Sunday, January 26, 2014

MẬU THÂN Oan Hồn Trên Xứ Huế

MẬU THÂN, ANH NHỚ GÌ KHÔNG?


Xác tím đen, xác rỉ nước vàng
Xác tan nát mặt, họ hàng biết ai?
Xác chặt ngang cổ, xác bổ ngang tai
Xác chết từng chùm xâu bằng kẻm gai
Xác chết đứng ngồi cọc tre xuyên suốt đầu
Xác chết trương sình, rùng rợn, trơ xương
Xác đạn xuyên ót, xác sọ vỡ tung
Xác chết chặt đầu, xác cuốc phang, xác trợn trừng
Chết! Không ai thắp nén nhang
Chết oan thây dân tôi hàng hàng
Chết! Không hòm gỗ che thân
Chết! Không giọt lệ thân nhân sụt sùi
Hỡi anh linh yên giấc ngàn thu!
Chúng tôi còn sống, lương tri chẳng mù
Không chờ Tết mới nhớ về
Mỗi ngày mỗi nhớ! Trăm bề tâm đau!
Mưa rơi ray rứt, Điên Đại, Đá Mài
Mưa rơi thê thiết, Phú Bài, Bao Vinh
Máu me kinh hãi, Hương Thủy, Bãi Dâu
Buồn giòng sông Hương, Truồi, Gia Hội, Phú Văn Lâu
Vợ khóc chồng, Trường Tiền, An Cựu
Con khóc Mẹ, Đại Nội, Đông Ba,
Đường nào cũng máu, Áo Vàng, chùa Huế
Lệ từng con tim, Thành Nội, An Hòa
Mảnh nào nhận dạng ông bà?
Mảnh nào rửa thối động lòng quật khai?
Huế nào khăn trắng tang ai?
Nơi nào không có máu sôi trong hồn?
Hỡi anh linh yên giấc ngàn thu!
Chúng tôi còn sống, lương tri chẳng mù
Không chờ Tết mới nhớ về
Mỗi ngày mỗi nhớ! Trăm bề tâm đau!
http://danchuca.org/22Kbps/MauThanAnhNhoGiKhong.mp3
Ý Nga
Mồng Ba Mậu Tý
* Dùng dây kẽm gai xâm xuyên qua lòng bàn tay người
* Cả nhà đều bị giết.
* Tài liệu đã đọc:
-“Huế, Tôi vàMậu Thân” của Nguyễn văn Phán.
-“Mậu Thân, Nỗi Đau Khôn Dứt Của Huế” của Lê Hàn Sinh.
- “The Vietcong, Massacre At Hue” (Cuộc thảm sát của Việt Cộng ở Huế) xuất bản năm 1976, Vintage Press, New York của Bác Sĩ Elje Vannema, người có mặt ở Huế khi biến cố xẩy ra.
-“Tội Ác VC qua Hồi Ký Của Người Lính Già”: có khoảng 5.800 người bị giết tập thể tại:
  • Khe Đá Mài, quận Hương Thể
  • Bãi Cát Xuân Ô Điên Đại, quận Phú Vang
  • Sau chùa Áo Vàng, quận 2 đường Chi Lăng
  • Bãi Dâu, quận 2 phía Bao Vinh



  • ĐẢNG VIỆT TÂN TỐNG XUẤT TRẦN KHẢI THANH THỦY - Lão Móc

    CHUYỆN ĐẢNG VIỆT TÂN TỐNG XUẤT TRẦN KHẢI THANH THỦY:
    MỚI MÀ KHÔNG LẠ

    Lão Móc

    Chuyện đảng Việt Tân (VT) ra thông báo tống xuất đảng viên Trần Khải Thanh Thủy (TKTT) là chuyện mới mà không lạ, vì trước đây nhiều năm đã có chuyện ông cán lớn của VT là cố Đại Tá Phạm Văn Liễu, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại của đảng này khi còn có tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, thường được gọi tắt là Mặt Trận đã bị… tống xuất vì chuyện tranh chấp quyền hành, tiền bạc sao đó.

    Kế đó, năm 2004 khi cái tên Mặt Trận đã bị khai tử tại Berlin và thay vào đó cái tên Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (viết tắt là Việt Tân). Khẩu hiệu “Giải phóng hay là chết!” của MT bị bãi bỏ, thay vào đó là chủ trương “Liên kết trong ngoài, đối đầu bất bạo động, tháo gỡ độc tài, canh tân đất nước…” thì cũng đã có 53 cán bộ cao cấp của đảng VT cũng bị… tống xuất; nhưng 2 vị lãnh đạo nhóm này là bác sĩ Trần Xuân Ninh (TXN) và luật sư Hoàng Cơ Long (HCL) thì họp báo tuyên bố nhóm của họ là “Việt Tân đúng hướng” và nhóm kia do Lý Thái Hùng (LTH), Hoàng Cơ Định (HCĐ), Nguyễn Kim (Hườn) (NKH) lãnh đạo là nhóm “Việt Tân chệch hướng!”

    Đó là nói về những chuyện tống xuất có tầm vóc… tập thể! Về chuyện đảng viên VT bỏ đảng cá nhân và lên tiếng giữa bàng dân thiên hạ có chuyện nổi nang nhất là chuyện bà đảng viên có tên Kim Loan. Theo bà này tiết lộ thì bà ta là đảng viên toàn thời gian và bà ta đã ra khỏi đảng. Ngay trong buổi ra mắt sách “Đông Âu tại Việt Nam” của Lý Thái Hùng ở San José, bà Kim Loan đã lên tiếng tố cáo đài phát thanh Chân Trời Mới của đảng VT đã cho đọc liên tiếp trong nhiều ngày bài ca ngợi Hồ Chí Minh, đảng CSVN và đồng thời mạt sát những người chống Cộng của tên Hà Dương Dực. Theo bà đảng viên Kim Loan thì đây là một bài viết rất dài mà đài Chân Trời Mới phải phát thanh đến 4, 5 kỳ mới hết. Khi bà đảng viên VT Kim Loan vừa phát biểu xong về “sự cố” Hà Dương Dực trên đài phát thanh Chân Trời Mới thì ngay lập tức người điều khiển chương trình cúp microphone và bà Kim Loan “được” bà Trần Diệu Chân, phu nhân của ông Tổng Bí Thư Lý Thái Hùng kẹp cổ đưa ra khỏi hội trường!

    Trong bài viết có cái tựa “Mở Ngỏ”, nhà văn TKTT đã viết về cách đối xử của các cấp lãnh đạo của mình như sau:

    “… Mình được cả đại gia đình VT yêu quý, nâng đỡ, tiếp sức, hy vọng mình sẽ thành quả bom tấn nổ giữa lòng cộng sản để tạo thanh danh cho đảng…

    … Bây giờ người xúc phạm đến cái lý tưởng cao cả, sáng ngời của mình lại chính là các… “chém hữu”, cấp trên của mình, những người chẳng hiểu quái gì về văn chương chữ nghĩa, cũng như cách quản lý, điều hành, thiếu cả cái tâm, cái tầm và sự trung thực, dũng cảm khi những thành kiến của cộng đồng về VT và sự ra đi của bao nhiêu người trong tổ chức cứ loang ra mãi, trở thành một vết thương không bao giờ thành sẹo trong hồn cũng không sao gột bỏ được khỏi tâm trí mình…”

    Và bà TKTT cũng đã tiết lộ việc các Ủy viên Trung Ương đảng VT như Nguyễn Hải (ở trong nước), bác sĩ Nguyễn Trọng Việt đã rời bỏ đảng. Bà ta cũng “lên án” các “chém hữu” của bà “cứ khăng khăng công khai hoá VT trong quốc nội, đến nỗi cả một loạt đảng viên bị bắt”. Và chính bà TKTT đã viết như sau:

    “Cách hành xử của VT sao lại hèn hạ bất lịch sự như vậy?... Cứ sai lại sai thế này , làm gì Việt Tân chả thành việt teo, thành tổ chức hội họp bù khú với nhau cho vui, cho nhuốm vẻ yêu nước thôi, chứ canh tân đấu tranh gì?... Đảng VT là một đảng vô văn hóa??? Có lẽ trên mặt đất tự do dân chủ ngập tràn này, cách hành xử như vậy chỉ có một, độc đoán, hống hách, chuyên quyền.”

    Bà đảng viên TKTT đã viết về đảng VT (mà bà ta đã rất vô cùng tự hào vỗ ngực xưng tên là đảng viên của cái đảng ấy khi mới vừa được đặt chân đến Hoa Kỳ) rất ư là cạn tàu ráo máng như thế; nhưng ông Đặng Quỳnh/ Hoàng Thế Dân, cơ sở trưởng của VT miền Bắc Califonria đã rất là “nhũn như con chi chi” khi nêu ra lý do tống xuất bà ta như sau:

    “Lý do sự chia tay này là sau một thời gian bà TKTT sinh hoạt trong tổ chức, thái độ và bản tính của bà không thích hợp trong một tổ chức đấu tranh cách mạng như đảng VT. Đảng VT đã phải áp dụng một biện pháp kỷ luật đối với bà…

    … Cơ sở đảng VT luôn hân hoan đón chào những góp ý xây dựng của quý vị để củng cố phương tiện đấu tranh và canh tân đất nước ngày càng hữu hiệu hơn.”

    Chắc là thấy cái thông báo về sự chia tay của đảng viên TKTT chưa đủ để kềm chế tác hại của dư luận, ông Đặng Quỳnh/Hoàng Thế Dân bèn “chơi” thêm cái màn “ngư tiều vấn đáp” trên đài phát thanh Tiếng Nước Tôi của đảng ta. Bài “ngư tiều vấn đáp” chả ra làm sao cả. Trong thông báo thì “VT hân hoan chào đón những góp ý xây dựng”; nhưng nội dung bài vấn đáp thì lại kết án những người phê bình góp ý là những kẻ đâm bị thóc, chọc bị gạo (sic!).

    Bà đảng viên TKTT đã có nhận xét về văn chương, chữ nghĩa cũng như cái tâm, cái tầm của những người lãnh đạo của bà ta, nên xin miễn bàn chuyện này.

    Cách đây gần 3 năm, tháng 7 năm 2011, khi bà nhà văn TKTT đến Hoa Kỳ và hãnh diện vỗ ngực xưng tên là đảng viên đảng VT được đảng viên Nguyễn Hải kết nạp ở trong nước qua sự giới thiệu của “nhà dân chủ” Nguyễn Thanh Giang giới thiệu, bình luận gia Kiêm Ái có viết bài “Mới mà không lạ”. Theo ông Kiêm Ái thì “cuộc hành trình của nhà văn TKTT là một hiện tượng mới lạ. Mới lạ từ thủ tục “xuất dương” đến lý do ra đi và nhất là nhà văn này lại là đảng viên của đảng VT, lại bỏ chồng đoàn tụ với con!”

    Theo ông Kiêm Ái thì chuyện này mới nhưng mà không lạ vì trước đó đã có “hiện tượng mới lạ” là ông Hoàng Minh Chính, một người xét lại chống đảng”, ở tù mấy chục năm lại được một bác sĩ “phản động” đã sáng lập “một chính đảng cực kỳ phản động chống đảng”, đem các dụng cụ ý khoa về nước chỉ dạy và chữa bệnh thông tim cho các “cán lớn” chỉ trong mấy ngày thì bị trục xuất, thế mà vị bác sĩ này “bảo lãnh” cho cụ HMC qua Hoa Kỳ chữa bệnh ung thư tiền liệt tuyến thì được VC “OK salem” ngay lập tức. Chuyện mới lạ quá phải không? Nhưng, khi phi cơ chở cụ HMC vừa chạm mặt đất ở Bắc Cali, thì ở Nam California, một “Hội nghị Diên Hồng 3 bên” cũng bắt đầu thảo luận về sự hợp tác 3 bên gồm VC, Trí thức trong nước và trí thức hải ngoại, tất cả đều đặt dưới quyền quyết định của “lãnh đạo đảng” tức Bộ Chính Trị. Đến đây thì “sự cố” HMC không còn mới lạ nữa. Sự ra đi của nhà văn TKTT cũng tương tự như vậy.

    Trước đó, cũng có “nhà tranh đấu cho tự do tôn giáo” là ông Nguyễn Chính Kết đã “vượt biên” qua Kampuchea, sau đó mua vé máy bay qua Hoa Kỳ lên tiếng tự nhận là Đại diện Khối 8406 tại Hoa Kỳ. Ông này đã hùng hồn tuyên bố sẽ quay trở lại Việt Nam để tiếp tục “tranh đấu cho tự do tôn giáo hay là chết”; nhưng không hiểu sao ông ta lại vẫn tiếp tục ở Hoa Kỳ cho tới nay. Theo dư luận thì ông ta được “nhà hoạt động chính trị” Hoàng Duy Hùng giúp nơi ăn chốn ở và lãnh tiền của đảng VT để Đại diện Khối 8406 để… tranh đấu cho tự do tôn giáo cho VN tại Hoa Kỳ (sic!). Khi ông giáo sư này bị dư luận phê bình thì ông Nguyễn Quang Duy, một đảng viên VT ở Úc, người tự xưng Đại diện Khối 8406 tại Úc lại lên tiếng bênh vực. Mới đây, ông “giáo sư” NCK có viết bài “Cộng sản làm gì? Cộng Sản sợ gì?” kêu gọi “không nên tố cáo bọn nằm vùng” tại hải ngoại vì như vậy thì gây ra mất đoàn kết (sic!). Và ông ta khẳng định: “Do đó, vạch mặt chỉ tên bọn nằm vùng không phải là điều Cộng Sản sợ”, ông giáo sư NCK nói rất đúng: Vạch mặt chỉ tên bọn nằm vùng thì bọn nằm vùng chúng nó sợ đồng bào tỵ nạn tại hải ngoại biết mặt chúng nó, sẽ kiềng mặt chúng nó, chúng nó không thể thi hành được nhiệm vụ mà VC và tay sai đã giao phó cho chúng nó. Do đó, chúng nó phải viết bài kêu gọi không nên vạch mặt chúng nó là phải quá rồi!

    Sỡ dĩ bài viết này nhắc đến ông “giáo sư” NCK và ông đảng viên VT Nguyễn Quang Duy (nhưng lúc nào ông này cũng chối rằng mình không phải là đảng viên đảng VT, dù những người tố cáo đã đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi) để mọi người thấy rõ bà nhà văn TKTT là một người sống thực và can đảm! Ngay trong một cuộc họp báo vào năm 2011, bà ta đã hãnh diện tự xưng mình là đảng viên của đảng VT, mà lại được kết nạp từ trong nước qua sự giới thiệu của “nhà dân chủ” Nguyễn Thanh Giang.

    Phải sau gần 3 năm sống trong “chiếc chăn VT” để biết là chiếc chăn này có đầy chí rận, bà nhà văn TKTT đã can đảm lên tiếng tố cáo trước công luận là “cái đảng VT là một đảng vô văn hóa!” (sic!)

