Nhắc lại về thái độ của cụ Trần Văn Hương trong những ngày đen tối của đất nước chúng tôi thấy có hai sự kiện đáng ghi nhớ:

Cuốn hồi ký "Saigon et moi" của cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Mérillon kể lại: "Mãi tới tối 18 - 4 - 1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới cho ông (Mérillon) hay rằng Hoa Kỳ sẽ buông VN. Đại sứ Martin nói:

- Từ giờ phút này nước Pháp sẽ đảm nhận vai trò tái lập hòa bình cho VN.

Mérillon chuyển lời nói nầy cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Hương nói:

- Ông Đại sứ à! Tui đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn đánh, tui đánh tới cùng. Tui không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước tui, tui xin thề ở lại và mất theo nước này.

Đến ngày mất nước, đại sứ Martin còn đến gặp cụ Hương và nói:

- Ngài đi với tôi sang Mỹ. Chánh phủ Mỹ sẽ nuôi dưỡng Ngài suốt đời, tôi nhân danh chánh phủ Hoa Kỳ đến mời Tổng Thống ra khỏi nước với bất cứ phương tiện nào mà ngài muốn. Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống mãn phần.

Cụ Trần Văn Hương mỉm cười, trả lời (tiếng Pháp):

- Thưa ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến nỗi như vậy, Mỹ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại Sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng CS vào được Saigon, thì bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại chia xẻ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại Sứ đã đến thăm tôi.

Tới đây, tôi lại nhớ đến liêm sỉ và tiết tháo của một người lãnh đạo Cam Bốt, một nước láng giềng mà dân ta thường hay có thái độ coi thường. Đó là ông hoàng Sirik Matak, Phó Thủ Tướng Cam Bốt. Cũng tháng 4 định mệnh ấy (1975) khi quân Khmer đỏ sắp tràn ngập Phnom Penh, Đại Sứ Mỹ tại đây là John Gunther Dean đến mời hoàng thân Sirik Matak lưu vong qua Mỹ. ông Sirik Matak từ chối và trả lời bằng thư sau:

"Thưa Ngài và bạn thân (Excellence et Cher Ami)

"Tôi rất thành thật cám ơn Ngài về cái thơ và đề nghị giúp đỡ của Ngài đưa chúng tôi đến nơi tự do, nhưng tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế.

Về phần Ngài và quốc gia to lớn của Ngài, tôi không có một lúc nào không tưởng rằng Ngài sẽ bỏ rơi một dân tộc đã chọn tự do. Quý Ngài đã từ chối bảo vệ chúng tôi, chúng tôi không làm sao được. Ngài ra đi và tôi chúc cho Ngài và quốc gia của Ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu trời của quý ngài.

Nếu tôi chết ở đây trong nước tôi mà tôi yêu, thì thôi mặc, bởi vì tất cả chúng ta đã được sanh ra để rồi một ngày nào đó thì chết. Tôi chỉ có làm một lỗi lầm là đã tin nơi Ngài và tin nơi những người Hoa Kỳ.

Xin Ngài và bạn thân, nhận nơi đây những cảm tình trung thực và thân ái của tôi.

Sirik Matak, »

Theo lời người dịch, thư này sau mấy năm, có lần được đọc trong một phiên họp Quốc hội Hoa Kỳ, và được lưu giữ trong văn khố Quốc Hội. (Trích bài viết của BS Nguyễn Lưu Viên, tập san Y Tế số III, tháng 3 năm 1998).

Hứa Hoành
oOo
    Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không chịu di tản
Trần Đông Phong

Trong ngày 29 tháng 4, dù rất bận rộn trong việc di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người tị nạn VN, Đại sứ Martin cũng đã tìm cách đến gặp cụ Trần Văn Hương, cựu Tổng Thống VNCH tại phủ Phó Tổng Thống trên đường Công Lý lần chót.

Theo GS Nguyễn ngọc An, bạn thâm giao của cụ Hương thì cuộc gặp gỡ nầy đã diễn ra như sau :

« Cũng ngày đó, 29 tháng 4 năm 1975, đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái đại sứ nói :

« Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT trăm tuổi già»

Tổng Thống Trần Văn Hương mĩm cười trả lời :

«Thưa Ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi.»

