Thursday, April 30, 2009

Tinh Thần Học Hỏi - Phạm Văn Bản

Phạm Văn Bản
    Nuôi tâm sinh thiên tài
    Nuôi trí sinh nhân tài
    Nuôi thân sinh nô tài
Người thanh niên cách mạng Lý Ðông A (1920-46) từng nhắn gởi thanh niên Việt Nam chúng ta về tinh thần học hỏi, rèn luyện bản thân để thành người hữu dụng, ích nước lợi dân. Tinh thần học hỏi đó là những đức tính cần thiết cho mỗi người thanh niên hôm nay, trang bị cho mình trên hành trình đấu tranh cho nhân quyền và tự do dân chủ của Việt Nam.

Khi tự nguyện dấn thân và phục vụ cho lý tưởng, người thanh niên phải trực diện với bao trở ngại khó khăn, với bao nỗi gian nan nguy hiểm vì rằng, “lửa thử vàng gian nan thử sức!”

Với sức sống, sức mạnh của người thanh niên thì niềm tin và lòng trung thành yêu thương dân nước là một điều chưa đủ, chưa giúp ích nước lợi dân, chưa giúp chúng ta vượt qua bao trở lực đang chờ đón. Chúng ta cần phải có một trình độ nhận thức, một khả năng hữu hiệu sao cho tương xứng, một hoạt động thích hợp với vai trò của mình, với công tác mà mình được giao phó và nhận trách nhiệm để mình hoàn thành.

Vậy muốn đáp ứng hay thỏa mãn những điều kiện về trình độ và khả năng của người thanh niên nói trên, ngoài vấn đề học hỏi ra thì không còn gì khác hơn để bàn luận.

Người thanh niên muốn làm bất cứ việc gì, muốn việc đó đạt kết qủa tốt đẹp ra sao… xin hãy bắt đầu bằng cách học hỏi. Mặt khác, bạn muốn trở thành một người cán bộ Tiên Rồng phục vụ tốt trong tổ chức cộng đồng, bạn lại càng không thể thoát khỏi qui luật huấn luyện và đào tạo hiển nhiên ấy.

Không một ai trong chúng ta, từ khi vừa lọt lòng mẹ chào đời mà đã biết hết mọi sự, biết tương lai ra sao, làm gì… Biết mình trở thành nhân tài, lãnh tụ… hay lại thành tên giặc nước hoặc kẻ sát nhân xấu xa?

Xét một vài trường hợp ngoại lệ, có thể một hài nhi do hoàn cảnh hay trường hợp được cấu tạo đặc biệt (thiên phú) và sinh ra có khối óc thông minh. Nhưng người ấy, nếu không được phát giác, không được rèn luyện, thì dù có bộ óc vạn năng người ấy cũng chỉ là kẻ bình thường suốt đời mà thôi, như Tổ Tiên từng dạy:

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi

Viên ngọc tự nó cũng chỉ là viên đá. Nếu không được tìm ra, mang về bỏ công gọt dũa trở thành một viên ngọc quí. Thì muôn đời vẫn chỉ là cục đá tầm thường, như bao cục đá trơ trẽn nằm bên lề đường, ngổn ngang bên sườn núi, hay vất vưởng trong lòng sông.

Như thế, người thanh niên dù có bộ óc siêu việt mà không học hỏi, không rèn luyện, không thu nhận kiến thức mới thì cũng như viên đá kia chẳng dũa chẳng mài, và chỉ là một kẻ vô dụng.

Có nhiều phương pháp học hỏi, ngoài hệ thống học đường, thì người thanh niên còn có nhiều môi trường khác để giúp chúng ta học hỏi:

1. Tự Học

Tự học hỏi, nói cách khác, tự rèn luyện bản thân về hai phương diện Trí Dục và Đức Dục.

a. Về Trí Dục: Mỗi cá nhân có một trình độ và hoàn cảnh khác nhau. Người có trình độ cao thì thu nhận hiểu biết nhanh hơn người với trình độ thấp. Người ở vị trí hoàn cảnh này cần học hỏi khác hơn người có vị trí hoàn cảnh khác.