    “Bà TKTT mới từ trong nước ra, phải mất mấy năm mới khám phá ra sự bịp bợm của VT. Thế nhưng có rất nhiều cá nhân và đoàn thể người quốc gia tỵ nạn tại hải ngoại vẫn vai kề vai, sát cánh bên cạnh bọn VT trong các cuộc gọi là đấu tranh, trên các lời kêu gọi, tuyên ngôn v.v.. Số này không ít, mà có thể nói là rất đông. Bọn này thực sự đã bị mù, không thể chữa được. Bọn này chống cộng, kẻ coi đó như một trò giải trí, làm cho vui hay lấy tiếng, kẻ coi như một cái nghề kiếm cơm. Việt gian Cộng Sản chỉ có thể bị thời gian và thời thế đào thải, chứ khó có thể tin được rằng chúng sụp đổ vì bị bọn chống Cộng mù lòa này quật ngã”.

    Xin mượn ý kiến trên đây của bình luận Duyên Lãng Hà Tiến Nhất để chấm dứt bài viết này.

    Lão Móc

    PHÂN BIỆT: CHỐNG CỘNG - Bùi Lý Hồng

    PHÂN BIỆT: CHỐNG CỘNG VÌ LÝ TƯỞNG
    VÀ LỢI DỤNG CHỐNG CỘNG ĐỂ LÀM GIÀU

    Bùi Lý Hồng
    Sau ngày 30-4-1975, tình hình hải ngoại bất ổn, cảnh thượng vàng hạ cám, vàng thau lẫn lộn, nếu không phân định rõ ràng, dễ lầm và đi đến tình trạng hổn loạn, trông gà hóa quốc khi nhìn thấy chung quanh có những tổ chức chống cộng, cũng có chiến khu, cương lĩnh, sinh hoạt, dễ tin là bị lọt bẩy ngay hoặc là một số kẻ lợi dụng chiêu bài chống cộng để làm thương mại, trở thành giàu có nơi các nước tạm dung, chính những kẻ lợi dụng lòng yêu nước để làm thương mại đã phá nát lòng tin và phương hại đến chính nghĩa quốc gia, họ là thành phần thiểu số, vì lợi nhuận mà làm lợi cho cộng sản, là nguyên nhân tạo sự hổn loạn hải ngoại từ nhiều năm qua.

    Thành phần lấy chống cộng làm kinh doanh là những mục ung thư nằm tìm ẩn trong tập thể người Việt hải ngoại, tác động, nguy hiểm hơn cả cộng sản đánh phá. Cần nhận định rõ những thành phần lợi dụng chống cộng để trục lợi và những người chống cộng chân chính, vì lý tưởng, chứ không phải chống cộng để kiếm tiền.

    Khi bước xuống tàu ra khơi tìm được tự do hay lên phi cơ theo diện đoàn tụ gia đình, sau nầy là H.O…tất cả đều không muốn sống, làm việc trong thiên đàng cộng sản cả. Người Việt Nam vốn mang nặng tình quê hương, không ai muốn bỏ đi, kể cả thời kỳ ở miền nam trước năm 1975, dù ngày đêm giặc cộng pháo kích, giựt mìn, ám sát…Nhưng không ai bỏ miền nam ra đi, dù chết chóc vì nơi nầy có có tự do. Tuy nhiên sau cái ngày gọi là đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, nhưng lại kèm theo "tiến lên xã hội chủ nghĩa" thì người nào cũng muốn tạ từ thiên đàng, ngay cả cây cột đèn cũng bỏ đi nếu có chưn.

    Đương nhiên là người ra đi, dù sống ở đâu cũng không ưa chế độ bạo ngược, tàn ác Việt Cộng. Từ đó, hải ngoại xuất hiện nhiều tổ chức kháng chiến, phục quốc, chính phủ lưu vong, phong trào, lực lượng chống cộng, cứu quốc. Nhưng coi chừng phần lớn là lấy bình phong chống cộng để kiếm cơm hay tệ hại là kinh doanh chống cộng mà thời gian đã chứng minh bọn "đầu cơ lòng yêu nước" trở thành những tập đoàn "con buôn chống cộng tai hại", phá nát lòng tin của người Việt hải ngoại, là mục đích mà đảng cộng sản mong muốn, làm hủy hoại tinh thần kẻ thù để chúng dễ dàng khuynh đảo, đánh phá.

    Thành công nhất trong số những kẻ chống cộng kiếm cơm, đầu tư với chiêu bài cứu nước qui mô và trở thành những tay triệu phú là anh em phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, chỉ vài năm làm kinh doanh kháng chiến với chiến khu cuội từ chuồng gà của một ông tướng Thái cho mướn, nói láo có 10 ngàn quân…họ đã thu hơn 22 triệu Đô La Mỹ, dùng tiền kinh doanh với hệ thống phở Hòa, phở Bằng. Người làm cũng tình nguyện khỏi lãnh lương hay được trả lương tượng trưng, làm chùa với danh nghĩa yểm trợ kháng chiến, là loại kinh doanh không được các nước dân chủ chấp nhận qua luật lao động qui chế lương bổng, nhưng chỉ có mặt trận thực hiện ngay trên đất Mỹ trong thời kỳ mặt trận thịnh hành.

    Nay, mặt trận Hoàng Cơ Minh đã đổi Business name thành Việt Nam Canh Tân-Cách Mạng Đảng, vẫn buôn bán lòng yêu nước bằng mặt hàng mới là đấu tranh dân chủ đa nguyên bịp, với chủ trương : "đối đầu bất bạo động để tháo gỡ độc tài" và cũng vẫn thường lợi dụng cơ hội xảy ra để thu tiền. Bọn con buôn chống cộng thường rình rập khắp nơi, khi môi trường thích hợp là chúng nhảy vào tổ chức thu tiền. Thịnh hành ngày nay là thu tiền yểm trợ cho các nhà dân chủ cuội trong nước, khối 8406, sắm áo trắng cho dân nghèo đo biểu tình…hay thu tiền để tổ chức ngày 30 tháng 4.

    Mới đây trùm Việt Tân ở San Jose là Hoàng Thế Dân còn bắt chước cây mùa xuân chiến sĩ thời quốc gia, hắn tổ chức ăn cơm nhà hàng, để dùng tiền ủng hộ cây mùa xuân cho các nhà dân chủ trong nước. Có thể nói mặt trận Hoàng Cơ Minh là đại công ty kinh doanh chống cộng lớn nhất và thành công nhất ở hải ngoại.

    Bên cạnh đó, còn có những kẻ mượn chiêu bài chống cộng làm thương mại, đó là sự xuất hiện của các cơ quan truyền thông sống bền, làm giàu nhờ đọc giả, thương nghiệp người Việt. Tờ báo Người Việt làm ăn khắm khá nhờ đọc giả, quảng cáo…Nhưng đây là cơ quan tuyên truyền có lợi cho chế độ Hà Nội, sau thời gian dài kinh doanh bằng lối chống cộng mập mờ, thì đã lộ chân tướng qua chậu rửa chân có lá cờ vàng ba sọc đỏ, bài thơ chúc tết bọn lãnh đạo cộng khi do bốc sư Nhân Quang, bài viết hạ sát đất VNCH của Sơn Hào và nhứt là những tấm hình bí mật của Đỗ Ngọc Yến chụp với Nguyễn Tấn Dũng, đã bị đưa ra công chúng. Chân tướng báo Người Việt đã quá rõ ràng, đưa đến những cuộc biểu tình dài hạn.

    Cơ sở thương mại lớn, khá nhứt, cũng dùng mặt hàng chống cộng là đài truyền hình SBTN do giám đốc Trúc Hồ điều hành. Đây là công ty thương mại sống nhờ vào sự yểm trợ, xem, quảng cáo của người chống cộng ở Mỹ. Từ bao năm qua, truyền hình SBTN dành được chỗ đứng trong lòng người bỏ nước ra đi tìm tự do và trung tâm nhạc ASIA đáp ứng sự mến mộ nhiều người bằng những chương trình về thuyền nhân, lính…Nhưng sau nầy, từ khi có cuộc vận động Thỉnh nguyện thư bằng điện toán, thu hơn 155 nghìn chữ ký và giám đốc Trúc Hồ cùng với tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng (SOS Boat people) và một số ca nhạc sĩ thuộc trung tâm ASIA, ban đầu vận động phóng thích nhạc sĩ Việt Khang, nhưng khi đã có được số chữ ký trong tay, họ lái sang những mục đích khác. Trúc Hồ dùng chữ ký để mặc cả với tổng thống Barack Obama về lá phiếu trong cuộc tái cử nhiệm kỳ 2, tự xem là lãnh đạo, đại diện người Việt tại Hoa Kỳ để thừa nhận chế độ cộng sản tại Việt Nam và còn khuyến cáo Mỹ hãy đoàn kết với Việt nam để ngăn chận Trung Cộng.

    Những tuyên bố trái với lập trường người Việt tị nạn cộng sản của Trúc Hồ đã làm cho nhiều người phẫn nộ, hoài nghi, nên sau đó, truyền hình SBTN mất dần lòng ái mộ cũng như tin tưởng về lập trường. Đợt vận động chữ ký lần thứ hai mang tên: "triệu con tim, một tiếng nói" do Trúc Hồ chủ xướng và có cả cháu ngoan bác hồ Hồng Thuận, đảng Việt Tân ở nước ngoài và về nước đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, hình tượng Hồ Chí Minh. Chính hình ảnh nầy đã tạo cho thương nghiệp SBTN đi xuống thêm.

    Nhìn lại hậu trường đài SBTN, thân phụ của Trúc Hồ là Trúc Giang, người cùng với Kiều Mỹ Duyên, nhà văn Vi Anh, lập hội từ thiện, dùng đài truyền hình thu tiền và mang về Việt Nam, đóng góp thêm kho ngoại tệ cho đảng cộng sản. Một điều làm cho mọi người cảnh giác là đài truyền hình SBTN lại được đảng và nhà nước cho phép hoạt động tại Việt Nam, với chiếc xe thùng, có bản hiệu của đài, lưu thông nhiều nơi để săn tin. Nếu bất cứ cá nhân nào, có chống cộng như nghệ sĩ Đính Hùng (vừa mới bị trục xuất khi về lo tang lễ cho thân nhân), không thể về Việt Nam với bất cứ lý do gì, nhưng Trúc Giang, đài SBTN lại trở về mà không bị bắt, trục xuất, thì đây là điều nghi ngờ chính đáng và có lý do và rõ ràng như giấy trắng mực đen. Truyền hình SBTN cũng chống cộng, nhưng họ chỉ chống theo tinh thần:

    Chỉ chống nhưng gì mà cộng sản không sợ.
    Nhưng né tránh những gì mà cộng sản sợ.

    Truyền hình SBTN chỉ chống cộng chung chung, nói về nhân quyền, dân chủ đa nguyên, nên nhiều người lầm tưởng truyền hình nầy có lập trường chống cộng, đưa đến sự tin tưởng và mù quáng, nên họ không chú ý đến những việc làm mà người ta cho là "vải thưa che mắt thánh" như về Việt Nam làm từ thiện, truyền hình được đảng cho phép hoạt động tại Việt Nam, mới đây phát giác thêm bài hát "đáp lời sông núi" là sự hợp soạn giữa Trúc Hồ và bá còn của y là một văn công uy tín tên là Ca Lê Thuần. Bài ca nầy chỉ nhằm nâng cao tinh thần bộ độ và kích động đoàn kết của người hải ngoại hay những thành phần không cộng sản với đảng, là lọt vào bẩy sập, vì ai cũng biết đảng cộng sản VN chỉ là tập đoàn tay sai, thái thú cho Trung Cộng.

    Hầu hết những kẻ chống cộng để kiếm cơm, làm giàu đều là thứ con buôn, lấy bình phong chống cộng để làm thương mại. Nguyên tắc chủ yếu của thương mại là làm giàu, nên những kẻ chống cộng cơm gạo không có tinh thần yêu nước, và chỉ chống cộng theo lợi nhuận. Khi được thời, phát triển, lúc ế ẩm là đổi nghề, mặt hàng hay sang nhượng cho người khác. Trước đây, trung tâm Thúy Nga với những chương trình văn nghệ lính, đưa ra những hình ảnh chính nghĩa tự do, nên đã thu nhiều lợi nhuận. Nhưng trung tâm Thúy Nga suy tàn từ khi phát hành băng nhạc Paris by night 40, từ đó ế dần và sau cùng đã bán lại cho một công ty quốc doanh Việt Nam. Ngày nay đài truyền hình SBTN và trung tâm ASIA đang trong tình trạng mất dần khách hàng, đây là thời kỳ giao động và chủ nhân tìm mọi cách để kéo lại uy tín, một trong những lối làm ăn nầy là kích động một số người mù quáng ủng hộ hay người của họ, tung lên chiến dịch chụp mũ bất cứ ai nói về sự thực về đài truyền hình nầy có mặt tại Việt Nam một cách hợp pháp, nghi ngờ về lập trường chính trị và thêm dòng họ cách mạng lớn tại Bến Tre….Những nỗ lực nầy vẫn không thể lấy lại uy tín như trước đây.

    Một điều thực tế là những kẻ chống cộng kiếm cơm, có lợi nhuận, làm giàu nhờ biết khai thác lập trường chống cộng lại được nhiều người ái mộ như các ca sĩ vậy. Họ dễ thu phục cảm tình và cũng vừa hành nghề có tiền thù lao, dù có một số ca sĩ, nhạc sĩ đã trở mặt như gia đình Phạm Duy, ca sĩ Elvis Phương, Tuấn Ngọc, Hương Lan, Hoài Linh…Một số ca sĩ, nhạc sĩ làm việc cho các đài truyền hình thương mại, phải làm theo lịnh của chủ nhân, nên lập trường của họ chỉ phục vụ quyền lợi cá nhân là trước tiên, còn quốc gia, dân tộc là hậu xét, cẩn thận để không lầm lẫn như có thời nhiều người lầm Phạm Duy.

    Trong khi những người chống cộng vì lý tưởng lại không có tài chánh, họ bị đánh phá, cô lập bởi những phần tử nằm vùng, đón gió vì vị lột mặt, va chạm quyền lợi. Đó là tình trạng chung của nhiều cơ quan truyền thông chống cộng, họ hy sinh thời giờ, công sức, xuất cả tiền túi và sau cùng đành nằm im khi tài chánh kiệt quệ. Nhưng các cơ quan truyền thông, văn nghệ thương mại hái ra tiền, tồn tại và những kẻ làm việc như ca sĩ, nhạc sĩ…nhờ thương nghiệp mà nổi tiếng, được cảm tình mọi người. Thậm chí khi bị khám phá là đón gió, trở cờ, cũng có một số kẻ mù quáng, ái mộ bênh vực, chụp mũ những người nhìn ra sự thực là cộng sản, phá hoại…

    Khi thương nghiệp sụp đổ, đưa đến ảnh hưởng của những người làm việc, như hãng đóng cửa, công nhân thất nghiệp. Tình trạng truyền hình SBTN và trung tâm ASIA, là những thương nghiệp đi theo dòng nổi trôi của chủ nhân là giám đốc Trúc Hồ, từ đó, người ta nghi ngờ về lập trường của những người làm công. Người Việt hải ngoại cần sáng suốt phân biệt giữa những kẻ lợi dụng chống cộng để làm thương mại và những người chống cộng thực sự. Trịnh Công Sơn sau năm 1975 là thiếu tá quân đội nhân dân, nữ minh tinh Kim Cương trở thành thượng tá công an, nhạc sĩ Tôn Thất Lập trở thành cán bộ văn hóa quyền thế sau 1975….là những bài học mà mọi người nên ôn lại.