Khi nghe câu «Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilité s (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giựt mình nhìn trân trân ông Trần Văn Hương. Năm 1980, ông Hương thuật lại với tôi: Dứt câu chuyện, on se sépare sans même se serrer la main» (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày)

Cựu đại úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của phó Tổng Thống Trần Văn Hương cho người viết biết vào những ngày tháng cuối cùng trong tháng 4 ,1975, cụ Trần Văn Hương đã nói với anh em phục vụ tại phủ Phó Tổng Thống rằng: «Thấy các em còn trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ vì chiến tranh, qua rất thương, nhưng số phận của đất nước mình là như vậy, mình phải đánh cho tới cùng »

Sau khi bàn giao chức vụ TT cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng tư, cụ Trần Văn Hương đã dọn ngay về tư gia ở trong hẻm đường Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sáng hôm sau, ngày 29 tháng tư, cụ phải trở lại dinh Phó Tổng Thống ở đường Công Lý một lần cuối để tiếp kiến đại sứ Martin khi Martin đên từ giã cụ.

Trong một cuộc tiếp xúc với BS Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ Tướng VNCH, tại Westminster vào cuối 2ợ, BSViên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và bà Trần Văn Văn có đến thăm cụ Trần Văn Hương một lần cuối và cụ Hương đã nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn, nhưng ông đã từ chối lời mời của họ.

Vào năm 1978, khi Việt Cộng trả lại «quyền công dân cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù học tập cải tạo đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu «Tổng Thống» Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu Quốc Hội «đảng cử dân bầu » của Cộng Sản.

Cụ Trần Văn Hương cũng được CS trả lại quyền công dân, nhưng cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương đã gởi bức thư sau đây đến cấp lãnh đạo chính quyền CS :

«… Hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ tướng đến Tổng bộ trưởng,các tướng lãnh, quân nhân công chức các cấp, các chính trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về.

Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ VNCH, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chánh phủ mới thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chánh phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước.

Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi »

Cụ Trần Văn Hương không hề nhận quyền công dân của Cộng Sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981 thì cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa.

(Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng.-- California : Nam Việt, 2006, tr. 352-355)
oOo
    Tổng Thống TRẦN VĂN HƯƠNG - Người kẻ sĩ thời đại
Bỉnh Bút Độc Lập Phạm Lễ

Tình cảm đầy lễ giáo tạo nên đạo đức của người kẻ sĩ thời đại là Cụ Trần văn Hương Tổng Thống dân cử thứ ba của thể chế Việt nam Cộng Hòa làm cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của một Chu Văn An, bậc đại sĩ thời nhà Trần cách nay đã 700 năm là một biểu hiện của nhà nho, kẻ sĩ yêu nước, người đã vạch ra đường lối giáo dục để đào tạo cho đất nước nhiều nhân tài lỗi lạc. Qua hình ảnh và đưòng lối của Kẻ Sĩ Chu Văn An làm hình ảnh tôn sư trọng đạo,thương nước yêu nòi… Thời của những kẻ sĩ đã lấy nhân đức để trị vì thiên hạ với ý niệm “Dân Vi Qúy”, thời điểm đó đã xuất hiện không biết bao nhiêu nhân tài cho đất nước.

Rồi bước sang hậu bán thế kỷ thứ 19 chúng ta có kẻ sĩ tiết tháo Phan Thanh Giản đã sống vì dân, chết vì nước luôn coi sinh mệnh của toàn dân, an ninh bờ cõi của đất nước mới là quan trọng, coi cái chết của bản thân nhẹ tựa lông hồng… Tiến sĩ Phan Thanh Giảng là một sự phản chiếu từ hình ảnh của Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ với phương tram “Thắng không Vinh, thua không nhục”. Nhưng cũng trong miền đất ruộng đồng thẳng cánh cò bay, nơi có chín con rồng biểu tượng sự linh thiêng cho nòi giống Lạc Hồng , dọc theo bờ biển trù phú của đất nước Việt Nam. Ở thời điểm cuối thế kỷ thứ 20 chúng ta lại may mắn có một kẻ sĩ thời đại đầy tiết tháo, đầy sĩ khí và đức độ, bao dung sống cho dân, chết vì nước.

Đó là vị Tổng Thống dân cử thứ ba của Việt nam Cộng Hoà:

Cụ Tổng Thống TRẦN VĂN HƯƠNG – mà chúng tôi xin được mạn phép gọi Cụ là

“Người kẻ sĩ thời đại”.

