Monday, February 27, 2012

”Cuộc đời và cái chết rất buồn của một người chính trực“

Mai Thanh Truyết

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu –Mỏ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bỏ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vỡ lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: ”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định. Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: ”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: ”Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9, 10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đỡ của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các loại vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì … nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội: ”Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%”.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vừa kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: ”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói: ”Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đổi lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai.

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

- Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;
- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;
- GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;
- Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”.

Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;
- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;
- Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);
- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và
- Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất
chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.
Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli)“.

Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam”. Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng: ”Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quãng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.

Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

Mai Thanh Truyết

Sunday, February 5, 2012

Độc nhất vô nhị, chỉ có tại Việt Nam

Xã hội của đỉnh cao trí tệ
Khách sạn cung cấp vợ miễn phí



Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc

    Đảng Cộng Sản Việt Nam Đã Bán Rẻ Tổ Quốc Cho Kẻ Thù Truyền kiếp Của Dân Tộc
Trương Phú Thứ

Từ ngàn xưa, nước Việt Nam có chiều dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Cha ông chúng ta đã bao đời đổ máu và mồ hôi, nước mắt tạo dựng nên cơ đồ lừng lẫy dưới Trời Đông Á. Từng tấc đất trên núi cao, mỗi con nước hòa trong đại dương đã thấm nhuần hào kiệt uy dũng của tiền nhân; và con cháu hàng hàng, lớp lớp từ đời nọ sang đời kia hiên ngang xây dựng đất nước ngày thêm tươi tốt, chiến đấu đánh đuổi ngoại xâm, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ. Cha ông chúng ta đã khổ công khai sơn phá thạch, bồi sông lấp biển, gầy dựng cho con cháu mảnh vườn sào ruộng, là nơi chôn nhau cắt rốn của đám hậu duệ, là chỗ gửi gấm thân xác tiền nhân lúc mãn phần. Kẻ trước người sau, một lòng sắt son tô điểm sơn hà trong niềm kiêu hãnh của dòng giống Lạc Hồng. Quê Cha đất Mẹ là vành nôi ấp ủ tình tự quê hương, là bầu sữa ngọt ngào nuôi dưỡng đàn con Việt tộc. Đàn con Mẹ Việt Nam bám lấy sào ruộng, ôm lấy mảnh vườn là hương hỏa của ông cha khó công gầy dựng như mầm sống của từng thế hệ.

Đất nước ta đã bao lần đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc. Lời thề Diên Hồng còn âm vang trên núi cao. Tiếng hò Sát Đát vẫn xé gió tung bay ra bốn bể.

Nhưng đau đớn tủi nhục, xót xa, ngậm ngùi ! Đảng cộng sản Việt Nam đã ký hai hiệp định về biên giới với Trung cộng vào ngày 30-12-1999 và 25-12-2000. Hai hiệp định này đã cống hiến một phần đất đai ở tuyến cực Bắc tiếp giáp với Trung cộng, và một phần lãnh hải vịnh bắc Việt cho Trung cộng. Biên giới Trung-Việt đã lùi sâu vào lãnh thổ Việt Nam nhiều chỗ đến 12 cây số. Ải Nam Quan không còn nữa. Thác Bản Giốc cũng không còn nữa. Vịnh Bắc Việt đã mất thêm đến 10%. Quê hương Việt Nam đã mất một phần đất đai nơi đó là tổ ấm của nhiều dòng họ từ bao nhiêu đời. Tổ Quốc Việt Nam đã mất đi Hoàng Sa - Trường Sa, là mất đi một phần biển có nhiều dầu khí.

Ngày 27-12-2001; lễ cắm cột mốc thi hành những điều khoản của hiệp định được tổ chức và chiếu trên hệ thống truyền hình toàn quốc. Con dân nước Việt ở khắp mọi miền đất nước thắp nhang hướng về địa đầu tổ quốc khấn nguyện anh linh, tiên tổ, sụt sùi rơi lệ.

Lịch sử nước ta ghi chép, Việt tộc đã nhiều lần đứng lên đánh đuổi quân xâm lược hung hãn phương Bắc. Ngay cả lúc cha ông chúng ta ở trong thế yếu kém nhưng chưa hề bao giờ phải cắt đất nhượng biển cho quân ngoại xâm. Vậy cớ sao đảng cộng sản Việt Nam lại cúi đầu tuân phục mệnh lệnh của quan thầy cộng sản Tầu cắt đất của tổ tiên, xé biển của Tổ Quốc cống hiến cho kẻ thù phương Bắc ?!

Có nhiều giả thuyết được nói đến để tìm hiểu hành động phản phúc của đảng cộng sản Việt Nam. Trước hết, là món nợ khổng lồ đã vay mượn của Trung cộng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó là sự đền ơn đáp nghĩa đối với một đàn anh cộng sản khổng lồ ngay sát nách, có đủ khả năng để bảo đảm sự an toàn của tập đoàn thống trị Hà Nội. Vì muốn nắm giữ đặc quyền, đặc lợi và đủ sức mạnh để khống chế, áp bức những người cùng huyết thống, đảng cộng sản Việt Nam đã táng tận lương tâm cắt đất, nhượng biển cung phụng những đòi hỏi quái ác của bọn cộng sản Tầu.

Hồn thiêng sông núi Việt, anh linh tiên tổ ngậm ngùi đau xót nhìn những đứa phản tặc vô ơn bạc nghĩa, mang cả gia tài của ông cha đem cống hiến cho ngoại nhân để nắm giữ quyền hành và từ đó, áp đặt một thứ chủ nghĩa độc ác phi nhân xóa bỏ tình tự đạo lý dân tộc.