    Những người quyết tâm chống cộng lại bị đánh phá, chụp mũ, vì họ đã đụng phải những gì mà đảng cộng sản sợ trong khi nhưng kẻ chống cộng kiếm cơm ít khi bị đánh phá, ngoại trừ canh tranh nghề nghiệp, đây là những kẻ vừa kiếm cơm vừa được ái mộ, là thực trạng đã và đang xảy ra ở hải ngoại sau năm 1975../.

    Bùi Lý Hồng

    Bài học nhân quyền tại Bạch Ốc

      Bài học nhân quyền tại Bạch Ốc ngày 05-3-2012
    Phạm Trần
    Câu nói của Tổ tiên người Việt bảo “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” qủa không sai với cuộc họp “đi lạc hướng” tại Toà Bạch Ốc ngày 05 tháng 03 năm 2012 giữa 165 người Việt Nam được chọn thay mặt cho trên 100 ngàn chữ ký vào Thỉnh nguyện thư yêu cầu Tổng thống Barrack Obama không nới rộng quan hệ thương mại với Việt Nam chừng nào chính quyền Cộng sản tiếp tục vi phạm nhân quyền và kiến nghị Chính phủ Mỹ áp lực Hà Nội trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho những người tù chính trị và đấu tranh cho dân chủ, tự do.

    Tại sao vậy ?

    Bởi lẽ, theo nguồn tin có thẩm quyền thì Cuộc họp đã diễn ra ngòai tầm kiểm soát của những người đi vào Bạch Ốc, kể cả Nhạc sỹ Trúc Hồ và Ban Giám đốc của Đài Truyền hình SBTN (Saìgòn Broadcasting Television Network) là những người đã có sáng kiến kêu gọi người Việt ký vào Thỉnh nguyện thư gửi Tổng Thống Obama và Quốc hội Mỹ.

    Nhạc sỹ Trúc Hồ, Giám đốc đài SBTN tiết lộ trong một chương trình phỏng vấn dài 1 giờ từ Hoa Thịnh Đốn tối 6-3 (2012) là qua trung gian, ông đã nhờ Tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc điều hành của tổ-chức Boat People S.O.S., giúp liên hệ với Tòa Bạch Ốc để trao Thỉnh nguyện thư cho Tổng thống Obama nên đã có Cuộc họp tại Eisenhower Executive Office Building-South Court Auditorium ngày 05-3-2012.

    Tuy nhiên có những vấn đề cơ bản và then chốt dưới đây đã bị Văn Phòng Tiếp Cận Cộng Ðồng (Office of Public Engagement) gạt ra ngòai nghị trình, trước khi Phái đòan người Việt vào Bạch Ốc mà không có lời giải thích, khiến cho phiá Nhạc sỹ Trúc Hồ hòan tòan bị đặt vào những việc đã rồi không kịp trở tay.

    Nguồn tin này nói rằng, Tiến sỹ Nguyễn Đình Thắng và vài người Việt liên hệ và Văn phòng Sáng Kiến Tòa Bạch Ốc Về Người Mỹ Gốc Châu Á Thái Bình Dương của Tòa Bạch Ốc (Initiative on Asian Americans and Pacific Islanders ) đã thỏa thuận ban đầu là:

    - Có 4 diễn gỉa người trẻ Mỹ gốc Việt được chọn để nói “có sách, mách có chứng” cho Tòa Bạch Ốc biết lý do tại sao họ quan tâm đến vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, mặc dù có người sinh ra ở Mỹ.
    - Vào chi tiết, mỗi người sẽ nói ngắn gọn chừng 5 phút hay dài hơn chút về các vấn đề:

     1) Tù Chính trị.
     2) Tù lương tâm.
     3) Các quyền Tự do căn bản của người dân bị tước đọat.
     4)Vần đề tự do Tôn giáo bị đàn áp, ngăn cấm.

    Chương trình có bài bản này được coi như phản ảnh tinh thần và nội dung Bản Thỉnh nguyện thư của trên 100 ngàn chữ ký của mọi tầng lớp và thành phần trong xã hội, và tương xứng với lòng mong đợi “ngàn năm một thuở” của tập thể 1 triệu 500 ngàn người Việt ở Mỹ.

    Tuy nhiên, không biết ai đã ra lệnh cho họ hay có “bàn tay phù thủy” nào đã “đạo diễn” từ trong bóng tối mà Chương trình này đã thay đổi vào giờ chót để đi lạc đề.

    Thay vì có thuyết trình của 4 diễn gỉa thì Bạch Ốc chỉ muốn thực hiện một Cuộc “thảo luận bàn tròn” với 3 người trẻ: Cindy Đinh (đại diện Hội Đồng Nhân Quyền Cho Việt Nam), Billy Lê (chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên) và ca sĩ Quốc Khanh, được cử thay mặt anh em Nghệ sỹ của Trung tâm ASIA để yêu cầu can thiệp cho đồng nghiệp của họ, Ca-Nhạc sỹ Việt Khang bị bắt ở Việt Nam ngày 23/12/2011 vì đã sáng tác 2 Bản nhạc ái quốc ” Việt Nam Tôi Đâu” và “Anh Là Ai”.

    Nội dung hai Bản Nhạc ái quốc nhiệt thành của Việt Khang đã gây xúc động cho hàng triệu con tim từ Việt Nam ra nước ngòai khiến Nhạc sỹ Trúc Hồ, Giám đốc Đài Truyền hình Sàigòn Broadcasting Television Network (SBTN) và Trung tâm Nhạc ASIA phát động chiến dịch lấy chữ ký gửi cho Tổng thống Obama và Quốc hội Hoa Kỳ để xin can thiệp cứu Việt Khang, đồng thời đấu tranh cho nhân quyền Việt Nam.

    Diễn gỉa thứ 4 dự trù ban đầu là anh Nguyễn Xuân Hùng ở Dallas, một người trẻ có tinh thần đấu tranh, đã bị lọai khỏi danh sách.

    Cô Tuyết Dương, Cố vấn về dân quyền và di trú thuộc Sáng Kiến Tòa Bạch Ốc Về Người Mỹ Gốc Châu Á Thái Bình Dương, làm điều hợp viên để “phỏng vấn” 3 người trẻ được chọn.

    Tuy nhiên, theo một số người Việt có mặt thì những câu hỏi của Cô Tuyết Dương, phần lớn “không ăn nhập gì” đến Thỉnh nguyện thư của người tị nạn do đó cuộc gặp gỡ giữa cộng đồng với Tòa Bạch Ốc trở nên “nhạt nhẽo” và mất thời giờ làm buồn lòng nhiều người.

    Ngòai ra ý kiến ban đầu là Tòa Bạch Ốc cũng muốn được biết tại sao nội dung 2 Bản Nhạc của Việt Khang đã có sức mạnh tạo thành một phong trào quần chúng người Mỹ gốc Việt đông đảo ký tên vào Thỉnh nguyện thư nên đã có người đề nghị 2 Bản Nhạc này sẽ được các Ca sỹ của ASIA trình bầy tại buổi họp.

    Đề nghị này cũng bị bác bỏ mà ASIA không hay !

    Cũng có tin chưa được xác nhận nói rằng đã có người “mách” với Tòa Bạch Ốc rằng hai Bản nhạc của Việt Khang có nội dung chống Trung Cộng nên kế họach trình diễn khó được thực hiện để tránh “phức tạp ngọai giao với Bắc Kinh” cho Hoa Kỳ.

    Ngòai ra nội dung thư mời của Văn Phòng Tiếp Cận Cộng Ðồng Tòa Bạch Ốc cũng có những điều không được thực hiện tại buổi họp.

    Chẳng hạn như trong Thư ngày 28/02/2012, họ viết:
    ”We are pleased to invite you to join Obama Administration officials in a discussion about diaspora engagement, human rights and global partnerships.

    This meeting will give participants the opportunity to share their ideas with the Administration and better understand the Administration’s policies and programs. The feedback from this meeting will inform the work of the Administration as it moves forward to engage and partner with the Vietnamese American community.”

    Tạm dịch: ”Chúng tôi hân hạnh mời (Ông,Bà) cùng tham dự với các viên chức của Chính quyền Obama để thảo luận rộng rãi về sự tiếp cận, nhân quyền và đối tác tòan cầu.
    Cuộc họp này sẽ tạo cơ hội cho những tham dự viên chia sẻ ý kiến với Hành pháp và hiểu rõ hơn về các chính sách và chương trình của Hành pháp. Sự góp ý của cuộc gặp gỡ này sẽ giúp cho công tác của Hành pháp có cơ hội tiến tới các cuộc tiếp xúc và hợp tác với Cộng đồng người Mỹ gốc Việt.”

    Nội dung này đã gây ra nhiều hy vọng trong cộng đồng người Việt trước khi họ có mặt ở Bạch Ốc nên khi có những việc xẩy ra ở phòng họp không phản ảnh đúng với thư mời khiến nhiều người “ngơ ngác” nhìn nhau mà không biết tại sao ?

    Đã thế, trong Thư thông báo lần hai ngày 01/03/2012 của ông Eddie Lee, đồng Giám đốc Văn phòng Tiếp cận Cộng đồng, người ta thấy nội dung thảo luận được “lái” sang “những người Lãnh đạo trẻ Việt Nam“.

    Thư này báo cho những người được vào Bạch Ốc biết rằng :
    “The briefing will include a welcome from Administration officials, updates from young Vietnamese leaders on diaspora communities, a panel of human rights and global partnership experts, and a presentation from the White House Initiative on Asian Americans and Pacific Islanders.”

    Tạm dịch: ”Cuộc trình bầy sẽ gồm có lời chào mừng của các viên chức Hành pháp, bổ túc từ các nhà lãnh đạo trẻ người Việt về nét đa dạng của các cộng đồng, một ủy ban về nhân quyền và các chuyên viên về đối tác tòan cầu, và một tường trình của Văn phòng Sáng Kiến Tòa Bạch Ốc Về Người Mỹ Gốc Châu Á Thái Bình Dương.”

    Việc làm “trống đánh xuôi kèn thổi ngược này” phù hợp với sự thay đổi trên màn ảnh đại tuyến trưng ra trước mắt mọi người.

    Theo lời Nhạc sỹ Trúc Hồ nói trên SBTN tối 6-3 thì khi ông bước vào phòng họp, ông rất ngạc nhiên, tưởng mình đi lộn phòng khi thấy màn ảnh viết nguyên văn: “White House Briefing with National Vietnamese American Leaders” (Cuộc Thuyết trình (của) Tòa Bạch Ốc với những Lãnh tụ người Mỹ gốc Việt).

    Trúc Hồ hỏi cô Tuyết Dương rằng liệu mình có đi lạc không, nhưng sau khi cho biết đây chính là phòng đón những người đến vì bản Thỉnh nguyện thư thì Trúc Hồ đã không hài lòng.

    Giám đốc SBTN nói ông đến với tư cách là một công dân để trao Thỉnh nguyện thư chứ ông không phải là một Lãnh tụ Cộng đồng, do đó Tòa Bạch Ốc đã đổi hàng chữ trên màn ảnh thành “White House Briefing with Việtnamese Americans”.

    Một hồi lâu, theo lời Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch Nghị hội người Việt là người tham dự cuộc họp thì màn ảnh lại bất ngờ được đổi là “White House Briefing with Young Vietnamese American Leaders” (Cuộc thuyết trình (của) Bạch Ốc với các Lãnh tụ trẻ người Mỹ gốc Việt).
    Giáo sư Bích nói việc làm của Bạch Ốc “khá lúng túng”.

    Đấy là chưa kể ông Eddie Lee, xếp của cô Tuyết Dương lại viết trong Thư gửi mọi người ngày 1/3 rằng đây là “Cuộc thuyết trình của Tòa Bạch Ốc dành cho các Lãnh tụ Cộng đồng người Mỹ gốc Việt” (White House Briefing for Vietnamese American Community Leaders)

    Tóm tắt lại là mọi chuyện đều “không danh chính ngôn thuận”, đảo lộn tùng phèo mọi ý nghĩa đích thực của sự có mặt của 165 người Việt là vào Tòa Bạch Ốc để nghe các viên chức Chính quyền Oabma nói về quan điểm của Bạch Ốc với Bản thỉnh nguyện thư của trên 100 ngàn người Việt về nhân quyền Việt Nam.

    Nhưng những lời hứa và câu trả lời của các viên chức Bạch Ốc và Bộ Ngọai giao cũng chĩ “chung chung”, hay “biết rồi khổ lắm nói mãi” khiến cho nhiều người không hài lòng, dù ai cũng nhìn nhận đây chỉ là bước đầu tiên của cuộc trường chinh đi “khai sơn phá thạch”.

    Vậy câu hỏi là ai đã “tiếp tay” cho Bạch Ốc để thay đi, đổi lại Chủ đề cuộc thảo luận và với mục đích gì mà khiến cho Nhạc sỹ Trúc Hồ và Nghệ sỹ Việt Dzũng của SBTN đã phải tức giận bỏ phòng họp ra đi trước khi kết thúc?

    Nhạc sỹ Trúc Hồ nói ông rất buồn. Nghệ sĩ Việt Dzũng coi việc làm của Bạch Ốc không đáng được trân trọng vì tinh thần và chữ ký của trên 100 ngàn người Việt Nam đã bị xúc phạm.

    Việt Dzũng đã được vỗ tay nồng nhiệt của 700 người tại bữa ăn tối ngày 5/3: “Nếu ông Obama không muốn nhận thì chúng ta đem số phiếu đó đến cho người khác.”

    Cuộc tiếp xúc bên trong Eisenhower Executive Office Building-South Court Auditorium của 165 đại biểu không hòan toàn thỏa mãn người tham dự là điều dễ hiểu.

    Bởi vì đã có những người lợi dụng Phong trào Quần chúng đấu tranh này cho quyền lợi riêng tư đảng phái và tổ chức của họ nên không ai ngạc nhiên khi thấy có một số người được mời nhưng không vào Bạch Ốc như trường hợp Bác sỹ Nguyễn Quốc Quân, Chủ tịch Ủy ban yểm trợ Cao trào Nhân bản và Ca-Nhạc sỹ Nguyệt Ánh.

    Hai người này đã ở bên ngòai tham gia vào cuộc biểu dương lực lượng của hàng trăm người khác tại Công viên La Fayette, đồi diện với Bạch Ốc.

    Riêng Trúc Hồ thì ông đã nói đi nói lại nhiều lần trên SBTN rằng ông không làm chính trị, không thuộc bất cứ tổ chức hay đảng phái nào mà ông chỉ là một người dân bình thường và muốn làm những việc bình thường như mọi người cho Nhân quyền Việt Nam.