* Trước đó, tối ngày 18.4.1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin đã thông báo với đại sứ Pháp Mérillon rằng Hoa Kỳ sẽ buông Việt Nam. Ông đại sứ Mérillon đã chuyển lời nói này cho Phó Tổng Tổng Thống Trần Văn Hương. Cụ đã trả lời:

- Ông đại sứ à, tôi đâu có ngán Việt cộng. Chúng nó muốn đánh, tôi đánh tới cùng. Tôi không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước tôi, tôi xin thề ở lại và mất theo nước này.

* Cuộc điện đàm sau cùng của Tổng thống Trần Văn Hương và Đại Sứ Martin của Hoa Kỳ. Trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản. Đại Sứ Martin của Hoa Kỳ đã chính thức gập Tổng Thống Trần Văn Hương và nói với ông Cụ :

« Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT trăm tuổi già»

Tổng Thống Trần Văn Hương mĩm cười trả lời:

«Thưa Ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi.»

Trong phần mở đầu của bài diễn văn, Tổng Thống thứ ba của Việt Nam Cộng Hòa đọc trước quốc hội lưỡng viện vào sáng ngày 26 tháng 4 năm 1975(Tức là chỉ có 4 ngày trước khi Việt nam Cộng Hòa bị rơi vào tay cộng sản bắc việt.)

Tổng Thống Trần Văn Hương đã nhìn thấy những hiểm hoạ đang ụp xuống lên hơn 30 triệu đồng bào của Cụ sau 21 năm hy sinh chiến đấu dũng cảm của Quân- Dân- Cán- Chính để bảo vệ bốn chữ Việt Nam Cộng Hòa, ngõ hầu mang lại Tự Do – No Ấm cho toàn dân miền nam,với lời nói thật chân tình đầy quả cảm tự đáy lòng của một người lãnh đạo cả đời dấn thân hy sinh cho đại cuộc :

“Tôi nhiệm chức hôm nay đã được năm ngày. Nói rằng ở đây để đọc một cái thông điệp, tôi không có cái táo bạo như vậy, bởi vì tình thế nghiêm trọng của đất nước. Vả lại như quý vị đã biết, tôi không quen nói những lời văn hoa mà không có ý nghĩa, cho nên tôi xin thưa trước quý vị đây không phải là một thông điệp. Đây chẳng qua là lời thành khẩn, thật tình của một người vì nước, đến trình bày mọi việc để quý vị rõ và quyết đoán.

Thưa quý vị, tình trạng đất nước khó khăn như thế nào, có lẽ quý vị đã biết rõ rồi. Tổng thống trao quyền lại cho tôi chẳng những là khó khăn, mà còn rất là bi đát. Bởi vì như quý vị đã biết, trong bốn vùng của chúng ta, hiện giờ chúng ta đã mất hơn hai vùng rồi, còn lại vùng III và vùng IV thì đã sứt mẻ, và sứt mẻ này có thể một ngày một lan rộng, và tình trạng khốn khổ, đau thương chẳng những là của toàn xứ mà của cả Sài Gòn và Chợ Lớn này trong những ngày gần đây.”

Chính vì Tổng Thống Trần Văn Hương là người xuất thân từ giới bình dân nghèo trước khi trở thành người trí thức tiêu biểu của miền nam Việt Nam, với một ý chí cao cả, một trái tim nồng nàn yêu nước thương dân, một lý tưởng quốc gia chân chính, người kẻ sĩ “MỘC MẠC ĐẦY CHÂN TÌNH VỚI ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC” như ông. Nên Cụ đã chấp nhận định mệnh của chính mình.

Đức tính lãnh đạo ấy của Tổng Thống Trần Văn Hương đã trở thành một biểu tượng “TRONG GIỚI SĨ PHU THỜI ĐẠI”đầy hào khí, đó là niềm kiêu hãnh của cả dân tộc trong công cuộc chiến đấu một mất một còn chống lại đại khối cộng sản quốc tế. Nhiều chính khách, ký giả, nhà báo, giáo chức, cấp chỉ huy Quân Đội sinh trưởng tại miền đồng bằng nam bộ... rất tự hào khi nhận mình là học trò của cụ, và đều kính cẩn thưa với vị thày khả kính hằng dạy dỗ văn hóa và đạo đức cho mình bằng tiếng “THẦY” rất trân trọng.. Những người không phải là học trò của Tổng Thống Trần Văn Hương khi trước thì thưa với tổng thống là “CỤ”, để tỏ lòng cung kính nhà lãnh đạo tài đức song toàn của quốc gia.