Đảng cộng sản Việt Nam đã hiện nguyên hình trọn vẹn chỉ là một công cụ vô hồn của một thé lực còn rơi rớt lại của khối cộng sản thế giới.

Phường nghịch tặc của Tổ Quốc đã chỉ vì quyền lợi của bè đảng và cá nhân đã không từ nan bất cứ một hành động phản trắc nào, hầu chỉ cần nắm giữ được quyền hành và tài sản tiền bạc của quốc gia.

Hỡi các bạn trẻ Việt Nam! Giang sơn gấm vóc mà tổ tiên chúng ta đã khổ công khai phá và xây dựng đã bị đảng cộng sản Việt Nam cắt xén dâng hiến cho Trung cộng. Còn nỗi nhục nhằn cay đắng, rách gan, đứt ruột nào hơn; các bạn đã khóc ra máu mắt nhìn bọn thảo khấu bán nước toa rập với lũ giặc phương Bắc đóng những cái mốc ngay trên phần đất hương hỏa của bao dòng họ. Các bạn đã uất hận nghẹn ngào nhìn mồ mã tiền nhân đang bị những bước chân xâm lăng của kẻ thù truyền kiếp giầy xéo. Đảng cộng sản Việt Nam vì nhu cầu sống còn đã nhẫn tâm bán rẻ tổ quốc cho bọn giặc thù phương Bắc.

Các bạn là những sinh viên đang miệt mài đèn sách nơi trường lớp. Các bạn là những viên chức nhà nước đang bị trù dập vì đoàn đảng và bọn tham ô nhũng lạm. Các bạn là những công nhân đang bị hành hạ tức tưởi bởi bọn thực dân mới Đài Loan, Hàn quốc. Các bạn là những người lính đang ngày đêm gian khổ, nhưng bị đảng cộng sản Việt Nam không cho được bảo vệ đất nước. Các bạn là những người lao động đang gục đầu nhục nhằn vì miếng cơm manh áo. Các bạn là những người buôn thúng bán bưng đang cay đắng vì đói nghèo đói bệnh tật.

Các bạn, tất cả hãy ngạo nghễ đứng lên, cùng một lời thề ước, tay trong tay bứt phá xích xiềng nô lệ tư tưởng, tù đầy, cơm áo và thoát ra khỏi bàn tay ác độc của kẻ thù tuyền kiếp phương Bắc.

Các bạn trong quân ngũ hãy quay súng lại làm tròn nhiệm vụ của Tổ Quốc và đồng bào trao phó; các bạn hãy nhận lãnh trách nhiệm với tiền nhân, với đồng bào và lịch sử; cùng nhau vùng lên đạp đổ một chủ thuyết tàn ác do đảng cộng sản Việt Nam áp đặt để độc quyền thống trị.

Các bạn cứ nhìn xem chung quang mình, bọn cán bộ chức quyền giầu có đến mức nào, trong khi bản thân các bạn đang lây lất rau cháo qua ngày. Xương máu của các bạn đang đổ ra con cháu bọn cán bộ đốt tiền bên trời Âu-Mỹ. Mồ hôi nước mắt của các bạn đang đổ ra cho đám chức quyền cao cấp nạp những đồng tiền thuế của dân vào cái túi không đáy của bọn nhà thổ. Tài sản quốc gia đã bị các quan chức lãnh đạo đản cộng sản trấn lột và hiện cất giữ ở các ngân hàng ngoại quốc.

Lớp người trẻ ở Liên Sô cũ, các quốc gia Đông Âu và các nước Á Phi đã đồng loạt đứng lên. Họ, với sức mạnh hào và khí của tuổi trẻ, họ đã làm nên đai cuộc. Các bạn hậu duệ Quang Trung, con cháu Trưng-Triệu lẽ nào nhắm mắt xuôi tay nhìn Tổ Quốc bị đảng cộng sản Việt Nam đem bán rẻ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nhìn đồng bào thân yêu triền miên trong nghèo đói, bệnh tật và dốt nát.

Đức Hưng Đạo Vương ba lần đại phá quân Nguyên đã thống thiết trong Hịch Tướng Sĩ:

"Chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giầy xéo, mà phần mộ cha ông của các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào, chẳng những thân ta kiếplưu đày chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là những người bại trận".

Các bạn hãy đứng lên !

Hùng tâm dũng khí của những người trẻ Việt Nam sẽ cứu nước và dựng lại nước. Nước Việt Nam phải là một dãi đất gấm hoa của tự do dân chủ. Người Việt Nam hào hùng phải được quyền sống trong những điều kiện bình thường của con người. Các bạn là vốn liếng quý giá của nòi giống Việt. Các bạn là tài sản trân quý của dân tộc. Các bạn là nguồn cậy trông, là niềm hy vọng của tiền nhân và đồng bào ruột thịt. Các bạn hãy đứng lên tiêu trừ đảng cộng sản Việt Nam, xóa sổ bọn tôi đòi của kẻ thù phương Bắc. Các bạn sẽ không đơn độc. Đồng bào ở trong cũng như ngoài nước luôn sát cánh bên các bạn bằng nhiều cách. Các quốc gia và những người yêu chuộng tự do dân chủ, tôn trọng hòa bình công lý trên toàn thế giới sẽ cùng đứng bên với các bạn. Các bạn hãy ngạo nghễ đứng lên !

Trương Phú Thứ