    Nhưng Trúc Hồ lại không biết rằng những người dân hiền lành, chất phác và những người nghệ sỹ “thẳng ruột ngựa” thường dễ sa vào cạm bẫy khi họ không tỉnh táo để vô tình làm tổn thương đến những cụ già trên 90 tuổi, có nhiều cụ ngồi xe lăn, cho đến em bé mới 3 tháng tuổi có mặt trong cuộc biểu dương ở Công viên La Fayette, trong giá lạnh cắt da ngày 5-3 (2012).

    Đây có lẽ là một bài học không chỉ riêng cho Trúc Hồ mà còn cho tất cả những ai còn muốn đấu tranh cho Nhân quyền Việt Nam mỗi khi họ nhớ đến ngày 5 tháng 3.

    Bởi vì đấu tranh không phải là cuộc cờ ngắn hạn, và đã đánh cờ thì không nên nghĩ rằng đánh trăm trận sẽ không thua trận nào.

    Chỉ đáng tiếc là cái giá trả cho bài học nhân quyền ở Bạch Ốc ngày 05-03 (2012) qúa đắt vì những hành động “không chính danh” đã làm phương hại đến đại cuộc. 

    Phạm Trần


    MÀN LỘT XÁC CỦA LOÀI VE - Duyên Lãng Hà Tiến Nhất


    Duyên Lãng Hà Tiến Nhất

    Mặt trận Hoàng Cơ Minh (MT) đã được chính thức khai tử để trở thành đảng Việt Tân kể từ ngày 19-9-2004. Full name của nó là Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, được gọi tắt là Việt Tân (VT). Từ sự thay tên đổi họ của Mặt Trận (MT), đất bằng lại một phen dậy sóng trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại hải ngoại. Lần này thì có lẽ phải gọi là sóng thần mới đúng. Sức mạnh của nó có thể chẳng thua kém gì ngọn sóng thần Tsunami. Búa rìu dư luận giáng xuống đầu đứa trẻ đẻ muộn này tưởng như sắt đá cũng khó lòng chịu đựng nổi. Thật vậy, sự thể rất dễ nhận thấy qua quá nhiều ý kiến, bài viết bầy tỏ sự giận dữ chống đối, có khi đến cuồng nộ, được phóng lên Net và đăng trên báo. Chỉ một vài ý kiến rụt rè bao che cho VT, nhưng người đọc có thể dễ dàng nhận ra ngay tác giả là gà nhà tự chữa lửa chứ không phải tiếng nói vô tư.

    Trước sự thể đó, không ai không thắc mắc và tự hỏi tại sao? Có lẽ câu trả lời ngắn gọn và đúng nhất là quả báo.

    Thật vậy. Gieo gió thì gặt bão. Đó là luật Trời. Nếu trước kia MT không chơi trò điếm đàng, không lừa gạt đồng bào thì ngày nay VT đâu phải gánh chịu cái hậu quả thê thảm này. Nhưng MT chơi xấu thế nào, lừa gạt ra sao, chuyện đó đã được dư luận và truyền thông phơi bầy tường tận rồi, người viết thấy không cần thiết phải nhắc lại. Ở đây chúng tôi chỉ có ý tìm hiểu lý do tại sao MT lại bỗng dưng biến thành VT trong lúc này, và tiện thể xem là sự dàn dựng trò ảo thuật này nhắm mục đích gì, nó thần thông tới mức nào mà thôi.

    Ém Quân Chờ Thời

    Qua ba cuộc hành quân Đông Tiến kéo dài từ 1986 đến 1990, lãnh tụ Hoàng Cơ Minh của MT và toàn thể bộ phận tác chiến của ông đều bị tiêu tùng. Kẻ bị giết. Người bị bắt. Chỉ còn lại bộ phận tham mưu lèo lái bởi một người mới gia nhập MT là ông Nguyễn Xuân Nghĩa, người đã từng công khai thú nhận là cháu tổng bí thư CS Nguyễn Văn Linh. Hai cuộc hành quân Đông Tiến I và II do đề đốc Hoàng Cơ Minh soạn kế hoạch và trực tiếp chỉ huy, nhưng đều bị thất bại. Sau hai lần thất bại, đáng lẽ MT không nên làm Đông Tiến III nữa vì bấy giờ ông Minh đã chết, tàn quân còn lại ngo ngoe, con số đếm được trên đầu ngón tay. Không hiểu tại sao MT đã không rút kinh nghiệm và thay đổi kế hoạch mà lại cứ mù quáng thực hiện Đông Tiến III để đút đầu vào chỗ chết?. Cuộc hành quân này diễn ra ngoài dự liệu và khuôn khổ của tất cả mọi binh thư, binh pháp cùng là thực tế của tình hình. Chuyện này có lẽ chỉ có Trời biết?

    Đây là một bí mật chưa ai khám phá ra. Nhưng chủ trương và những thay đổi về sau trong đường lối của MT có thể cho người ta thấy được tia sáng của vấn đề. Ít người có thể tưởng tượng nổi mục tiêu của cuộc hành quân Đông Tiến III không phải là để xâm nhập về trong nước, mà là để dứt điểm các thành phần của bộ phận tác chiến còn lại. Chỉ có như thế MT mới có thể dễ dàng thay đổi từ chủ trương đối đầu sang chủ trương đối thoại với CS được. Thật vậy, trong khung tổ chức của MT lúc đó, MT bao gồm hai bộ phận, một tác chiến và một tham mưu. Bộ phận tác chiến qui tụ hầu như toàn thể là quân nhân QLVNCH và những người trẻ còn sôi sục bầu nhiệt huyết giải phóng quê hương khỏi tay bạo quyền CS. Trái lại, bộ phận tham mưu đa số là những khoa bảng và chính khách cơ hội chủ nghĩa. Chủ điểm của kế hoạch hành quân Đông Tiến III là phải tiêu diệt toàn bộ bộ phận chủ chiến thì mới có thể dễ dàng thay đổi chủ trương từ cách mạng võ trang sang cái mà bà Trần Diệu Chân, phát ngôn viên của MT gọi một cách bóng bẩy là tổng nổi dậy hòa bình. Đây là công tác trọng điểm và bắt buộc để thay đổi đường lối và hoàn thành những mục tiêu chiến lược của giai đoạn ém quân chờ thời của MT.

    Sau khi đã hoàn tất kế hoạt tự diệt cần thiết nói trên, MT rút vô "bưng" để ém quân và chờ thời. Tôi dùng cụm từ rút vô bưng - theo lối nói của người miền Nam - vì một thực tế rõ ràng là trong giai đoạn ém quân, MT hầu như không bao giờ công khai ra mặt làm bất cứ cái gì. Tất cả mọi hoạt động chìm, nổi của MT đều nhân danh thừa sai là các tổ chức ngoại vi cả. Trong thời gian dài ém quân này, MT đã thực hiện được ba nhiệm vụ chiến lược quan trọng sau đây:

    1. Củng cố và phát triển các cơ sở hạ tầng - Có hai loại cơ sở, một là các đơn vị kinh doanh và hai là những tổ chức quần chúng mà người ta thường gọi là ngoại vi của MT, như Hội Chuyên Gia, Liên Minh VN Tự Do, đoàn thanh niên Phan Bội Châu v.v.. MT phát triển các tổ chức ngoại vi khá nhanh và khá thành công do lợi điểm là đã tích lũy được dồi dào tiền bạc do quyên góp và do các cơ sở kinh tài được dựng nên để sinh lợi.

    2. Khoa trương thanh thế - MT núp trong bóng tối, xử dụng đoàn viên bí mật hoặc tổ chức ngoại vi quậy nát các đoàn thể quốc gia hầu nước đục thả câu để gây thanh thế. Dân gian gọi là chôm credit. MT thi hành độc kế này vì lý đương nhiên là muốn thành công theo đuổi đường lối riêng (ngược với đường lối chung của tập thể người tỵ nạn), MT cần phải triệt hạ tất cả những tổ chức khác không cùng lập trường, quan điểm, và đường lối. Xưa nay chính trị vẫn là thế. Sự thể các tổ chức cộng đồng, các đoàn thể quốc gia bị chia năm sẻ bẩy như hiện nay nếu đổ tội lên đầu CS mới chỉ đúng có một phần. MT cũng là một nguyên nhân không kém quan trọng trong đó. Bằng chứng là chỗ nào có phân hóa, chỗ đó có người của MT xen vào. Cũng vì có nhiều tiền bạc nên MT đã rất thành công trong các kế hoạch khuynh đảo của họ.

    3. Tung hoạt động dò đường - Các hoạt động có tính cách dò đường của MT trong giai đoạn này nằm trong chính sách dân vận "mưa lâu cứt trâu hóa bùn". MT từng bước, từng bước tung ra một số các hoạt động nhằm mục đích tẩy não và hướng dẫn đồng bào làm quen tư tưởng quên đi qúa khứ để chấp nhận hoà hợp hòa giải với VC. Những sự kiên Hội Chuyên Gia đề nghị mang kỹ thuật về giúp nước, đoàn thanh niên Phan Bội Châu thả bồ câu, chiếu hình phản chiến trong vụ Trần Trường, Liên Minh Vietnam Tự Do đề cao Hồ Chí Minh và đặt CSVN lên hàng số một trong liệt kê xếp loại các thành phần dân tộc, báo đài của MT quảng cáo cổ động các sinh hoạt giao lưu văn nghệ một chiều của CS v.v. đều nằm trong kế hoạch có tính toán của MT. Có thể nói đây chỉ là những trận đánh du kích lẻ tẻ, đánh nhanh và rút nhanh, nhưng xem ra MT cũng đã phần nào thu đạt kết qủa.

    Sau 22 năm, thời kỳ ém quân đã chấm dứt và nay đã đến lúc MT ra quân.

    Ve Sầu Thoát Xác

    Ve sầu thoát xác hay việc thay tên đổi họ của MT chỉ là bước đầu trong một âm mưu to lớn của họ. Theo tài liệu chính thức của đảng, VT được thành lập từ ngày 10-9-1982. Câu hỏi đặt ra là tại sao đảng VT đợi cho mãi đến 22 năm sau, một thời gian khá dài trong một đời người, mới ra mắt xuất hiện? Ông Lý Thái Hùng, tổng bí thư (TBT) VT, giải thích đại ý nói rằng MT là một tập hợp nhiều tổ chức, còn VT chỉ là một đảng thành viên (của MT). Giải thể MT để VT ra đời nhằm huy động toàn bộ sức lực và tâm huyết của toàn dân trong một liên minh dân tộc vào công cuộc vận động canh tân đất nước. Ý của ông TBT là cho rằng vì nằm chung trong một tổ chức nhiều thành viên, nạn "nhiều thầy thối ma" khiến MT khó làm được việc, nên VT phải tách ra hoạt động cho hữu hiệu hơn? Giải thích như thế quyết không ổn. Vấn đề là nếu MT là một tập hợp nhiều tổ chức thì ai có quyền giải thể MT? Một tập hợp nhiều thành viên ít nhất giữa họ phải có một cái kết ước (agreement), và theo cái kết ước này ai là người có quyền giải tán tập thể. Nếu MT tự ý giải thể thì trước khi giải thể, có những tổ chức nào còn đứng chung trong MT, và trong đó, tổ chức nào đồng ý, tổ chức nào không đồng ý? Còn nếu việc giải thể MT là một quyết định đơn phương của VT thì việc làm này của VT mang nặng tính chuyên quyền độc đoán có khác nào việc đảng CSVN giải tán các đảng Dân Chủ và Xã Hội ở trong nước trước đây?

    Nêu vấn đề trên, thực ra chúng tôi không nhằm mục đích đi tìm sự thật, vì sự thật đã quá rõ ràng, mà chỉ có ý chứng minh sự thiếu ngay thẳng và trí trá của những người lãnh đạo đảng VT mà thôi. Ông Lý Thái Hùng nói MT là một tập hợp nhiều thành phần là một chuyện nói láo hoàn toàn. Chuyện lố bịch hơn nữa là nếu MT qủa thực là một tập hợp nhiều thành phần thì tại sao VT lại giải thể MT để tiến hành cho ra đời một tập hợp nhiều thành phần khác? Điều này cũng chính ông Lý Thái Hùng xác nhận khi ông tuyên bố: "VT ra đời huy động toàn bộ sức lực và tâm huyết của toàn dân TRONG MỘT LIÊN MINH DÂN TỘC". Cái Liên Minh Dân Tộc này không lý chỉ có đảng VT solo hay cũng lại gồm nhiều thành phần khác như MT trước đây?.

    Rõ ràng lý do ông Lý Thái Hùng đưa ra trong việc giải tán MT chỉ là chuyện lấp liếm để bịp dư luận, nhưng vải thưa không che được mắt thánh. Phải có một lý do khác, hay nói đúng hơn, một mưu đồ. Chẳng nói thì ai cũng đã biết, kế ve sầu thoát xác này chính là bước khởi đầu nằm trong âm mưu giọn đường về nước của VT để làm ăn với VC. Xin nhấn mạnh, chúng tôi nói "làm ăn với VC" chứ không nói "hòa hợp hòa giải" với VC. Chuyện này chúng tôi sẽ có giải thích sau.

    Có hai lý do khiến MT thi hành kế ve sầu thoát xác vào lúc này.

    1. Dựa trên lý luận - Xưa nay đấu trường chính trị có một nguyên tắc như sau: Không tiêu diệt nổi kẻ thù thì tốt nhất là nên thỏa hiệp với nó. Thí dụ điển hình nhất và cũng là bần tiện, hạ cấp, và thô lỗ nhất là trường hợp Nguyễn Cao Kỳ, nhưng đây chỉ là thí dụ cá nhân. Các đảng phái cũng không đi ra ngoài qui luật đó. Cũng trong chính trị, không có vấn đề hòa hợp hòa giải theo nghĩa thông thường. Các đảng phái chính trị dù đứng bên nhau, nhưng họ luôn tìm mọi cách tiêu diệt nhaụ. Do đó không có chuyện hòa giải giữa họ với nhau. Khi không tiêu diệt được đối phương, các đảng chính trị mới tính chuyện hòa hợp. Thực trạng hiện nay là chỉ có những lê dân bá tánh chống cộng không mưu đồ mới còn chống và miệt mài chống, chống tới chiều, chống qua đêm, và chống luôn tới sáng hôm sau nữa chưa thôi. Trong khi đó, một số nhà khoa bảng, nhiều tổ chức chính trị xôi thịt hoặc gà mờ, trong đó có VT, nghĩ rằng chống không nổi thôi thì hòa hợp hòa giải với CS cho xong. Họ mơ ước và trông đợi VC cho đa đảng để về nước làm đối lập, mà thực tế đối lập với CS trong tình thế hiện nay chỉ là mặt trái của thỏa hiệp, hay đúng hơn là đầu hàng.