Trong bối cảnh đất nước ly loạn dầu sôi lửa bỏng nghiêng ngửa, giữa cơn hoạn nạn đày phong ba bão táp như vậy, giặc cộng đã và đang bao vây trùng điệp bên ngoài Thủ Đô Sài Gòn, ngày 21 tháng 4 năm 1975 Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đã nhận trách nhiệm của một vị “ Tổng Tư Lệnh” TRONG THỜI CHIẾN từ tay người Tổng Thống tiền nhiệm Nguyễn Văn Thiệu một di sản quá nặng nề với tình trạng quân lực và tinh thần của quân dân đầy tơi tả sau khi rút từ vùng I và vùng II về cố thủ sau vĩ tuyến 13 từ Phan Rang trở vào đến mũi Cà Mâu..

Ở tuổi 71, sức khỏe suy kém, đôi chân phải nhờ đến chiếc gậy chống, vị Tổng Thống thứ ba của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hùng hồn và dứt khoát khẳng định cùng với quân dân Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu. Ngày 22.4.1975, trong cương vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng Thống Trần Văn Hương đã ký ngay một nghị định tăng lương thêm 10,000 đồng phụ cấp cho tất cả quân nhân tác chiến để xác định rõ tấm lòng thương mến của cụ dành cho người quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để nâng cao tinh thần chiến đấu của Quân Đội, sẵn sàng quyết chiến với giặc trong cuộc tử sinh cuối cùng.

Đồng thời Tổng Thống Trần văn Hương cũng ra lệnh tức khắc ngừng việc cấp giấy xuất ngoại cho bất cứ công dân Việt Nam Cộng Hòa nào được ra khỏi nước trong giờ phút thập tử nhất sinh, nếu không có sự chuẩn thuận của Tổng Thống.

Không vì bất cứ lý do gì trong lúc những người chiến sĩ đang ngày đêm gian nan hy sinh sẵn sang đổ máu ngoài tiền tuyến để ngăn chống giặc cộng đang tấn công vũ bão khắp các chiến tuyến, mà cụ lại có thể ban “đặc ân” cho một số người chạy trốn cuộc chiến để được vinh thân phì da một cách hèn mạt như vậy!!!

- Đích thân Tổng Thống Hương duyệt xét từng hồ sơ xuất ngoại một, để bảo đảm rằng không có sự lo lót hối lộ trong đó (?)

Mặt khác , trên cương vị Tổng Tư Lệnh Tổng Thống Trần Văn Hương ngợi khen chiến thắng của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Ngày 25.4.1975, Tổng Thống Hương đã dùng trực thăng đến Căn Cứ Long Bình vinh thăng Thiếu Tướng tại mặt trận cho Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, cũng như ân thưởng cấp bậc và huy chương cho tất cả chiến sĩ có công trong việc ngăn chặn địch quân. Trước đó vài ngày, Cụ cũng đã bay xuống Thủ Thừa để tuyên dương công trạng của Trung Đoàn 12, thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh và đặc cách thăng cấp Đại Tá tại mặt trận cho Trung Tá Đặng Phương Thành, Trung Đoàn Trưởng.. Không chỉ chăm lo việc binh bị và đời sống của chiến sĩ, Tổng Thống Trần Văn Hương còn góp tay vào tất cả mọi lãnh vực xã hội khác trong quyền hạn của mình … Cụ Tổng Thống Trần Văn Hương là một chiến sĩ quốc gia chân chính, là một kẻ sĩ đạo đức thiết thực dầy lòng nhân ái, thanh liêm và nghiêm minh trong vai trò Chủ Tịch Ủy ban Bài Trừ Tham Nhũng, cụ đã chọn Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu một vị tướng nổi tiếng là thanh liêm trong vai trò phụ tá để bảo đảm trong công việc trong sách hoá guồng máy chính quyền.

Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long Châu thuộc quận châu thành Vĩnh Long trong một gia đình thanh bạch, thuở nhỏ rất thông minh và hiếu học, nên song thân đã tằn tiện chắt mót hy sinh cho người con để có thể gửi cụ ra tận Hà Nội học Trường Cao Đẳng Sư Phạm. Chúng ta phải hiểu rằng, thời Pháp thuộc, một học sinh lấy được bằng Cao Đẳng Tiểu Học đã quá khó khăn, rồi phải vất vả đến như thế nào để đậu được bằng Thành Chung (Diplome), tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhất cấp sau này. Người Pháp chủ trương hạn chế trí thức Việt Nam, và mở mang dân trí thuộc địa một cách nhỏ giọt, nên những học sinh phải thật xuất sắc mới có thể đậu được bằng Tú Tài II (Baccalaureat) . Để được nhận vào Trường Đại Học Y Khoa hay Cao Đẳng Sư Phạm thời thập niên 30-40 là một con đường dốc thẳng đứng không biết bao nhiêu gian nanmới có thể đạt được ước nguyện. Sau khi tốt nghiệp Cao Đảng Sư Phạm tại Hà Nội, người giáo sư trẻ Trần Văn Hươngthời đó được bổ nhiệm về dạy Trường Le Myrle de Vilers ở Mỹ Tho. Người thầy giáo bồi hồi trong niềm hãnh diện và sung sướng khi được trở về đứng trên bục giảng ngay tại ngôi trường xưa mà ông đã theo học từ những năm trước để có thể dìu dắt các thế hệ đàn em có thể tiến bước theo ông. Trong những năm 1943 – 1945, giáo sư Trần Văn Hương dạy môn văn chương và luân lý. Vài năm sau ông được đổi lên làm Đốc Học tỉnh Tây Ninh, một chức vụ đầu tỉnh về ngành giáo dục.

Dù có được đào tạo trong môi trường giáo dục của chính quyền bảo hộ Pháp, là một giáo sư trong môi trường có quá nhiều cạm bẫy ân sủng do người Pháp đưa ra. Nếu cứ chiụ khuất phục giống như nhiều người để con đường hoạn lộ được thong dong thì chắc chắn sẽ không có danh thơm là một kẻ sĩ uy vũ bất năng khuất Trần văn Hương sau này. Mùa thu năm 1945, Việt Minh, tổ chức cộng sản trá hình của cộng sản Việt Nam đã nổi dậy cướp chính quyền khắp ba miền bắc-trung-nam của Việt Nam. Trần Văn Giàu, một Xứ Ủy cộng sản tại miền Nam trong vai trò Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, đã tiếp xúc và xin cử giáo sư Trần Văn Hương làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Kháng tỉnh Tây Ninh, một chức vụ tương đương với Tỉnh Trưởng sau này. Nhưng làm việc với Việt Minh không được mấy tháng, giáo sư Trần Văn Hương đã nhận thấy ngay bộ mặt thật của cộng sản được che bởi chiếc mặt nạ kháng chiến. Vì thấy cộng sản chủ trương khủng bố, ám sát và thủ tiêu những người yêu nước có tinh thần quốc gia, giáo sư Trần Văn Hương xin từ chức, và tìm cách bỏ về thành phố chọn cho mình một con đường kháng chiến khác. Ban đầu ông giữ một chân bán thuốc Tây cho nhà thuốc của dược sĩ Trần Kim Quan ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành.

Sau khi Tổng Thống Ngô Đì nh Diệm đã bị nhóm quân phiệt hạ sát chết ngày 2.11.1963, thời gian kế tiếp là một loạt biến động và hỗn loạn trong chính trường Việt Nam Cộng Hòa, Quốc Sách Ấp Chiến Lược do ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu khởi xướng đã bị nhóm quân nhân đảo chánh dẹp bỏ, Hà Nội nhân cơ hội đó cho tăng cường xâm nhập bộ đội lên đến hàng trăm ngàn người, đồng thời đẩy mạnh kế hoạch phá hoại chính trị Miền Nam. Tháng 11.1964, chính phủ dân sự của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu đã mời cựu giáo sư Trần Văn Hương lập nội các, sau khi được Hội Đồng Tướng Lãnh trao trách nhiệm lèo lái quốc gia lại cho giới dân sự .Thủ Tướng Trần Văn Hương với chính sách không nhân nhượng những yêu sách vô lý của Phật giáo mà ông biết rõ đã có sự nhúng tay của các phần tử cộng sản trà trộn, đã vấp phải sự chống đối của nhiều tăng ni. Chính quyền của Thủ Tướng Hương đã rất kiên nhẫn chịu đựng những công kích các kẻ hở của thời kỳ chuyển tiếp đầy u ám từ phía đối lập và Phật giáo, để dồn nỗ lực đối phó với cuộc xâm lược trước mắt của cộng sản. Thủ Tướng Hương chủ trương tôn giáo không dính líu đến chính trị nên đã cương quyết không đáp ứng thỏa đáng những đòi hỏi có tính cách chính trị của nhóm Phật giáo.