Ví dụ: Một thanh niên mới bắt đầu cuộc sống sinh hoạt trong cộng đồng, chắc hẳn cần học hỏi nhiều hơn những thanh niên đã từng hoạt động cộng đồng lâu măm. Người phụ trách văn phòng cần chú tâm trau dồi kiến thức, phương pháp tổ chức, xắp xếp hồ sơ, soạn thảo và phổ biến công văn, thư tín… Trái lại, người có nhiệm vụ thường xuyên công tác bên ngoài, phải học hỏi phương pháp vận động đại chúng, kỹ thuật trình bày quan điểm, thuyết phục người đối thoại…

b. Về Đức Dục: Người thanh niên cần đặt vấn đề đạo đức vào hàng ưu tiên học hỏi, nghiên cứu đầu hạng của mình.

Biết bao cán bộ trung kiên và tài giỏi hoạt động trong tổ chức cộng đồng, nhưng chỉ vì thiếu kém đạo đức đã gây ra tác hại cho tổ chức mình, và mang lại hậu qủa thân bại danh liệt, làm ảnh hưởng xấu cho bao anh em thành viên khác.

Ðể trau dồi đạo đức, người thanh niên, nhất là thuộc hàng ngũ cán bộ cách mạng phải diệt trừ những căn bệnh nan giải, như sau:

b1. Bệnh Tự Cao Tự Đại

Có những người cán bộ trong đấu tranh và thực hành công tác tổ chức đã tạo nhiều thành tích khả quan, được anh em đề bạt lên giữ chức vụ điều hành. Nhưng rồi họ tưởng rằng đã vượt trên khả năng của mọi người mà họ thay đổi tác phong hành xử. Từ đó, sinh ra chứng phách lối kiêu căng, xem trời bằng vung, nhìn anh em mình bằng nửa con mắt. Họ đối xử với mọi người, kể cả những thành viên đã từng cộng tác lại được họ coi như hàng tay chân, thuộc hạ chớ chẳng còn tình nghĩa anh em như trước! Những việc cắt cử thành viên tới cách sắp xếp công tác nhất nhất họ đều làm theo ý mình, họ bất chấp những phản ứng hay phê bình xây dựng của tổ chức, của anh em. Nếu có ai góp ý, hay có lời khuyên nhủ thì họ lại nổi giận lôi đình, tìm cách ngụy biện hay chống trả bằng lời lẽ thô thiển, thiếu lịch sự, thiếu lễ độ… và chỉ bằng tính cách so đo hơn thua. Đó là “động ắt mòn!” Chiếc xe hoạt động quá mức cũng phải hao mòn! Huống nữa là hành xử theo lối “động tâm” mà thiếu “bình tâm” của con người gọi là động ắt mòn.

Có biết đâu, hễ núi cao thì còn có núi cao hơn, người có tài thì còn kẻ khác có tài cao hơn.

Có biết đâu, bệnh tự cao tự đại mang lại hậu qủa tạo cho người thanh niên ấy xa lìa đại chúng nhân dân, làm mất lòng anh em cùng chí hướng đang cộng tác với mình… cuối cùng họ làm tan vỡ tổ chức.

Phải biết rằng người thanh niên cán bộ, cho dù tài giỏi tới đâu, cho dù trình độ siêu việt, cho dù kiến thức vượt bậc vẫn không thể đơn phương làm được công cuộc cách mạng, nếu thiếu những người cộng tác, thiếu đại chúng nhân dân ủng hộ, tham gia.

Bệnh tự cao tự đại, còn làm cho người cán bộ coi thường kẻ thù. Họ chỉ nhìn thấy khuyết điểm của địch, rồi nảy sinh tự mãn, phế bỏ tinh thần học hỏi rèn luyện bản thân, dẫn mình vào bước đường thoái hóa và thất bại.

b2. Bệnh Tự Ti Mặc Cảm

Tự ti mặc cảm là con bệnh tự cho mình là thua kém người khác mà sinh ra do dự, nhút nhát, thụ động, không dám quyết định về bất cứ vấn đề gì. Ðang khi thi hành công tác, họ lại không có sáng kiến nên thành qủa thâu đạt cũng nhỏ nhoi, nhiều khi thất bại. Vì không tiên liệu, không lượng định được phương hướng để chiến thắng kẻ thù, họ chỉ thấy địch mạnh ta yếu, lực lượng địch đông đảo mà của ta thì ít ỏi nên đâm ra khiếp nhược, sợ giặc mà bỏ chạy.