    2. Xét trên thực tế - Khát vọng đầu hàng trá hình này thực ra cũng không phải là không có cơ sở. MT tính toán rằng tình hình và bối cảnh Vietnam lúc này có thể nói là thuận lợi nhất cho họ nhẩy vào đánh hôi canh bạc VN. Tính toán này dựa vào các yếu tố sau đây:

    a/ Xu hướng dân chủ hóa toàn cầu đặc biệt là tại những nước CS còn sót lại, là một trào lưu không thể đảo ngược.

    b/ Áp lực của Trung Cộng càng ngày càng đè xuống Hanoi cho đến một lúc nào đó rất gần đây thôi, những chiếc đầu bình vôi và cứng cỏi nhất của bọn lãnh đạo VC cũng phải ý thức rằng chúng đã đến bước đường cùng nên buộc phải chấp nhận cởi trói hoặc chết. Để tìm đường thoát thân, khôn ngoan và an toàn nhất cho chúng là phải chấp nhận đa đảng để trút trách nhiệm cho người khác rồi lui về hưởng thụ với túi bạc đã đầy ắp.

    c/ Nạn phân hóa trong cộng đồng tỵ nạn đã tới mức khiến hầu như mọi người đều chán nản buông xuôi, không còn thiết tha với công cuộc chống cộng nữa. Đây là yếu tố cơ bản để bọn lãnh đạo Hanoi tin rằng dù có đa đảng chúng cũng không sợ bị trả thù. Trong bối cảnh này, sự ra đời của một tổ chức chính trị thực dụng như VT phải được đánh gía là đúng, hoàn toàn đúng.

    Để đạt mục đích trở về nước làm đa đảng, MT phải xử dụng kế ve sầu thoát xác này. Lý do rất dễ hiểu. Thử hỏi, nếu VT giữ nguyên danh xưng Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Vietnam với cương lĩnh lật đổ công sản bằng võ lực thì liệu CS có chấp nhận cho họ về trong nước mà lập đảng không? Vì thế, MT buộc phải thay đổi thân phận, trở thành đảng VT với cương lĩnh là chỉ dùng nước bọt (không dùng súng đạn), để canh tân đất nước. Như thế nghe mới lọt tai.

    Đa đảng hiện nay tại Vietnam thì không có, nhưng trước kia thì đã có rồi. Đó là các đảng Dân Chủ và Xã Hội. Thực tế cho thấy, các đảng Dân Chủ và Xã Hội tại VN đều là các chi nhánh đảng CS trá hình, vì người lãnh đạo các đảng đó đều là đảng viên công sản được biệt phái. Từ đó suy ra, điều kiện tất yếu để được lập đảng tại VN là người lãnh đạo phải là đảng viên CS. Sự thể đưa đến kết luận là đa đảng ở VNCS nếu có thì chỉ là đa đảng bịp, và đối lập chỉ là đối lập cuội cho vui mà thôi. Tuy nhiên việc này xem ta không khó đối với VT, vì VT đã có ông TBT Lý Thái Hùng rồi. Nếu mai ngày VT có được cho phép trở về hoạt động thì thực tế là về góp vốn làm ăn với VC, hay nói một cách mầu mè là canh tân đất nước, chứ không thể nói là làm đối lập được.

    Màn Xiệc Hào Hứng

    Có một chi tiết trong tuồng ve xầu thoát xác, tuy là vụn vặt, nhưng nếu đã nói đến lập danh thì nó lại trở thành đáng quan tâm. Đó là sự tréo cảng ngỗng trong cái danh xưng chính thức của VT. Thật thế, MT đổi thành Việt Nam Canh Tân Cách Mạng đảng xem ra có điều gì không được ổn. Rõ ràng là có vấn đề. Hai chữ Canh Tân và Cách Mạng là hai từ hán nôm. Hiện nay hai chữ này đã trở thành "quốc ngữ chữ nước ta" rồi. Ai cũng hiểu cả, chẳng cầu đến các ông khoa bảng. Đối với lớp hậu sinh nếu cần cho chúng hiểu, chỉ việc dịch sang tiếng Mỹ là xong ngay. Thế mà các ông chóp bu của VT phần lớn là những tay chữ nghĩa bề bề, bằng cấp cùng mình, sao lại có chuyện tréo cẳng ngỗng đến thế này được? Theo ngu ý thì canh tân nghĩa là sửa sang, làm mới những gì đã cũ, đã lỗi thời. Còn cách mạng là bỏ đi cái cũ đã hư hỏng và thay thế bàng cái khác tốt hơn. Chỗ khác nhau của hai từ này một đàng thì giữ lại cái cũ, chỉ sửa chữa nó thôi. Còn một đàng thì bỏ hẳn đi cái cũ và thay thế bằng cái khác hoàn toàn. Hai chữ, hai ý nghĩ khác hẳn nhau như vậy làm thế nào cùng đứng chung để chỉ cùng một mục đích được? Đã canh tân thì làm sao còn cách mạng. Ngược lại, đã cách mạng rồi thì đâu còn cần đến canh tân làm gì?

    Nói đi thì cũng còn phải nói lại. Chữ nghĩa có sai đối với VT không thành vấn đề. Vấn đề chính là mục đích mà chữ nghĩa nhắm tới, đó là được xí phần tại VN, hay canh tân VN cũng thế. Phải thành thực nhìn nhận rằng VT đẻ ra kế Ve Sầu Thoát Xác này là chuyện đáng khâm phục. Đáng phục ở chỗ kế hoạch chứa đựng rất nhiều điều mơ hồ, nhưng đồng thời lại cũng rất sáng nghĩa. Tài xử dụng thuật ngữ chính trị ở đây thật sự đã tới mức thần thông. Nó vừa bịt mắt được những người cần che dấu, lại vừa minh thị nói cho người muốn nghe hiểu được vấn đề. Những hành động và những văn kiện phổ biến trong buổi ra mắt đảng VT tại Đức đưa đến hai kết luận sau đây:

    1. VT đoạn tuyệt với qúa khứ

    a/ Chứng minh 1. Đọc toàn bộ các bài diễn văn chính thức, các bài tường thuật buổi lễ ra mắt, người ta không hề thấy các từ ngữ quen thuộc như "chống cộng" hay "giải thể chế độ CS". Sự kiện này cho thấy là đảng VT đã hoàn toàn từ bỏ chủ trương chống cộng hay đối kháng, quay sang đối lập với CS, dù chi" là đối lập cuội .

    b/ Chứng minh 2. VT trong buổi ra mắt, đã không tổ chức lễ truy điệu cố lãnh tụ Hoàng Cơ Minh và các đồng chí của ông đã hy sinh trong 3 cuộc Đông Tiến. Xét về mặt tình cảm đồng đội cũng như cả về mặt nghi lễ thì việc làm lễ truy điệu trong buổi lễ ra mắt của VT là chuyện bắt buộc. Sự bỏ qua nghi thức quan trọng này, dù vô tình hay cố ý, cũng chứng tỏ các lãnh đạo đảng VT đã chôn vùi lương tri và lương tâm của họ. Không tưởng niệm chính là để nói lên quyết tâm đoạn tuyệt với qúa khứ vậy.

    2. Gởi tín hiệu đầu hàng - Người ta dễ dàng nhìn thấy được việc đảng VT gởi những tín hiệu đầu hàng CS qua những lời nói và việc làm sau đây của ho :

    a/ Việc chọn địa điểm ra mắt - Một câu hỏi được nhiều người nêu trên các phương tiện truyền thông là tại sao VT không ra mắt tại đâu khác, nhất là những nơi có đông đồng bào tỵ nạn, mà lại kéo nhau qua bên Đức ra mắt tại đó? Lý do chính là vì ở Đức có nhiều Việt kiều, thần dân của chế độ CS Hanoi. Cái lợi nhỏ là VT dễ dàng nhận được sự ủng hộ và tránh được bị chống đối. Ra mắt tại nơi có đông Việt kiều cư ngụ, VT muốn nói lên ý nghĩa họ là người Vietnam sinh sống ở nước ngoài, là Việt kiều, chứ không phải là người Vietnam tỵ nạn CS. Đó mới là lợi ích lớn, nó tô điểm cho VT cái tư thế chính danh. Ít ra VT cũng còn biết rằng sự xác nhận lý lịch và thế đứng này quan trọng cho một đảng chính trị. Nhưng chính danh hay ngụy danh thì còn phải đợi xem những việc làm sau này của VT mới biết được.

    b/ Tự nguyện đặt dưới sự lãnh đạo của các tổ chức khác - Như trên chúng tôi đã viết, trong qúa khứ CSVN đã có thời cho đa đảng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đây chỉ là những chi bộ CS trá hình, vì lãnh tụ của các đảng phái đó đều là đảng viên đảng CS. Chủ trương của VT tự nguyện đặt đảng dưới sự lãnh đạo của các tổ chức khác phải chăng ngầm bắn tiếng chấp nhận qui luật đa đảng của CS? Nghĩa là sẵn sàng chấp nhận trở thành chi nhánh của đảng CS với lãnh đạo là người của CS biệt phái?

    c/ Không chủ trương nắm quyền bằng mọi giá - Điều này có nghĩa là không chủ trương lật đổ đảng CS bằng bất cứ phương tiện nào. Đây phải hiểu là một tín hiệu nhắm trấn an bọn VC đang cầm quyền.

    d/ Soi sáng sự thật của lịch sử cận đại - Nếu CSVN bị người dân lật đổ như các chế độ CS Đông Âu thì chắc chắn lịch sử VN cận đại sẽ không cần gì phải soi sáng, vì sự thật của lịch sử dân tộc đã rõ ràng như ban ngày được viết trên giấy trắng mực đen cả rồi: Hồ Chí Minh là tên tội đồ của Dân Tộc, và đảng CSVN thuần túy là một bọn bán nước hại dân. VT định xét lại sự thật của lịch sử nào? Có phải là muốn rửa tội cho Hồ Chí Minh và đảng CS của y không? Chẳng cần trả lời thì âm mưu của VT cũng đã hiện nguyên hình từ lâu. Thật ra, Liên Minh VN Tự Do, bộ phận ngoại vi của VT đã làm điều đó rồi qua việc họ xác nhận công trạng của Hồ Chí Minh và xếp CSVN đứng hàng số một trong các thành phần dân tộc. Việc này đã bị cộng đồng tỵ nạn chống đối quyết liệt một thời gian.

    e/ Quan khách đến từ VN dự lễ ra mắt - Hẳn bạn đọc khó có thể tưởng tượng được chuyện người trong nước xuất ngoại để tham dự lễ ra mắt của một đảng phái chính tri của người Việt rồi lại ung dung trở về mà không bị làm khó dễ gì? Thật là Tề Thiên Đại Thánh, nhưng lại là chuyện có thật, được VT công bố và tường thuật rõ ràng. Nếu những vị khách đó không phải là đảng viên CS, một ngàn phần trăm là họ đã không thể yên ổn khi trở về. Chắc chắn cũng chẳng có người dân nào có gan cóc tía dám liều mạng như vậy. Còn nếu những vị "khách quí" đó trở về bình an vô sự thì phải là thứ khách đặc biệt, và họ là ai thì có lẽ người viết không cần đoán mò. Nên coi đây là con dấu APPROVED VC đóng trên đơn xin việc của đảng VT. Chỉ có cách giải thích duy nhất này mà thôi.

    Bước Ra Quân

    Kế ve sầu thoát xác mới chỉ là bước đầu của kế hoạch tổng nổi dậy hòa bình. Bước kế tiếp là bước "Ra Quân". Bước này mới thực sự là bước quan trọng có tính quyết định. Ý thức điều đó nên các đầu lãnh của VT mới đẻ ra sáng kiến tổ chức thật long trọng rình rang ngày 30-4. Họ thừa biết nếu tự mình đứng ra tổ chức thì chẳng có ma nào theo, nên mới tính kế "bổn cũ soạn lại" để xài . Không biết bên trong VT mời chào ra sao nhưng họ phổ biến một danh sách trên một trăm các nhân vật tai to mặt lớn và các đoàn thể trong cái gọi là ban cố vấn cho họ. Cái trò mượn đầu heo nấu cháo này Mặt Trận trước đây đã diễn đi diễn lại nhiều lần rồi nên xem ra hết linh và bị phản ứng ngược. Thực ra nếu chỉ có chuyện đổi tên đảng rồi hè nhau với các đoàn thể khác tổ chức ngày Quốc Hận thôi thì có lẽ ai nấy cũng hỷ xả bỏ qua cho xong chuyện. Nhưng VT muốn chơi nổi, và hẳn nhiên là có âm mưu. Họ tự tiện đổi tên Ngày Quốc Hận thàng Ngày Tự Do Cho VN, và dự định tổ chức một cuộc biểu dương lực lượng vĩ đại kéo đến trụ sở Quốc Hội tại Washington DC. Cuộc biểu dương lực lượng đó đặt tên Mỹ là Freedom March to Capitol Hill.

    Ngày 30-4, như mọi người đều biết, từ ba chục năm qua, vốn được toàn thể đồng bào tỵ nạn gọi là ngày Quốc Hận. Thế nhưng Việt Tân lại xập xí xập ngầu đổi thành Ngày Tự Do Cho Vietnam. Ý định đó vừa đưa ra đã bị lật tẩy và bị chống đối rất quyết liệt. Bị chống đối quá , ngày "Tự Do Cho VN" lại một lần nữa được phù phép biến hóa thành ngày "Đấu Tranh Cho Tự Do VN". Cũng vẫn còn bị chống, VT chơi trò nửa nạc nửa mỡ, vừa Quốc Hận, vừa Tự Do Cho VN. Như trên đã nói, chủ điểm của ngày này là một cuộc tuần hành vĩ đại của người Việt tại thủ đô nước Mỹ, dĩ nhiên do Việt Tân tổ chức và hướng dẫn. Có hai câu hỏi đặt ra là: thứ nhất, tại sao phải đổi Ngày Quốc Hận thành ngày Tự Do Cho VN. Và thứ hai, diễn hành tới điện Capitol để làm gì?

    1. Ngày Quốc Hận thành Ngày Tự Do Cho VN - Chuyện tưởng niệm ngày quốc hận từ mấy chục năm nay đã trở thành nếp sống của cộng đồng, và cái nếp sống này đã có cái lý đương nhiên của nó. Đó là để nhắc nhở toàn dân VN, nhất là những người tỵ nạn tại hải ngoại phải luôn ghi nhớ biến cố đau thương tang tóc này của lịch sử dân tộc. Ghi nhớ lịch sử đất nước để ôn cố tri tân là truyền thống tốt đẹp của mọi dân tộc. Lấy chuyện Do Thái làm một thí dụ biện lý. Bức tường cổ đền thờ Jerusalem chỉ là một mảng tường xây cũ kỹ của ngôi đền thờ đã đổ nát. Nó ghi dấu một trang sử mất nước của người Do Thái và dân tộc này phải phân tán khắp nơi trên thế giới. Các chánh quyền Do Thái ngày nay họ có thừa phương tiện và khả năng phá bỏ mảng tường đổ nát kia đi và thay vào đó, xây một đền thờ nguy nga tráng lệ hơn gấp bội cho dân tộc của họ. Thế mà họ vẫn không làm, mà cứ giữ nguyên trạng mảng tường cũ với dụng ý nhắc nhỏ người dân Do Thái đừng quên mối nhục mất nước của họ. Đó là cái lý của người Do Thái. Một chuyện khác bên Tầu, Chu Nguyên Chương, người sáng lập nên triều đại nhà Minh, nguyên là một tên ăn mày. Khi trở thành hoàng đế nước Tầu khổng lồ, nhà vua giữ lại chiếc bị gậy và bộ đồ ăn xin ngày trước, treo thường trực trong cung điện cho con cháu và triều thần ra vào được thấy. Tại sao người Do Thái và người Tầu làm thế? Xin thưa những chí lớn thường không quên bài học qúa khứ để tự rèn luyện mình, và chỉ có những nhà chính trị có tầm nhìn xa mới thấy được xa hơn đầu mũi. Những ông đầu mục của đảng Việt Tân không phải là Sharon ngày nay, cũng chẳng phải là Chu Nguyên Chương ngày xưa. Họ chỉ là Việt Tân, do đó không thể hiểu nổi chuyện thiên hạ nên mới cứ loay hoay thay tên đổi họ hoài, hết tên mình đến tên đảng, và còn đến cả tên biến cố của Dân Tộc nữa. Trên đời chỉ có hạng đầu trộm đuôi cướp mới cần phải thay tên đổi họ để trốn tránh pháp luật. Và chỉ có CS mới đổi đi đổi lại tên đảng để bịp thiên hạ mà thôi. Các lãnh tụ VT nếu có tư cách sao lại bắt chước Hồ Chí Minh và bọn đầu trộm đuôi cướp? MT Hoàng Cơ Minh nếu đàng hoàng sao lại rập khuôn đảng bịp VC? Ngày Quốc Hận có gì không đúng mà phải đổi thành ngày Tự Do Cho VN?