Nhiều người đã không nhận ra rằng những việc cấp thiết nhất phải là cùng góp tay ngăn chống làn sóng cộng sản trước đã. Những tay tình báo chiến lược cộng sản giả dạng nhà tu đã khai thác, kích động tăng ni xuống đường chống phá chính quyền quốc gia. Đương đầu với giặc ngoài chiến trường không khó, nhưng khó là ở chỗ đề phòng những cú đâm lén từ phía sau lưng. Dưới áp lực đó, nên đến ngày 28.01.1965 Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu đành phải thay thế ông Trần Văn Hương bằng bác sĩ Phan Huy Quát.

“Thủ Tướng Phan Huy Quát không xa lạ gì với ông Trần Văn Hương, vì cả hai vị đều là những nhân sĩ đồng chí trong nhóm Caravelle năm 1960, còn được gọi là nhóm Tự Do Tiến Bộ. Năm 1960, nền Đệ Nhất Cộng Hòa và Tổng Thống Ngô Đình Diệm gặp nhiều khó khăn trong việc ổn định tình hình chính trị, khi dân chúng bắt đầu ta thán những sự lạm quyền quá đáng từ những anh em của ông. Tình trạng này ít nhiều đã khơi thêm hố ngăn cách giữa dân chúng và chính quyền, mà chỉ có lợi cho cộng sản Hà Nội. Chiến tranh du kích do cộng sản phát động đã ngày càng lan rộng, cán bộ cộng sản luôn tìm dịp móc nối và thuyết phục những nhóm chống đối chính quyền. Băn khoăn trước tình thế nguy hiểm đó, một nhóm trí thức, nhân sĩ quốc gia đã họp lại với nhau tìm một phương cách mềm dẽo và hợp lý khả dĩ thuyết phục được chính quyền lắng nghe nguyện vọng từ phía đối lập, trong đó gồm những chính khách nặng lòng với đất nước như : Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Ngọc An, Trần Văn Tuyên, Lê Ngọc Chấn, Trần Văn Văn, Huỳnh Kim Hữu, Phan Văn Lý, Nguyễn Tiến Hỉ, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, linh mục Hồ Văn Vui. Đặc biệt hơn cả là sự tham gia của ông Trần Văn Đỗ, chú ruột của bà Trần Lệ Xuân phu nhân cố vấn Ngô Đình Nhu. Ngày 26.4.1960, tất cả là 19 vị nhân sĩ đối lập của nhóm “Tự Do Tiến Bộ” đã họp tại nhà hàng Caravelle, nên còn được gọi là Nhóm Caravelle. Một bức thư tâm huyết được soạn thảo và gửi cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Những thuật ngữ gửi cho vị nguyên thủ quốc gia đã được cẩn thận viết với lối văn hòa nhã, cung kính và lễ độ, đưa ra những nhận xét về tình hình đất nước và đề nghị chính phủ một số biện pháp để cải thiện tình hình, mở rộng nền tự do dân chủ. Một khi người dân được hưởng những quyền lợi đó, họ sẽ nỗ lực để bảo vệ chính phủ Miền Nam chống lại chế độ độc tài Miền Bắc. Chính là nhân dân sẽ tranh đấu bảo vệ một chính phủ dân chủ và cho những quyền lợi tự do thực sự của họ. Thật đáng tiếc, bức thư được gửi đi đã không được trả lời. Vài ngày sau có lệnh bắt giam 19 nhân sĩ Caravelle, một số trốn thoát, nhưng nhà giáo Trần Văn Hương, cựu Đô Trưởng Sài Gòn thời Thủ Tướng Diệm năm 1954, thì bị bắt và tống giam, trong đó có ông Trần Văn Đỗ cũng bị nhốt vào Trại Võ Tánh. Tập thơ “Lao Trung Lãnh Vận” nổi tiếng của nhà giáo Trần Văn Hương đã hình thành trong thời gian này. Mãi đến tháng 7.1963, Tòa Án Quân Sự Sài Gòn đã tuyên bố tha bỗng cho tất cả người tham dự nhóm Tự Do Tiến Bộ. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy sự chuyển mình và nhượng bộ của chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Cụ Trần Văn Hương trở lại tham chính lần nữa trong chức vụ Thủ Tướng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, khi cụ được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mời lập nội các, đó là chưa kể cụ đã hai lần làm Đô Trưởng Sài Gòn. Thủ Tướng Hương làm việc từ 28.5.1968 đến 1.9.1969 thì nhường văn phòng lại cho Đại Tướng Trần Thiện Khiêm. Mặt khác Cụ Trần văn Hương với tư cách Thượng Nghị Sĩ, với cái dũng khí của một kẻ sĩ và dòng máu kiên cường uy vũ bất năng khuất của dân tộc Việt Nam đã đứng ra tổ chức một cuộc họp báo có đông đủ ký giả trong và ngoài nước chỉ trích MACV đã không hành xử đầy đủ cam kết của mình thậm chí đã làm rúng động đến tận Hoa Thịnh Đốn bằng cuộc họp báo Lam Sơn 719 Hạ Lào của Cụ.Quan tâm theo dõi tình hình tiến quân và những tổn thất của đại quân Việt Nam Cộng Hòa trên đất Hạ Lào từ những ngày đầu tháng 2.1971, Cụ đã rất đau lòng đọc những báo cáo bất lợi dồn dập gửi về Sài Gòn cho biết Không Lực Hoa Kỳ nại cớ thời tiết xấu đã không yểm trợ đầy đủ hỏa lực theo đúng kế hoạch hành quân mà đã do chính MACV (Military Assistance Command, Vietnam : Bộ tư Lệnh quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam) dành quyền soạn thảo. Những phi công gan dạ thuộc Không Quân Việt Nam vì tình chiến hữu, quá xót xa đã cất cánh xuất kích, bất chấp nhiều tổn thất. Con số chiến thương và tử trận của quân ta càng lên cao mà thiếu phương tiện yểm trợ và tải thương,