Nên nhớ rằng tất cả mọi tổ chức đấu tranh đã phải khởi sự bằng nhóm người nhỏ bé, dần dà con số mới tăng theo thời gian và hoạt động để tạo ra thành tích, thành lực lượng hùng mạnh, có “dấu chỉ” để thành công. Kết qủa việc tổ chức thành công phải do nhiều yếu tố như lãnh đạo, tổ chức, đào tạo cán bộ, vận động đại chúng đóng góp, yểm trợ.

Nếu cho rằng ngày hôm nay chúng ta thực sự kém người, nhưng trong tương lai bằng nhờ vào tinh thần học hỏi rèn luyện bản thân liên tục thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt hơn người.

Vậy phải dứt bỏ căn bệnh tự ti mặc cảm, người thanh niên mới có tinh thần cầu tiến, hoàn thành công tác được giao phó, đáp ứng nhu cầu đóng góp theo vai trò và khả năng của mình.

2. Học Hỏi Trong Các Lớp Huấn Luyện Và Những Buổi Hội Thảo

Các tổ chức thường có những lớp huấn luyện định kỳ cho cán bộ các cấp, các ngành nhằm mục đích đào tạo chuyên viên có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu công tác. Các tổ chức cũng có những phiên họp thường xuyên, hay bất thường để tổng kết tình hình công tác, phổ biến đường hướng chủ trương, và đề ra những công tác kế tiếp.

Ðây cũng là những dịp tốt cho người cán bộ học hỏi, nâng cao trình độ nhận thức của mình. Cũng là cơ hội để chúng ta gặp gỡ tìm ra những người bạn bè cùng chí hướng, hầu kiểm thảo, nhận định tình hình địch bạn, trao đổi rút tỉa những kinh nghiệm thành bại trong công tác.

Người thanh niên không nên và không thể thiếu vắng với những dịp học hỏi quí báu đang sẵn có trong cộng đồng, hoặc trên diễn đàn của nhiều tổ chức.

3. Học Hỏi Từ Đại Chúng

Trên đường công tác đấu tranh, người thanh niên phải luôn luôn hòa mình với đại chúng để lắng nghe dư luận của họ, thành khẩn đón nhận những ý kiến, những phê bình xây dựng. Nên nhớ rằng trong tập thể đại chúng có nhiều người tài giỏi, mà vì lý do này hay lý do khác họ chưa gia nhập vào hàng ngũ của tổ chức chúng ta. Phải tìm cách chúng ta đến với họ, nếu như chưa thuyết phục được họ gia nhập vào tổ chức, thì cũng học hỏi được nơi họ nhiều điều bổ ích cho công tác của tổ chức chúng ta.

Không một tổ chức nào, nhất là tổ chức cách mạng mà có thể thành công nếu không tranh thủ được đại chúng hưởng ứng tham gia, không thu phục được nhân tâm.

4. Học Hỏi Từ Tiền Nhân

Trong suốt chiều dài lịch sử, có biết bao bài học thành bại của tiền nhân để soi sáng cho chúng ta trên con đường đấu tranh phục quốc.

Một Ðinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận để dẹp tan 12 sứ quân thống nhất sơn hà. Một Lê Lợi trải qua bao năm nằm gai nếm mật mới đánh đuổi được giặc Minh. Một Trần Hưng Ðạo qua hội nghị Diên Hồng phá tan đại quân Nguyên Mông từng chiến thắng toàn cầu Âu Á. Một Trần Bình Trọng bất khuất hiên ngang “ta làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc”…

Mặt khác lại có, một Lê Chiêu Thống hèn nhát “cõng rắn cắn gà nhà!” Một Khải Ðịnh cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp! Một Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản rước quan thày Trung Quốc vào bán đất bán biển, dẫn đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ là những chứng tích lịch sử rõ ràng trước mắt, mà người thanh niên chúng ta thời nay không thể quên để học hỏi từ sách vở, từ những lời tường thuật của những bậc lão thành, các nhà học gỉa hay các chứng nhân lịch sử hiện tại.

Trước những sự kiện ngạo mạn của chủ tịch Hồ Chí Minh vịnh thơ nhạo báng tổ tiên tiền nhân và so tài với đức thánh Trần Hưng Đạo, thì người thanh niên Lý Đông A ngày đó đã đưa ra một nhận định, “Người mình thường xấc xược mỗi khi nhắc tới tổ tiên!” Và có lẽ câu nói này đã nghiệm ứng với những người Cộng Sản, bởi từ khởi thủy lập đảng họ đã không đặt ra “Tinh Thần Học Hỏi” như ý nghĩa trọng đại của bài viết này.