    Nhưng nghĩ cho cùng thì chuyện thay đổi này chưa hẳn đã là sáng kiến của những bộ óc heo, mà xem ra ẩn chứa một âm mưu thâm độc bên trong. Chuyện đã xẩy ra, VT có những mưu toan thầm kín muốn dấu nhưng không thể bưng bít được. Qua việc đổi danh xưng ngày 30-4, VT muốn nhắm hai mục đích. Thứ nhất, nếu thành công, nghĩa là được đa số đồng bào hưởng ứng, chủ trương xóa bỏ hận thù, quên đi qúa khứ, hướng về tương lai của VT sẽ được chứng minh là đúng. Thứ hai, điều này quan trọng, VT muốn bôi xóa đi hàng chữ "TỴ NẠN CỘNG SẢN" trên lý lịch của những đồng bào Vietnam tại hải ngoại, nạn nhân của ngày 30-4-1975.

    Theo quan niệm của VT thì phải xóa bỏ đi hoàn toàn dấu vết tỵ nạn thì mới dễ dàng hòa nhập với CS được. VC vẫn muốn thế, chúng không nhìn nhận người VN ở nước ngoài như chúng ta là tỵ nạn CS, mà là khúc ruột ngàn dặm của chúng. CS chiếm được miền Nam đã 30 năm, chúng thống nhất được giang sơn, nhưng vẫn không thống nhất được Dân Tộc. Mơ ước thống nhất mọi thành phần dân tộc, CS đã cố gắng rất nhiều nhưng không sao đạt được. CS đã phải vận động cả những tay sai của chúng trong một đại học danh tiếng của Hoa Kỳ giúp thực hiện điều này, nhưng chắc chắn sẽ không thành công. Nay chúng tại nhờ đến bàn tay đảng VT, nhưng một lần nữa chắc chắn sẽ lại thất bại, bởi vì mưu toan của VT vừa ló ra đã bị lật tẩy ngay tức thì. Chỉ việc so sánh hai chủ đề Ngày Quốc Hận của cộng đồng và Ngày Tự Do Cho VN của VT, ta sẽ nhìn thấy rõ ràng âm mưu này vì hai nội dung hoàn toàn khác nhau.

    a/ Khác nhau về lập trường - Chủ đề Ngày Quốc Hận mang sắc thái chống cộng rõ rệt. Đồng bào tỵ nạn chủ trương Ngày Quốc Hận xác tín rõ ràng lập trường không chấp nhận chế độ CS. Trái lại, chủ đề Ngày Tự Do Cho VN của VT gắn liền với ý nghĩa một cuộc vận động đòi hỏi quyền lợi của người dân, không nhắm mục đích chống đối lại phỉ quyền CS.

    b/ Khác nhau về mục đích - Đồng bào tỵ nạn tưởng niệm ngày 30-4 nhằm hun đúc ý chí đấu tranh giải trừ chế độ CS tại quê nhà. Đảng VT với chủ đề Ngày Tự Do Cho VN để kỷ niệm ngày 30-4 nhắm mục đích gì, thật sự không người ngoài nào biết rõ, nhưng nhất quyết không phải là để nâng cao tinh thần chống cộng.

    c/ Khác nhau trên cương vị người chủ trương - Vì lập trường và mục đích khác nhau nên hai bên đứng trên hai cương vị khác nhau. Đồng bào tỵ nạn tưởng niệm ngày 30-4 trên cương vị là những nạn nhân của chế độ CSVN. Trong khi đó VT kỷ niệm 30-4 với chủ đề Ngày Tự Do Cho VN đứng trên cương vị của người dân VN đối với phỉ quyền VC mà họ ngầm thừa nhận.

    2. Mục đích March To Capitol Hill - Nhiều người thắc mắc là tại sao lại "March to Capitol Hill"? Cái đó mới thật là lạ, nhưng thực ra chẳng có gì lạ cả. Nên nhớ điện Capitol là nơi quyết định tất cả các chính sách đối nội cũng như đối ngoại của nước Mỹ. Tập hợp được một rừng người kéo đến điện Capitol để nói lên nguyện vọng, đó là cách thức vận động hữu hiệu nhất ở Hoa Kỳ này. Các ông Mẽo đâu cần biết ất giáp gì, thấy VT được quần chúng ủng hộ chắc chắn sẽ "endorse" VT thôi. Trước đây nghe đâu đã có lần ông Bush cha kiếm đỏ con mắt mà không tìm ra được một người Việt có thể đại diện cộng đồng để ông nói chuyện. Nay ông Bush con có muốn nói gì thì đã có sẵn VT đấy rồi. Cho đến khi nào Mỹ và CSVN thực sự bắt tay vào làm diễn biến hoà bình thì với credit đã chôm chĩa được, VT chắc chắn sẽ là nhân tuyển thích hợp nhất được cả hai bên chấp nhận.

    Có một kinh nghiệm lịch sử mà người viết không thể không nhắc lại ở đây. Ngày 19-8-1945, một cuộc mít tinh đông hàng trăm ngàn người diễn ra trước nhà hát lớn Hanoi để ủng hộ chính phủ. Bấy giờ VN không có chính phủ nào khác ngoài chính phủ Trần Trọng Kim ở Huế. Đây là cuộc biểu tình tự phát của dân chúng Hà Thành. Có chừng vài chục tên cán bộ Vẹm trà trọn len lỏi vào trong rừng người. Chúng lợi dụng lòng hăng say và sự dốt nát của đồng bào tung ra dăm ba biểu ngữ, bắn vài ba phái súng lục thị uy, phất cờ đỏ sao vàng, cướp máy phóng thanh hoan hô Hồ Chí Minh. Thế là Vẹm cướp được chính quyền ngon ơ. Trò chôm credit của Vẹm đã thành công.

    Như đã nói ở trên, cuộc tuần hành Freedom March to Capitol Hill do VT khởi xướng, nhưng vì sợ không có ma nào tham gia, VT đã phải mời chào những tổ chức và cá nhân có uy tín trong cộng đồng tham dự. Trên nguyên tắc tổ chức là tổ chức chung, VT chỉ là một thành phần. Nếu cuộc diễn hành thành công và VT sẽ giữ mãi vai trò kéo màn nhắc tuồng thôi thì chắc sẽ không có gì để nói. Nhưng việc đời đâu có dễ dàng thế. Với bản chất chuyên chôm credit của VT, không biết rồi sự thể sẽ ra sao. Người viết sợ rằng lịch sử ngày 19-8-45 sẽ lại tái diễn.

    Lịch Sử Tái Diễn

    VC thoạt đầu có danh xưng chính thức là đảng Cộng Sản Đông Dương. Khi thiên hạ nhận ra chúng là lũ siêu lưu manh bịp bợm, chúng bèn đổi tên thành đảng Lao Động Vietnam. Sau khi chiếm được quyền hành trong tay, đảng Lao Động hết còn muốn lao động, mà chỉ biết ngồi mát ăn bát vàng. Bị dân chửi đến tắt bếp, chúng phải đổi lại tên cũ là đảng CS, nhưng không còn là Đông Dương, mà là Vietnam, đảng CSVN. Bây giờ xem ra lịch sử lại tái diễn màn đổi tên đổi họ này. MT Hoàng Cơ Minh khi đã hết sáng (minh là sáng) nên đổi thành VT. Có lẽ mai này VT không còn mới (tân là mới) nữa, VT sẽ lại trở về với cái tên cũ chưa biết chừng. Nhưng có thể cũng giống như VẹM, nghĩa là trở lại na ná giống tên cũ mà thôi, chứ không giống hoàn toàn tên cũ. Cộng sản Đông Dương qua chặng đường hóa kiếp thành ra Cộng sản Vietnam. Cũng vậy, Mặt Trận qua chặng đường hóa kiếp có thể sẽ thành Mặt Mo, Mặt Mẹt, Mặt Giầy, Mặt Mâm, Mặt Thịt, Mặt Thớt, Mặt Trơ Trán Bóng, hay Mặt gì gì khác hay hơn? Người viết xin mượn ước đoán này để kết thúc bài viết. Kiếp ve sầu, lột xác trở thành sâu bọ là bản tính trời sanh của nó.

    Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất




    Sunday, January 19, 2014

    Tưởng Niệm 40 Năm Hải Chiến Hoàng Sa 1974-2014

    Sử Gia Trần Gia Phụng Thuyết Trình Về Hải Chiến Hoàng Sa
    TRẬN HOÀNG SA (19-1-1974) TRONG CHIẾN TRANH LẠNH TOÀN CẦU

    (Trình bày ngày 5-01-2014 tại Sacramento và ngày 18-01-2014 tại Orange County.)



    1. CHIẾN TRANH LẠNH

    Chiến tranh lạnh bắt đầu từ năm 1946, sau thế chiến thứ hai (1939-1945), là tình trạng tranh chấp căng thẳng, gay cấn và quyết liệt giữa hai khối tư bản và cộng sản (CS). Nói trắng ra, đây là cuộc tranh chấp giữa hai tập đoàn quyền lợi tư bản và CS. Hai tập đoàn quyền lợi nầy đối chọi nhau về tất cả các mặt, nhưng hai bên không trực tiếp đánh nhau vì các cường quốc đứng đầu hai khối cùng thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy ra, thì cả hai bên đều thiệt hại nặng nề.
    Chiến tranh lạnh, có một số đặc điểm như sau:

    1. Mỗi khối không phải là một tổ chức thống nhứt, không có chỉ huy chặt chẽ.
    2. Các quốc gia trong mỗi khối vẫn duy trì quyền lợi riêng tư, nên trong nội bộ mỗi khối, các quốc gia vẫn xảy ra tranh chấp quyền lợi với nhau, nhiều khi không kém phần quyết liệt. Ví dụ giữa Hoa Kỳ và Pháp trong khối tư bản, giữa Liên Xô và Trung Cộng trong khối CS.
    3. Quyền lợi quốc gia của các nước luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh và theo thời gian nên chính sách đối ngoại cũng thay đổi theo thời gian. (Ví dụ Hoa Kỳ, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng.)
    4. Các nước nhỏ yếu bị các nước cường quốc lợi dụng. Các cường quốc dùng các nước nhỏ để trao đổi quyền lợi giữa các cường quốc. 5) Trong chiến tranh lạnh, có một số tranh chấp địa phương, bùng nổ thành những điểm nóng, mà các cường quốc trong hai khối đứng về hai phía đối đầu nhau.

    Từ khi xảy ra chiến tranh lạnh trên thế giới năm 1946, tại Á Châu, hai điểm nóng quan trọng là chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Việt Nam (1960-1975). Trong cả hai cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam, Hoa Kỳ đều ủng hộ hai miền Nam tự do, chống lại hai miền Bắc CS, nhưng Hoa Kỳ áp dụng hai chiến lược khác nhau tại hai cuộc chiến nầy.

    2. CHIẾN LƯỢC HOA KỲ TẠI NAM VIỆT NAM: PHÒNG TH

    Tại Triều Tiên, Hoa Kỳ tấn công Bắc Triều Tiên để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức Hoa Kỳ lấy công làm thủ.

    Tại Việt Nam, Hoa Kỳ không tấn công Bắc Việt Nam mà chỉ phòng thủ ở Nam Việt Nam, tức Hoa Kỳ lấy thủ làm thủ.

    Cả hai nước Triều Tiên và Việt Nam đều có biên giới giáp ranh với Trung Cộng ở phía bắc. Khi quân Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên năm 1950, quân đội Hoa Kỳ cùng quân đội Liên Hiệp Quốc giúp Nam Triều Tiên, đánh đuổi quân Bắc Triều Tiên đến sông Áp Lục (Yalu River), là biên giới với Trung Cộng. Quân Trung Cộng tràn qua giúp Bắc Triều Tiên. Sau ba năm đánh nhau qua lại, hai bên đình chiến năm 1953 ở vĩ tuyến 38, chia hai nước Triều Tiên.

    Vì vậy, khi tham chiến ở Việt Nam năm 1965, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.) Hoa Kỳ lo ngại nếu đánh ra Bắc Việt Nam, thì Trung Cộng sẽ can thiệp như ở Triều Tiên, nên tại Nam Việt Nam, Hoa Kỳ chủ trương chỉ phòng thủ ở Nam Việt Nam, phía nam đường phi quân sự ở vĩ tuyến 17, không tấn công ra Bắc Việt Nam, tránh đụng chạm đến Trung Cộng.

    3. CHÍNH SÁCH KHÔNG CHIẾN THẮNG

    Chiến lược phòng thủ của Hoa Kỳ có thể tóm gọn qua câu nói của đô đốc Grant Sharp, tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương 1964-1968: “Chính phủ chúng ta lập lại để làm rõ rằng những mục tiêu của chúng ta trong cuộc tranh chấp ở Việt Nam là giới hạn. Chúng ta không buộc phải tiêu diệt chế độ Hà Nội, không cưỡng ép dân chúng Bắc Việt Nam phải chấp nhận một hình thức chế độ khác và cũng không tàn phá Bắc Việt Nam. Chúng ta đơn giản muốn Bắc Việt Nam ngưng điều khiển và ngưng yểm trợ phiến quân Việt cộng ở miền Nam và đưa lực lượng của họ về nhà. Chiến lược điều khiển chiến tranh của chúng ta phản ảnh những mục tiêu giới hạn nầy.” (Nguyên văn: “Our Government has repeatedly made it clear that our objectives in the Vietnam conflict are limited. We are not ought to destroy the Hanoi regime, or to compel the people of North Vietnam to adopt another form of government, nor are we out to devastate North Vietnam. We simply want North Vietnam to cease its direction and support of the Vietcong insurgency in the South and take its forces home. Our strategy for the conduct of the war reflects these limited objectives.”) (William D. Pawley & Richard R. Tryon, Jr., “Why the Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in 1990”, http://www.gratisbooks.com/, chữ khóa: “Getting bogged down in Vietnam”.)