Đứng trước một sự thật như thế, MACV đành phải ra lệnh cho Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ đáp ứng yểm trợ hỏa lực tích cực hơn nữa. Cũng nhân câu chuyện này, xin được dành vài hàng vinh danh các phi công Hoa Kỳ đã anh dũng hy sinh hay bị thương trên chiến trường Hạ Lào để yểm trợ cho những người bạn huynh đệ chi binh Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi cuộc hành quân Lam sơn 719 kết thúc, số lượng trực thăng khả dụng của sư Đoàn 101Không Kỵ Hoa Kỳ bị hao hụt 92 chiếc, 102 nhân viên phi hành tử trận, 215 chiến thương và 53 mất tích. Nhờ có sự can thiệp của Nghị Sĩ Hương và lệnh phi yểm của MACV nên quân ta đã rút về được Việt Nam cuối tháng 3.1971 với những tổn thất nhẹ. Sư Đoàn Nhảy Dù đã trao tặng Nghị Sĩ Trầ n Văn Hương danh hiệu “HẠ SĨ DANH DỰ”, Cụ rất vinh dự nhận danh hiệu lính Mũ Đỏ này. Đối với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và dân chúng, thì Cụ Trần Văn Hương còn có một mỹ danh khác thân thiết hơn: “Ông Già Gân”.(1)(Trích quan điểm của bài viết về Tổng Thống Trần văn Hương đã được phổ biến trên diễn đàn)

Nơi đây chúng tôi xin mượn những vần thơ với tựa đề nếu của Tô Vũ để nói lên những nỗi niềm ona khiên trước thời cuộc trong dai đoạn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh của những ngày cuối cùng trước khi nước Việt Nam Cộng Hòa bị rơi vào tay cộng sản.
    NẾU

    Nếu giữ được tinh thần sáng suốt ,
    Giữa những người hoảng hốt ghét con.
    Nếu giữ được lòng son bền vững,
    Mặc những người nghi hoặc lòng con.