Vậy công cuộc Diệt Cộng Cứu Nước ngày nay rất cam go, khó khăn và nguy hiểm. Chúng ta phải thực tế nhìn nhận rằng Cộng Sản có lối ngụy biện tinh vi, lừa bịp được dân chúng trắng trợn, và từng lừa đảo được nhiều người, nhiều lần. Người Cộng Sản lại có những thủ đoạn sắt máu, dùng bạo lực làm khiếp đảm các đối thủ. Muốn chiến thắng giặc cộng, muốn giải cứu dân nước, người thanh niên Việt Nam chúng ta cần học hỏi, rèn luyện bản thân thường xuyên và liên tục, đạt tài năng trong Tinh Thần Học Hỏi.

Phạm Văn Bản


KHI TÔI CHẾT ĐỪNG ĐƯA TÔI RA BIỂN - Nguyễn Văn Phán

KHI TÔI CHẾT ĐỪNG ĐƯA TÔI RA BIỂN

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi ! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu Đ
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

Trung Tá Nguyễn Văn Phán
TQLC

Lễ Thượng Kỳ tại OHIO


Tại Thủ-Đô Columbus tiểu ban OHIO, sáng ngày thứ Tư 29 tháng 4 năm 2009 11:00 AM

Dù dân số người Việt tại tiểu ban Ohio chỉ có trên dưới 20 ngàn người. ! Nhưng qua sự tranh đấu mãnh liệt của Ủy ban Cờ Vàng tại tiểu ban này, Thượng viện của tiểu ban đã thông qua Đạo-Luật #55 . (HB#55 . Không phải nghị-quyết = resolution). Chính thức công nhận Cờ Vàng 3 Sọc Đỏ là biểu tượng lá cờ chính thức cho cộng đồng Ngưới Việt tại Ohio. Trong bài diễn văn do Thống Đốc tiểu ban OHIO Ted Strickland đọc, ông có nhấn mạnh rằng cờ Vàng 3 Sọc Đỏ còn phải được xem là: "THE FLAG OF THE NATION OF VIETNAM". Đây là một lời phát ngôn rất quan trọng và đầy ý nghĩa từ một Thống đốc của một tiểu bang!

Buổi lễ thượng kỳ Việt Nam được long trọng cử hành trước toà nhà Capitol thủ-phủ của tiểu ban Ohio. Hiện diện trong buổi lễ này ngoài cộng đồng người Việt tại thành-phố Columbus, còn có các cộng đồng người Việt từ xa đến như Toronto Canada, Công đồng tiểu ban Michigan, và các cộng đồng người Việt tại các thành phố trong tiểu ban Như Cinncinnati, Dayton, Cleveland và Akron.

Ngoài ra còn có sự hiện diện của NT KQ Nguyễn Xuân Vinh, trong bài diển văn ngắn trong buồi ăn trưa ngay bên dưới toà nhà Capitol.

Riêng NT KQ Phạm Ngoc Tụng và chị Loan (Mrs. Tụng) là những thành viên địa phương, rất hăng say trong việc vận động cho HB#55 và việc tổ chức cho buổi lể ngày hôm nay.

Sau đây là vài hình ảnh trong buổi lễ thượng kỳ tại Columbus OHIO: (photo by Tấn Phạm & Lợi Đặng. Click on the photo for full size) PQK



Wednesday, April 29, 2009

Thông Báo về Biểu Tình tại Genève

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 29.4.2009
Thông báo về cuộc Biểu tình đòi hỏi nhân quyền, dân chủ,
tự do tôn giáo trước LHQ ở Genève ngày 8.5.2009

PARIS, ngày 29.4.2009 (QUÊ MẸ) - Đồng bào khắp năm châu đã nồng nhiệt đáp ứng bản Thông cáo báo chí phát hành ngày 10.4.2009 của Cơ sở Quê Mẹ:

Hành động cho Dân chủ Việt Nam và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam kêu gọi tham dự cuộc biểu tình ngày 8.5.2009 tại Place des Nations - Công trường LHQ - trước trụ sở LHQ tại Genève, vào lúc Phái đoàn Hà Nội phải phúc trình trước Hội đồng Nhân quyền LHQ ở Điện Quốc Liên về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam cùng sự tuân thủ các Công ước LHQ mà Hà Nội đã ký kết, như Công ước Quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị là một.

Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Cơ sở Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam xin ngỏ lời thâm tạ sự hưởng ứng nồng nhiệt của Đồng bào hải ngoại, quý vị Nhân sĩ, Lãnh đạo Tôn giáo, các Đoàn thể, Đảng phái, Cộng đồng Người Việt Tự do ở hải ngoại, cùng các cơ quan truyền thông, báo chí đã hưởng ứng tham gia qua điện thoại gọi về trụ sở của chúng tôi tại Paris hay qua điện thư E.mail quyết tâm biểu dương ý chí đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo trên quê hương đất Việt, không để cho Phái đoàn Hà Nội tiếp tục dối gạt Hội đồng Nhân quyền LHQ và công luận thế giới như Hà Nội vẫn làm thường năm tại Genève.

Nay xin được thông báo diễn tiến cùng các điều cần thiết sau đây:

- Do việc phái đoàn Hà Nội phải phúc trình trước Hội đồng Nhân quyền LHQ vào lúc 14 giờ 30 ngày 8.5.2009, nên Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam đã xin phép với nhà chức trách Thụy sĩ ở thành phố Genève được phép biểu tình trước Công trường LHQ từ 8 giờ sáng cho đến chiều ngày 8.5.2009. Mục đích để cho báo chí, truyền thông quốc tế thấy rõ ý chí của Người Việt Tự do ở hải ngoại nói thay cho nhân dân trong nước không có tiếng nói trên lĩnh vực nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo. Đặc biệt, là công xa của các phái đoàn chính phủ trên thế giới vào phó hội LHQ ở Điện Quốc liên chạy ngang Công trường LHQ sẽ chứng kiến cuộc biểu tình của người Việt Tự do.

- Nhân cơ may có mặt đại diện của các cộng đồng người Việt đến từ Hoa Kỳ, Úc châu, Đức, Hòa Lan, Pháp và Bắc Âu, nên sau cuộc biểu tình sẽ có cuộc gặp gỡ trao đổi vào lúc 18 giờ ngày 8.5.2009 tại một hội trường gần Điện Quốc Liên để Ban tổ chức trình bày diễn tiến buổi phúc trình của Phái đoàn Hà Nội và sự chất vấn của các phái đoàn chính phủ trong thế giới trước Hội đồng Nhân quyền LHQ, đồng thời đúc kết kinh nghiệm đấu tranh quốc tế cho việc kết liên của người Việt khắp năm châu cho công tác Quốc tế vận trong tương lai. Địa điểm hội trường sẽ xin thông báo sau.

- Thành phần Ban tổ chức gồm có:

Trưởng ban Tổ chức liên hệ với Nhà chức trách Thụy sĩ và LHQ: Ông Võ Văn Ái.

Trưởng ban Điều hành Nghi lễ các tôn giáo:
Thượng tọa Thích Viên Lý, Văn phòng II Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Trưởng ban Điều hành Chương trình ngày biểu tình 8.5.09 (giới thiệu các tổ chức, hội đoàn, tôn giáo, đảng phái, chào cờ, mặc niệm):
Thượng tọa Thích Giác Đẳng/GHPGVNTN, và Ông Lưu Phát Tấn/Cộng đồng Việt Nam Tỵ nạn Cộng sản tại Hòa Lan.

Trưởng ban Thiết kế Bàn thờ Tổ quốc và phụ trách âm thanh tại cuộc biểu tình:
Cộng đồng Việt Nam Tị nạn Cộng sản tại Hòa Lan.

Trưởng ban An ninh Trật tự:
- Ông Trần Minh Răn, Tổ chức Phục Hưng Việt Nam
- Ông Nguyễn Quốc Nam, Liên Minh Dân chủ Việt Nam
- Ông Nguyễn Bắc Ninh, Đại Việt Cách Mạng Đảng
- Ông Nguyễn Mạnh Hà, Đảng Thăng Tiến.

Trưởng ban Báo chí, Truyền thông và Liên lạc:
- Chị Ỷ Lan/Cơ sở Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam, và Thượng tọa Thích Giác Đẳng/GHPGVNTN.