    Do chủ trương chiến tranh giới hạn (limited war), bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra những “quy tắc tham chiến” (rules of engament) tức quy tắc quân đội ứng xử khi tham chiến ở NVN như một thứ cẩm nang, nhằm ngăn ngừa và giới hạn những ngẫu biến ở biên giới Hoa Việt hay vùng phi quân sự vĩ tuyến 17.

    Quy tắc tham chiến hạn chế các mục tiêu tấn công, và hạn chế các hoạt động của Không quân, giảm hỏa lực làm giảm sức mạnh quân đội Hoa Kỳ. Ai vi phạm, sẽ bị trừng phạt nặng. (ví dụ trường hợp đại tướng John Lavelle năm 1972.)

    “Những quy tắc nầy bảo đảm rằng chúng ta không thể thắng và cộng sản cũng không thể thất bại.” (Nguyên văn: “These rules insured that we could not win and that the communists could not lose.”) (Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam – The Untold Story, University of Toronto, School of Continuimg Studies, The Moral Liberal. )

    Thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa Barry Goldwater tuyên bố tại Taipei (Đài Bắc) khi đến Đài Loan viếng tang tổng thống Tưởng Giới Thạch, gọi đây là “chính sách không chiến thắng” (“no win policy”). (The Bryan Times, Thursday, April 17-4-1975.)

    4. CHIẾN LƯỢC PHÒNG THỦ KHÔNG HỮU HIỆU VỚI KHỦNG BỐ VÀ DU KÍCH

    Trong chiến tranh Nam Việt Nam, cộng sản Việt Nam sử dụng chiến thuật khủng bố và du kích. Quân du kích CS khủng bố, đánh phá khắp nơi trên toàn quốc, gây thiệt hại mỗi ngày một ít, mỗi nơi một ít, nhưng “tích tiểu thành đa”, lâu ngày làm hao mòn quân đội Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ.
    Thật rất khó chống lại du kích chiến, nhất là trong địa hình rừng núi như Việt Nam. (Ngày nay, người Mỹ tận dụng hết khả năng quân sự vẫn không chống lại được du kích Al-Qaeda, Taliban, Afghanistan.)

    Muốn chận đứng du kích CS ở Nam Việt Nam, chỉ có cách duy nhứt là chận đứng ngay từ gốc, tức là hậu phương lớn của du kích CS, là Bắc Việt Nam, tức phải tấn công Bắc Việt Nam, mới chận đứng được du kích CS trên toàn cõi Nam Việt Nam. Như Hoa Kỳ đã từng đánh ra Bắc Triều Tiên trước đây mới chận đứng hẳn du kích CS ở Nam Triều Tiên.

    Vì không đánh ra Bắc Việt Nam để chận đứng du kích từ tận gốc, mà chỉ mở những cuộc hành quân bình định ở Nam Việt Nam và ngồi chờ du kích đến quấy phá mới phản công, nên dù trang bị tối tân, quân đội Nam Việt Nam và Hoa Kỳ không thể tiêu diệt hết khủng bố và du kích của CS ở Nam Việt Nam.

    Hoa Kỳ còn lo ngại quân đội Nam Việt Nam bất ngờ tấn công ra Bắc Việt Nam để giải tỏa áp lực của CS ở Nam Việt Nam, nên Hoa Kỳ ngăn chận tất cả những đề nghị từ phía Việt Nam Cộng Hòa tấn công ra Bắc Việt Nam. Ví dụ trong cuộc mít-tin tại Sài Gòn ngày 19-7-1964, kỷ niệm Ngày Quốc hận [ngày ký kết Hiệp định Genève 20-7-1954], trung tướng Nguyễn Khánh hô hào Bắc tiến. Đại sứ Maxwell Taylor và các viên chức Mỹ có mặt tại cuộc mít-tin tránh né không bình luận. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 42.) Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi gởi thư lên chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đề nghị Bắc tiến; đồng thời tướng Thi còn gởi thư cho đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn công khai đề nghị Bắc tiến. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319=344). Năm 1972, trong mùa hè đỏ lửa. quân Bắc Việt Nam tràn qua vùng phi quân sự ở vĩ tuyến 17. Quân đoàn I đề nghị đưa quân vượt qua vĩ tuyến 17 đánh ngược ra Bắc. Được tin nầy, phía cố vấn Hoa Kỳ liền giới hạn cấp số xăng, cấp số đạn và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh Việt Nam Cộng Hòa nhằm chận đứng cuộc Bắc tiến. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas, 2005, tr. 103.)

    Với chiến lược phòng thủ tại NVN, quân đội Hoa Kỳ không thất bại, nhưng quân đội Hoa Kỳ cũng không chiến thắng, dậm chân tại chỗ. Trước tình hình nầy, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ quyết định thay đổi sách lược.

    5. HOA KỲ THAY ĐỔI VÌ LÝ DO QUỐC NỘI

    Chiến tranh kéo dài, dân chúng Hoa Kỳ mệt mỏi, chán nản, nổi lên phản đối. Phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ lên mạnh chỉ sau vài năm Hoa Kỳ tham chiến. Trong niên khóa 1969-1970, xảy ra 1,800 cuộc biểu tình, 7,500 người bị bắt giữ, 247 vụ đốt phá, 462 người bị thương mà 2/3 là cảnh sát và 8 người chết. Từ tháng 1-1969 đến tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, hay âm mưu ném bom, hay đe dọa ném bom liên hệ đến chiến tranh, gây thiệt hại 21 triệu Mỹ kim, hàng trăm người bị thương và 43 người chết. (Richard Nixon, No more Vietnams, London: W. H. Allen, 1986, tr. 126.)

    Phong trào phản chiến Hoa Kỳ lên cao vì trong thời điểm nầy, ngoài quân đội chuyên nghiệp, Hoa Kỳ còn có binh sĩ động viên. Thân nhân binh sĩ động viên phản đối mạnh mẽ chiến tranh vì sợ con em phải bỏ mạng trên chiến trường Việt Nam. (Luật động viên ở Hoa Kỳ được bãi bỏ ngày 27-1-1973. Ngày nay, quân đội Hoa Kỳ chỉ gồm toàn quân nhân chuyên nghiệp.)

    Tin tức phản chiến, chống chiến tranh Việt Nam, được các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ đưa lên truyền hình, chiếu liên tục suốt ngày làm nản lòng dân chúng Hoa Kỳ. Có thể nói phong trào phản chiến Hoa Kỳ là đồng minh hữu hiệu và là nội tuyến đắc lực của Công sản Việt Nam. Các chính trị gía và các đảng phái muốn đắc cử, phải điều chính sách lược để thu phục lòng dân Hoa Kỳ, mới được phiếu bầu.

    6. HOA KỲ THAY ĐỔI VÌ LÝ DO QUỐC TẾ

    Vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, các chính trị gia Hoa Kỳ dựa trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), như sau: “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiễn nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít võ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.” (Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334.)

    Từ đó, giới chính trị Hoa Kỳ đưa ra nhận định mới. “Hy sinh Nam Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Nam Việt Nam mà ít hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.” (Roger Warner, sđd. tr. 336.) Lúc đó, cuộc tranh chấp Liên Xô – Trung Cộng càng ngày càng gay gắt. Hoa Kỳ muốn khai thác mối chia rẽ nầy, lôi kéo Trung Cộng về phía Hoa Kỳ.

    Bill Sullivan, thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, trả lời một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy nghe ra có vẽ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Đặc biệt nữa là người Trung Quốc đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Quốc tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.” (Roger Warner, sđd. tr. 336.)

    Vì vậy, lúc đó người Hoa Kỳ nghĩ rằng: “Thua trận ở Việt Nam lành mạnh cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế. Đó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Đông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.” (Roger Warner, sđd. tr. 333.)

    Như trên đã viết, dù là tư bản hay cộng sản, quyền lợi của mỗi nước luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh. Trước đây, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản nhất là Trung Cộng. Nay cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ tìm cách rút lui khỏi Việt Nam. Năm 1969, tổng thống Richard Nixon đưa ra kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh (Vietnamization), là một mỹ từ để chỉ việc chuyển gánh nặng quân sự cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rồi Hoa Kỳ rút quân đội Hoa Kỳ về nước.

    Đồng thời, Hoa Kỳ nhận thấy hố chia rẽ giữa Trung Cộng và Liên Xô càng ngày càng sâu rộng. Hoa Kỳ tìm cách thân thiện với Trung Cộng, vừa nhờ Trung Cộng áp lực với Bắc Việt Nam để Hoa Kỳ rút quân, đem tù binh Hoa Kỳ về nước, vừa lôi kéo Trung Cộng về phía Hoa Kỳ, tách xa Liên Xô.

    7. TRUNG CỘNG: THAM VỌNG XUỐNG ĐÔNG NAM Á

    Các lãnh tụ Trung Cộng không khác gì các vua chúa Trung Hoa ngày xưa, luôn luôn nuôi mộng xâm lăng Việt Nam để tràn xuống Đông Nam Á. Lịch sử cho thấy quân đội Trung Hoa thời quân chủ không thể chiến thắng được quân đội Đại Việt. Vì vậy, lần nầy, Trung Cộng thay đổi sách lược, nhìn ra Biển Đông nhắm đến Hoàng Sa, là quần đảo của Việt Nam trong Biển Đông, nằm trên thủy lộ chiến lược từ eo biển Malacca ra Thái Bình Dương.

    Nguyên từ 24-2 đến 29-4-1958 tại Genève, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về luật biển. Do những tranh cãi tại Genève về chiều rộng của hải phận quốc gia và hải phận quốc tế, Mao Trạch Đông tuyên bố ngày 28-6-1958: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.) Phát biểu nầy là khởi đầu cho chủ trương mới của Trung Cộng về Biển Đông và Thái Bình Dương.

    Năm tháng sau, ngày 4-9-1958, Quốc hội Trung Cộng đưa ra bản tuyên cáo về hải phận, gồm 4 điều. Trong 4 điều nầy, Trung Cộng đưa ra hai điểm quan trọng: 

    1. Xác định hải phận Trung Cộng rộng 12 hải lý.
    2) Xác định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc lãnh thổ Việt Nam, là của Trung Cộng (điều 1 và điều 4).

    Đáp lại tuyên cáo ngang ngược nầy, Phạm Văn Đồng thủ tướng Bắc Việt Nam, thừa lệnh Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản Việt Nam, gởi cho Trung Cộng công hàm ngày 14-9-1958, tán thành bản tuyên cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Cộng, tức Bắc Việt Nam tán thành chuyện hải phận 12 hải lý của Trung Cộng, đồng thời tán thành luôn rằng các quần đảo Hoàng Sa,và Trường Sa, thuộc lãnh thổ Trung Cộng. Đây là tội phản quốc lớn lao nhất trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim.

    Năm 1963, trong cuộc họp với đại diện đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng Cộng Sản Việt Nam), Mao Trạch Đông nói: “Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.” Tháng 8-1965, trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore…” (Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, Hà Nội: NXB Sự Thật, 10-1979, Chương “Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc”.) Trong khi đó, Hoa Kỳ xích lại với Trung Cộng từ năm 1971.

    8. HOA KỲ – TRUNG CỘNG XÍCH LẠI GẦN NHAU

    Tháng 3-1969, chiến tranh giữa Liên Xô và Trung Cộng bùng nổ ở trên sông Ussuri. Trung Cộng muốn tìm một đồng minh mới để làm đối trọng với Liên Xô. Trong khi đó, Hoa Kỳ đang tìm cách rút lui dần dần khỏi Việt Nam, cũng muốn thân thiện với Trung Cộng để nhờ Trung Cộng áp lực với Cộng sản Việt Nam và tách Trung Cộng ra khỏi Liên Xô. Hai kẻ cựu thù Hoa Kỳ và Trung Cộng nay đều có nhu cầu xích lại gần nhau.

    Sau một thời gian thăm dò, liên lạc, thương thuyết mật giữa các phái đoàn Hoa Kỳ và Trung Cộng, ngày 9-7-1971, Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh. Năm sau, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đi thăm Trung Cộng ngày 21-2-1972. Nixon thông báo cho các lãnh tụ Trung Cộng biết là Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân khỏi Nam Việt Nam, không đòi hỏi Bắc Việt Nam rút quân khỏi Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ không báo cho Việt Nam Cộng Hòa biết.

    Khi Richard Nixon về nước, Chu Ân Lai qua Hà Nội tường thuật cho giới lãnh đạo Bắc Việt Nam. Bắc Việt Nam liền mở cuộc tấn công Nam Việt Nam mạnh mẽ từ tháng 4-1972. (Mùa hè đỏ lửa). Lúc đó, “Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao đổi một “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách 12 dặm kể từ quần đảo Hoàng Sa”.” (Henry A. Kissinger, Ending the Vietnam War, New York: Nxb. Simon & Schuster, 2003, tr. 246. Huy Đức trích lại, Bên thắng cuộc, I: Giải phóng, New York: Osin Book, 2012 , tr. 109.) Đổi lại, Trung Cộng giúp Hoa Kỳ bằng cách áp lực Bắc Việt Nam trở lại thảo luận nghiêm chỉnh tại Hội nghị Paris, nhằm giải quyết chiến tranh Việt Nam.

    Như thế, ngay từ năm 1972, Hoa Kỳ ngầm hứa hẹn đồng ý để cho Trung Cộng tự do hành động ở Hoàng Sa. Trung Cộng chờ đợi cơ hội ra tay. Cuối cùng, Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19-1-1974.

    Cần chú ý về thời điểm nầy:
    1. Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn ra khỏi Nam Việt Nam, và không trở lui nữa.
    2. Liên Xô tăng cường viện trợ gấp 4 lần cho Bắc Việt Nam để tấn công Nam Việt Nam.
    3. Nam Việt Nam bận rộn chống đỡ cuộc tấn công của Bắc Việt Nam.
    4. Trung Cộng dự đoán Bắc Việt Nam sẽ thắng thế, nên quyết định chiếm Hoàng Sa trước khi Nam Việt Nam sụp đổ.
    5. Đầu năm 1974, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tìểu Bình quyết định kế hoạch tấn công Hoàng Sa. Ngày 17-1-1974, Mao Trạch Đông phê chuẩn báo cáo của Diệp Kiếm Anh xin đánh Hoàng Sa. (Tân Hoa Xã ngày 6-8-2013 và BBC ngày 20-12-2013.)