    Nếu chờ đợi lâu dài không nhụt chí
    Dù miệng đời ác độc, cũng không sờn.
    Nếu bị đời ghen ghét, chẳng thiệt hơn
    Chẳng khoe mẻ, khoe khôn khoe khéo

    Cứ mơ ước, đừng để Giấc Mơ níu kéo
    Cứ xét suy, đừng viễn vọng tư duy
    Khi thành công, khi thất bại suy vi
    Coi May Rủi là lẽ thường trong sự sống.

    Lời thành thực con ngỏ cùng công chúng
    Đứa xấu xa xuyên tạc để gạt người.
    Nếu sản nghiệp một thời con xây dựng,

    Bỗng vỡ tan,

    Chẳng than van, con tái tạo cuộc đời.
    Đặt tất cả cơ đồ sự nghiệp
    Hy sinh vào thực hiện mục tiêu.
    Gặp lúc thắng, hân hoan bày trận khác

    Khi bị thua, nuốt hận ván cờ thua.
    Nếu có dịp được gần nơi vua chúa,
    Con chớ quên xuất xứ tầm thường.
    Nếu có dịp ngỏ lời cùng đại chúng,

    Chẳng nên quên đức tính khiêm nhường.
    Và hơn nữa, hơn cả bạc tiền danh vọng
    Hơn mọi điều quan trọng thế gian
    Hơn Rủi May, phú quý giàu sang

    Nếu con giữ dược tinh thần toàn mỹ
    Nếu con giữ được can trường bền bỉ
    Trái với phường ích kỷ tiểu nhân

    Thì con ơi !

    Con đã trở nên ‘Người’,
    Trở nên người ‘Thành nhân chi mỹ’

    (Tô Vũ phỏng dịch)
Năm 1977, chánh quyền Cộng Sản đem giấy tờ trao trả quyền công dân lại cho ông. Ông đã khẳng khái khước từ. Ông dõng dạc tuyên bố với chánh quyền Cộng Sản rằng ông sẽ là người sau cùng nhận lãnh sự trao trả đó khi nào tất cả các dân quân cán chánh đang bị giam cầm đều được trao trả quyền công dân.

“Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền công dân trước …”

Tính khí cương trực đầy hào hùng của một vị lãnh đạo đất nước như Tổng Thống Trần Văn Hương hành xử của người kẻ sĩ trước những áp lực chính trị, trước những kẻ thù đầy nguy hiểm, Cụ vẫn khẳng khái từ chối tất cả mọi phủ dụ dành cho cá nhân mình từ người bạn đồng minh Hoa Kỳ hay từ kẻ địch khi chưa tròn bổn phận của người lãnh đạo đối với dân với nước, không bao giờ bỏ chạy khi gập nguy nan để hưởng thụ cá nhân. Cụ Trần Văn Hương đã biểu hiện được đầy đủ tính khi của Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản và Nguyễn Khuyến của thời trước.

“Ông đã sống hết sức thanh bần trong những ngày còn lại của ông. Tuy rất nghèo nàn, thiếu thốn, ông vẫn muốn sống, để sống hơn Hồ Chí Minh một tuổi thôi.

Ông đã được thỏa mãn với ước nguyện của ông. Ông mất hồi 4 giờ chiều ngày 27 tháng 1 năm 1982, tức ngày mùng ba Tết năm Nhâm Tuất, hưởng thọ 80 tuổi.”(Trích đăng)

Uy Vũ Bất Năng Khuất mà Tổng Thống Trần Văn Hương nói với đại sứ Pháp, Đại Sứ Hoa Kỳ từ chối việc dời bỏ quê hương khi đất nước lâm nguy đã khác xa với những khuôn mặt thuộc loại “Sĩ Khí như gà thấy cáo” ù té bỏ chạy trước ba quân. Vị Tổng Tư Lệnh Trần văn Hương của chúng ta đã thể hiện lối sống chân thành đối với quốc dân của Cụ hơn hẳn loại người giả dối, khiếp nhược trước hiểm nguy. Thanh danh của một vị lãnh đạo cả đời tận tụy cho quê hương và dân tộc đã in đậm trong những trang sử oai hùng của giòng giống Lạc Hồng.

Một nén hương lòng dâng lên Cố Tổng Thống Trân Văn Hương.

Phạm Lễ

* Chúng tôi ước mong bạn đọc đóng góp về quan điểm của mình đối với Tổng Thống Trần Văn Hương, “Người Kẻ Sĩ Thời Đại”.