Trưởng ban Tiếp tân:
- Chị Nguyễn thị Lý, Liên hội Người Việt tại Cộng hòa Liên bang Đức
- Chị Lê Nhất Hiền, Hội Phụ nữ Việt Nam Tự do Đức quốc.

Trưởng ban Văn nghệ Đấu tranh:
- Chị Nguyệt Ánh, Phong trào Hưng Ca Việt Nam

Trưởng ban Y tế:
- Bác sĩ Nguyễn Quốc Nam
- Bác sĩ Đoàn Trần Đức và hai Chị Duyên, Hạnh.

Trưởng ban Ẩm thực: Chị Ca Dao và chị Lợi

Trưởng ban Phim ảnh:
-Ông Trần Di Nhơn, Liên hội Người Việt tại Cộng hòa Liên bang Đức và ông Đông, Paris.

Ban Tổ chức sẽ được bổ sung thêm theo nhu cầu của ngày biểu tình.

- Do việc Ban Tổ chức không có cơ sở tại Genève, nên không thể lo việc đưa đón các vị khách đến từ xa. Vậy xin quý vị vui lòng sử dụng Taxi để đến Công trường LHQ theo bản đồ dưới đây. Công trường LHQ nơi tổ chức biểu tình cách xa phi trường hay nhà ga xe lửa Genève chừng 10 phút taxi.

Nếu có khó khăn gì, xin liên lạc với chị Ỷ Lan số điện thoại cầm tay là +336 11 89 86 81, hoặc Thượng tọa Thích Giác Đẳng số điện thoại cầm tay là + 1 281 216 3588

- Ban Tổ chức hoan nghênh việc tham gia biểu tình và phát biểu tại cuộc biểu tình ngày 8.5.2009 của tất cả quý vị Nhân sĩ, Lãnh đạo Tôn giáo, các Đoàn thể, Đảng phái, Cộng đồng Người Việt Tự do ở hải ngoại.

Để tiện việc sắp xếp chương trình, xin quý vị vui lòng liên lạc đến số điện thoại của chị Ỷ Lan +336 11 89 86 81, hoặc số điện thoại +316 23 14 14 79 của ông Lưu Phát Tấn.

Hẹn nhau mồng 8 tháng 5

Nhân quyền mở mặt Trăm năm một lần !

Biểu tình: 8 giờ sáng thứ Sáu ngày 8.5.2009 tại Place des Nations/Công trường LHQ thành phố Genève để biểu dương khí thế uy dũng của Con dân Nước Việt trước chế độ độc tài toàn trị Cộng sản Việt Nam.

Trước ngày 8.5.2009, mọi liên hệ, hỗ trợ, hỏi thăm tin tức, kính xin liên lạc về:

Quê Mẹ/Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam

B.P. 60063

94472 Boissy Saint Léger - France

Tel : Paris +331 45 98 30 85 – Fax Paris +331 45 98 32 61

E-mail : queme@free.fr

Dưới đây là bản đồ đi đến Place des Nations / Công trường LHQ.



Các tổ chức hưởng ứng Lời kêu gọi của Cơ sở Quê Mẹ: Hành động cho Dân chủ Việt Nam và Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam biểu tình ngày 8.5.2009 tại LHQ Genève và đã liên lạc về Paris với chúng tôi nhằm cộng tác thực hiện cuộc biều tình gồm có

- Văn phòng Liên lạc các Hội đoàn và Cộng đồng Người Việt Tự do tại Pháp

- Văn phòng II Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất/Hoa Kỳ

- Tổ chức Phục Hưng Việt Nam

- Liên Minh Dân chủ Việt Nam

- Đại Việt Cách Mạng Đảng

- Hội Phụ Nữ Việt Nam Tự Do Đức Quốc

- Cộng đồng Việt Nam Tị nạn Cộng sản tại Hòa Lan

- Liên Hội Người Việt tại Cộng hòa Liên bang Đức

- Hội Người Việt Tỵ nạn Frankfurt và vùng Phụ cận

- Tập thể Cựu Chiến sĩ VNCH tại Đức quốc

- Hội Văn hóa Người Việt Tự do / Pháp

- Cộng đồng Người Việt Quốc gia Tự do / Pháp

- Hội Hải quân và Hàng Hải

- Văn phòng Liên Đới Xã hội

- Tổ chức Quốc tế Yểm trợ Cao trào Nhân bản / Hoa Kỳ

- Phong trào Hưng Ca / Hoa Kỳ

- Vietnam Sydney Radio và Khối 1706 Yểm Trợ Tranh Đấu Cho Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam/Úc châu

- Thanh Niên Cờ Vàng / Hoa Kỳ

- Đảng Thăng Tiến

Cùng nhiều vị nhân sĩ khắp các châu lục.