    9. PHẢN ỨNG CỦA HOA KỲ SAU TRẬN HOÀNG SA

    Lúc đó Cơ quan Trung Ương Tình báo (CIA) Hoa Kỳ theo sát tình hình Biển Đông và Hoàng Sa. Hằng ngày, CIA ra bản tin Central Intelligence Bulletin (CIB) và trình nạp thẳng đến Văn phòng tổng thống Hoa Kỳ. Bản tin ngày 19-6-1971 viết: “Những đoàn công voa hải quân từ Yu-lin (Du Lâm) trên đảo Hải Nam hiện tới Hoàng Sa thường xuyên, nhất là Woody Island (đảo Phú Lâm), một trong những đảo lớn nhất trong nhóm. Bảo vệ đoàn tàu chủ yếu là tàu khu trục, là tàu chiến lớn nhất trong hạm đội Nam Hải của Trung Quốc.” (BBC, ngày 30-12-2013.) Như thế Chính phủ Hoa Kỳ nắm bắt rất rõ những hoạt động của Hải quân Trung Cộng ở Biển Đông. Năm 1972, khi xảy ra chiến cuộc “Mùa hè đỏ lửa”, Hoa Kỳ đã giao cho Trung Cộng một “thông điệp miệng” về vấn đề Hoàng Sa (đã trình bày ở trên).

    Trong trận Hoàng Sa, quân đội Hoa Kỳ hoàn toàn làm ngơ và tránh xa Hoàng Sa, đến nỗi phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại “gọi điện thoại về Bộ tư lệnh Hải Quân xin can thiệp với cố vấn Mỹ yêu cầu Đệ thất Hạm đội Mỹ vớt các thủy thủ Việt Nam, nhưng dường như họ có được chỉ thị nên không một chiến hạm nào đến gần nơi cuộc xảy ra hải chiến.” (Hồ Văn Kỳ Thoại, Can trường trong chiến bại, tr. 171.)

    Sau trận Hoàng Sa, gặp Han Hsu (Han Xu), quyền trưởng phái đoàn liên lạc TC tại Washington DC ngày 23-1-1974, ngoại trưởng HK Kissinger nói: “Hoa Kỳ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo nầy.” (BBC Vietnamese, cập nhật 12:24 GMT – thứ Hai, 3 tháng 10, 2011.)

    Gần một tuần sau trận Hoàng Sa (19-1-1974), trong cuộc họp tại Bộ Ngoại giao HK ngày 25-1-1974, do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ tọa, đô đốc Thomas H. Moorer, tham mưu trưởng Liên quân HK, báo cáo với Kissinger: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề… Chỉ thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực [Hoàng Sa].” (BBC Vietnamese, cập nhật 12:24 GMT – thứ hai, 3 tháng 10, 2011.)

    KẾT LUẬN

    Chiến tranh lạnh toàn cầu đưa đến trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974. Ngược lại trận Hoàng Sa đánh dấu sự thay đổi mối quan hệ quốc tế trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

    Trận Hoàng Sa một lần nữa cho thấy khi Việt Nam có nội chiến, đất nước chia rẽ, nội lực dân tộc sút giảm, kẻ thù bên ngoài thừa cơ hội xâm lăng nước ta.

    Trận Hoàng Sa tiêu biểu cho lập trường bảo vệ đôc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi đó, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam theo chủ nghĩa cộng sản, làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, phạm tội phản quốc, nhượng đất đai của tổ tiên cho ngoại bang, để mưu cầu viện trợ nhằm tấn công Việt Nam Cộng Hòa, thực hiện tham vọng thống trị toàn cõi Việt Nam.

    Hoa Kỳ đến giúp Việt Nam Cộng Hòa vì quyền lợi của Hoa Kỳ, và cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ sẵn sàng rút quân về nước, bỏ rơi đồng minh. Từ năm 1972, Hoa Kỳ đã ngầm thỏa thuận về Hoàng Sa với Trung Cộng. Cũng vì quyền lợi của Trung Cộng, Trung Cộng sẵn sàng tách ra khỏi Liên Xô và xích lại gần với Hoa Kỳ, làm thay đổi cục diện chiến tranh lạnh toàn cầu.

    Đây là một kinh nghiệm quý báu về vấn đề đồng minh trong tương quan quyền lợi giữa các nước. Chỉ có đồng minh khi có quyền lợi. Hết quyền lợi, hết đồng minh.

    Chiếm được Hoàng Sa, chẳng những Trung Cộng kiểm soát sự lưu thông trên Vịnh Bắc Việt, mà còn kiểm soát thủy lộ từ Malacca qua Biển Đông, nhập vào Thái Bình Dương. Trong tương lai Hoàng Sa càng trở nên quan trọng khi Trung Cộng bắt đầu thành lập khu vực “nhận diện phòng thủ không phận” (Air Defense Identification Zone = ADIZ) trên quần đảo nầy.

    Khi Hoa Kỳ thay đổi sách lược toàn cầu, rút quân và cắt giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, Nixon và Kissinger dự liệu là Việt Nam Cộng Hòa có thể bị sụp đổ trong vòng 18 tháng sau hiệp định Paris. (Kenneth Hughes, The Paris “Peace” Accords Were a Deadly Deception (Jan 31, 2013) (.)

    Tuy nhiên, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng, chống trả cộng sản mãnh liệt, khiến Kissinger đã than một câu để đời: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi? Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai dẳng hoài.” (Ron Nessen, It Sure Looks Different from the Inside, Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 129. Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C K Promotions, INC, 1987, tr. 512.)

    Nghe câu nầy thì thật buồn cho thế thái nhân tình, nhưng đồng thời phải khâm phục sức chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Quân đội chúng ta không thua trận, nhưng phải ngưng chiến đấu vì sự thay đổi của hoàn cảnh chính trị thế giới.

    Hoàn cảnh chính trị thế giới và bạo lực CS đã đẩy chúng ta ra khỏi Việt Nam, nhưng không một thế lực nào có thể đẩy Việt Nam ra khỏi trái tim chúng ta. Người Việt luôn luôn nuôi mộng trở về quang phục quê hương, giải thể chế độ cộng sản bạo tàn, đòi lại Hoàng Sa cho tổ quốc thiêng liêng.
    Ngày nay tình hình Đông Á đang thay đổi một lần nữa, là cơ hội cho chúng ta vận động giải thể nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Người Việt Hải ngoại chúng ta cần phải hết sức ủng hộ một cách thực tế những nhà tranh đấu dân chủ trong nước, những phong trào đòi hỏi dân chủ trong nước. Trào lưu dân chủ sẽ xóa bỏ độc tài.

    Chỉ khi nào chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì người Việt mới bắt đầu tính sổ đòi đất, đòi biển với Trung Cộng; bởi vì giải thể chế độ cộng sản Việt Nam mới chấm dứt những cam kết ngầm giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng Cộng Sản Trung Quốc, từ thời Hồ Chí Minh năm 1950 cho đến Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chấm dứt những cam kết ngầm mới có thể nói chuyện đòi đất đòi biển trở về với tổ quốc chúng ta.

    Trần Gia Phụng
    (California, 05-01-2014)
    1974 - 2014


    Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)

    Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.

    Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:

    Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.

    Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.

    Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.

    Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.

    Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.

    Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
     
    oOo

    Trích và lược dịch từ nguồn: http://paracels74.tripod.com/rvndeclarations.htm

    Proclamation by the Government of the Republic of Vietnam (1974)

    The noblest and most imperative task of a Government is to defend the sovereignty, independence and territorial integrity of the Nation. The Government of the Republic of Vietnam is determined to carry out this task, regardless of difficulties it may encounter and regardless of unfounded objections wherever they may come from.

    In the face of the illegal military occupation by Communist China of the Paracels Archipelago which is an integral part of the Republic of Vietnam, the Government of the Republic of Vietnam deems it necessary to solemnly declare before world opinion, to friends and foes alike, that :
    The Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) archipelagoes are an indivisible part of the territory of the Republic of Vietnam. The Government and People of the Republic of Vietnam shall not yield to force and renounce all or part of their sovereignty over those archipelagoes.
    As long as one single island of that part of the territory of the Republic of Vietnam is forcibly occupied by another country, the Government and People of the Republic will continue their struggle to recover their legitimate rights.
    The illegal occupant will have to bear all responsibility for any tension arising therefrom.
    On this occasion, the Government of the Republic of Vietnam also solemnly reaffirms the sovereignty of the Republic of Vietnam over the islands off the shores of Central and South Vietnam, which have been consistently accepted as a part of the territory of the Republic of Vietnam on the basis of undeniable geographic, historical and legal evidence and on account of realities.
    The Government of the Republic of Vietnam is determined to defend the sovereignty of the Nation over those islands by all and every means.
    In keeping with its traditionally peaceful policy, the Government of the Republic of Vietnam is disposed to solve, through negotiations, international disputes which may arise over those islands, but this does not mean that it shall renounce its sovereignty over any part of its national territory.
    (Proclamation by the Government of the Republic of Vietnam dated February 14, 1974)
    --------------------------------
    Danh sách các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong Hải chiến Hoàng Sa 19-01-1974

    Số TT
    Chức vụ
    Họ tên
    Đơn vị
    1
    Trung sĩ Cơ khí Trần Văn Ba HQ-10
    2
    Hạ sĩ Cơ khí Phạm Văn Ba HQ-10
    3
    Hải quân đại úy Vũ Văn Bang HQ-10
    4
    Hạ sĩ Cơ khí Trần Văn Bảy HQ-10
    5
    Thượng sĩ nhất quản nội trưởng Trọng pháo Châu HQ-10
    6
    Trung sĩ nhất Vô tuyến Phan Tiến Chung HQ-10
    7
    Hạ sĩ Giám lộ Nguyễn Xuân Cường HQ-10
    8
    Hạ sĩ Điện khí Trần Văn Cường HQ-10
    9
    Trung sĩ Bí thư Trần Văn Đảm HQ-10
    10
    Hạ sĩ nhất Vận chuyển Nguyễn Thành Danh HQ-4
    11
    Hạ sĩ Vận chuyển Trương Hồng Đào HQ-10
    12
    Hạ sĩ nhất đoàn viên Trần Văn Định HQ-10
    13
    Trung úy Người nhái Lê Văn Đơn Người nhái
    14
    Hạ sĩ Cơ khí Nguyễn Văn Đông HQ-10
    15
    Hải quân trung úy Phạm Văn Đồng HQ-10
    16
    Hải quân trung úy Nguyễn Văn Đồng HQ-5
    17
    Trung sĩ Trọng pháo Đức HQ-10
    18
    Thủy thủ nhất Trọng pháo Nguyễn Văn Đức HQ-10
    19
    Trung sĩ Thám xuất Lê Anh Dũng HQ-10
    20
    Hạ sĩ Quản kho Nguyễn Văn Duyên HQ-16
    21
    Thượng sĩ Ðiện tử (truy phong chuẩn úy) Nguyễn Phú Hảo HQ-5
    22
    Hạ sĩ Ðiện khí Nguyễn Ngọc Hòa HQ-10
    23
    Hạ sĩ Giám lộ Nguyễn Văn Hoàng (nhỏ tuổi nhất) HQ-10
    24
    Hải quân trung úy Cơ khí Vũ Ðình Huân HQ-10
    25
    Hạ sĩ Trọng pháo Phan Văn Hùng HQ-10
    26
    Thượng sĩ nhất Ðiện khí  Võ Thế Kiệt HQ-10
    27
    Thượng sĩ Vận chuyển Hoàng Ngọc Lễ (cao tuổi nhất) HQ-10
    28
    Thủy thủ nhất Thám xuất Phạm Văn Lèo HQ-10
    29
    Thượng sĩ nhất Cơ khí  Phan Tấn Liêng HQ-10
    30
    Hạ sĩ Trọng pháo Nguyễn Văn Lợi HQ-10
    31
    Thủy thủ nhất Cơ khí Dương Văn Lợi HQ-10
    32
    Hạ sĩ Người nhái Ðỗ Văn Long Người nhái
    33
    Trung sĩ Ðiện khí Lai Viết Luận HQ-10
    34
    Hạ sĩ nhất Cơ khí Ðinh Hoàng Mai HQ-10
    35
    Hạ sĩ nhất Trọng pháo Nguyễn Quang Mến HQ-10
    36
    Hạ sĩ nhất Cơ khí Trần Văn Mộng HQ-10
    37
    Trung sĩ Trọng pháo  Nam HQ-10
    38
    Thủy thủ nhất Trọng pháo Nguyễn Văn Nghĩa HQ-10
    39
    Trung sĩ Giám lộ Ngô Văn Ơn HQ-10
    40
    Hạ sĩ Phòng tai Nguyễn Văn Phương HQ-10
    41
    Thủy thủ nhất Phòng tai Nguyễn Hữu Phương HQ-10
    42
    Thượng sĩ nhất Trọng pháo Nguyễn Ðình Quang HQ-5
    43
    Thủy thủ nhất Trọng pháo Lý Phùng Quy HQ-10
    44
    Trung sĩ Cơ khí Phạm Văn Quý HQ-10
    45
    Trung sĩ Trọng pháo Huỳnh Kim Sang HQ-10
    46
    Hạ sĩ nhất Vận chuyển Ngô Sáu HQ-10
    47
    Trung sĩ Cơ khí Nguyễn Tấn Sĩ HQ-10
    48
    Thủy thủ Trọng pháo Thi Văn Sinh HQ-10
    49
    Trung sĩ Vận chuyển Ngô Tấn Sơn HQ-10
    50
    Hạ sĩ nhất Vận chuyển Lê Văn Tây HQ-10
    51
    Hải quân thiếu tá - Hạm trưởng (truy phong trung tá) Ngụy Văn Thà HQ-10
    52
    Hải quân đại úy Hàng hải-Thương thuyền Huỳnh Duy Thạch HQ-10
    53
    Hạ sĩ Trọng pháo Nguyễn Văn Thân HQ-10
    54
    Thủy thủ Điện tử Thanh HQ-10
    55
    Hải quân trung úy Ngô Chí Thành HQ-10
    56
    Hạ sĩ Phòng tai Trần Văn Thêm HQ-10
    57
    Hạ sĩ Phòng tai Phan Văn Thép HQ-10
    58
    Hạ sĩ nhất Vận chuyển Lương Thanh Thú HQ-10
    59
    Thượng sĩ Điện tử Thọ HQ-10
    60
    Thủy thủ nhất Vô tuyến Phạm Văn Thu HQ-10
    61
    Thủy thủ nhất Điện tử Ðinh Văn Thục HQ-10
    62
    Trung sĩ Giám lộ Vương Thương HQ-10
    63
    Thủy thủ (?) Người nhái Nguyễn Văn Tiến Người nhái
    64
    Hải quân thiếu tá – Hạm phó Nguyễn Thành Trí HQ-10
    65
    Trung sĩ Trọng pháo Nguyễn Thành Trọng HQ-10
    66
    Hạ sĩ Vận chuyển Huỳnh Công Trứ HQ-10
    67
    Thượng sĩ Người nhái Ðinh Hữu Từ Người nhái
    68
    Trung sĩ Quản kho Nguyễn Văn Tuân HQ-10
    69
    Thủy thủ nhất Cơ khí Châu Túy Tuấn HQ-10
    70
    Biệt hải Nguyễn Văn Vượng HQ-4
    71
    Hải quân trung úy Nguyễn Phúc Xá HQ-10
    72
    Trung sĩ Trọng pháo Nguyễn Vĩnh Xuân HQ-10
    73
    Trung sĩ Ðiện tử Nguyễn Quang Xuân HQ-10
    74
    Trung sĩ Điện khí Xuân HQ-16
    ---oOo---
    Công Hàm Bán Nước Của Phạm Văn Đồng 
    Ngày 14-9-1958