Ánh Nến Lung Linh - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

(Trình bày trong Lễ Thắp Nến tối Thứ Bảy 25-4-2009 Tưởng niệm ngày Quốc Hận Do Hội Cựu Sinh viên Sĩ quan trừ bị Thủ Đức Toronto tổ chức)

    Kính thưa quý vị Quan khách,
    Kính thưa các bậc trưởng thượng,
    Thưa anh chị em,
Trước hết, tôi xin cảm ơn ban Tổ chức đã mời tôi phát biểu tối hôm nay. Để đỡ mất thời giờ, tôi xin vào đề ngay.

Thưa quý vị,

Một nhà hiền triết Pháp đã nói: “Con người là một cây sậy biết suy nghĩ.” Quả vậy, con người không phải là một thực thể vật chất thuần tuý, mà con người còn có phần tư tưởng, phần tinh thần và cả phần tâm linh nữa. Từ xưa cho đến nay, từ đông sang tây, con người có nhiều niềm tin khác nhau, nhiều tôn giáo khác nhau, với nhiều nghi thức và nghi lễ khác nhau.

Trong bất cứ nghi thức hay nghi lễ nào, con người cũng đều thắp nến, và dường như ánh sáng ngọn nến lung linh huyền diệu giúp con người dễ hiệp thông với những đối tượng mà con người đang suy tưởng. Chính trong ý nghĩa đó, hôm nay chúng ta, dù theo những tôn giáo khác nhau, cùng hội họp nơi đây, làm lễ thắp nến để tưởng niệm những chiến sĩ anh dũng, đã chiến đấu chống cộng sản trong cuộc chiến trước năm 1975, đồng thời hiệp thông với những chiến sĩ đang tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ hiện nay ở trong nước.

Thưa quý vị,

Vào năm 1954, ngoài hiệp định Genève (20-7-1954) là hiệp định đình chiến, chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17, hội nghị Genève còn thông qua bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Không một nước nào ký tên vào bản tuyên bố nầy. Bản tuyên bố nầy gồm 13 điều, trong đó điều 7 đưa ra một giải pháp chính trị là hai bên sẽ tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 để thống nhất đất nước. Dựa vào điều 7, Bắc Việt nhiều lần đề nghị Nam Việt tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1956.

Tại Nam Việt, sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm chuyển chính thể QGVN thành chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955 do ông làm thổng thống. Chính phủ VNCH bác bỏ đề nghị tổ chức tuyển cử của VNDCCH, vì chính phủ QGVN, tiền thân của VNCH, không ký vào hiệp định Genève và vì bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7-1954 không có chữ ký của các phái đoàn, thì không bắt buộc phải thi hành.

Dựa vào sự từ chối của VNCH, Đại hội 3 đảng Lao Động, tại Hà Nội (từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960) quyết định “giải phóng” miền Nam bằng võ lực. Sau đó, CSBV bắt đầu gởi quân tấn công miền Nam.

Vì Bắc Việt chủ trương xâm lăng Nam Việt, không lẽ Nam Việt ngồi yên chờ chết, nên Nam Việt phải động binh để tự vệ. Không ai thích chiến tranh cả, nhưng nếu những thanh niên Việt Nam lúc đó, trong đó có một số quý vị đang ngồi ở đây, không gia nhập quân đội, thì lấy ai chiến đấu chống cộng sản, bảo vệ miền Nam?

Phải sơ lược như thế để thấy rằng ngay từ đầu, Bắc Việt cộng sản hiếu chiến gây hấn và Nam Việt, vì lý do tự vệ chính đáng, không còn chọn lựa nào khác là phải chiến đấu để tự bảo vệ mình, bảo vệ tự do dân chủ ở miền Nam.

Để tăng cường áp lực đối với miền Nam, Bắc Việt bí mật cầu viện Liên Xô, nhất là cầu viện Trung Quốc. Những tài liệu mới tiết lộ gần đây cho thấy hầu như hằng năm, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh để báo cáo, và xin Trung Quốc tăng viện. Việc Hồ Chí Minh cầu viện Trung Quốc là một thảm họa cho dân tộc Việt Nam, kể cả vụ bauxite ở Tây nguyên ngày nay.

Xin lưu ý quý vị rằng từ năm 1939, Mao Trạch Đông đã đưa ra chủ trương rằng Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung Quốc. (Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, không đề tên tác giả, 1979, tr. 16.) Hồ Chí Minh, lúc đó có mặt ở Trung Quốc, biết rõ chủ trương nầy của Mao Trạch Đông, nhưng vẫn cầu viện Trung Quốc từ năm 1950. Trung Quốc gởi các phái đoàn cố vấn chính trị và quân sự sang điều khiển Việt Minh. Dựa trên báo cáo của đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã đề ra chiến lược Trường Sơn từ năm 1953. (Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, sách Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, tr. 68.)

Như thế, rõ ràng đầu nguồn chiến tranh, đầu nguồn tội lỗi phản quốc, đầu nguồn bán nước, chính là Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Trong khi đó, những chiến sĩ VNCH là những người đã hy sinh xương máu, chiến đấu để bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam Việt Nam. Quân lực VNCH chiến đấu vì sự sống còn của VNCH, của tự do dân chủ. Quân lực VNCH, trong đó có quý vị đang ngồi ở đây, chiến đấu vì quyền lợi tối thượng của quốc gia, của dân tộc.

Quân lực VNCH không chiến đấu vì một cá nhân, vì một lãnh tụ hay một đảng phái chính trị như những cán binh cộng sản Bắc Việt chiến đấu cho đảng Lao Động tức đảng CSVN. Quân lực VNCH cũng không chiến đấu cho quyền lợi của ngoại bang như các cán binh Bắc Việt chiến đấu cho Liên Xô, cho Trung Quốc. Khoảng thập niên 60, Lê Duẫn đã tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), tr. 422, phần chú thích.)

Trên bình diện quốc tế, cần phải nhấn mạnh là chính sự chiến đấu của Quân lực VNCH nếu không chận đứng, cũng đã làm chậm lại sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản xuống Đông Nam Á (ĐNÁ), nên các nước ĐNÁ có thời giờ chuẩn bị phòng thủ và không bị nhuộm đỏ. Cũng nhờ thế, các nước ĐNÁ mới có cơ hội phát triển đất nước như ngày nay.

Do những quyết định từ bên ngoài, do những thay đổi chiến lược trong chiến tranh lạnh trên thế giới, CSBV tạm thời chiến thắng năm 1975. Tuy nhiên, chúng ta thua một trận, nhưng chưa phải là chúng ta thua cuộc chiến. Cuộc chiến quốc-cộng cho đến nay vẫn tiếp tục, dù đã chuyển qua một hình thái mới, và một điều đáng mừng là trong hình thái mới nầy, chủ nghĩa dân tộc chân chính đang dần dần thắng thế trở lại.

Kính thưa quý vị,

Trong suốt cuộc chiến vừa qua, nhiều chiến sĩ đã hy sinh trong khi chiến đấu bảo vệ VNCH, bảo vệ tự do dân chủ, và bảo vệ sự sống còn của chính chúng ta. Họ đã ra đi và không bao giờ trở lại, như một nhà thơ ngày xưa đã nhận xét:

“Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
Thơ Vương Hàn

(Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.)

Hôm nay, chúng ta tập họp nơi đây, trước ánh nến lung linh huyền diệu, trong giây phút bồi hồi xúc động, lắng lòng hướng về quê hương, chúng ta tưởng nhớ những anh hùng đã nằm xuống, đồng thời chúng ta cùng vinh danh những chiến sĩ đang tranh đấu cho dân chủ tự do ở trong nước, những tù nhân lương tâm đang bị bạo quyền cộng sản giam giữ.

Tuy nhiên, thưa quý vị, tưởng nhớ và vinh danh cũng chưa đủ. Chúng ta cần phải suy nghĩ và phải tự hỏi chúng ta đã làm gì và sẽ làm gì để xứng đáng với sự hy sinh của những đồng đội đã nằm xuống và những chiến sĩ đang bị đọa dày trong ngục tù cộng sản?

Một cựu quân nhân ở trong nước, anh Nguyễn Cung Thưong ở Sài Gòn, đã sáng tác một bài thơ như hét lên “Hãy gửi súng cho tao”. Trong hoàn cảnh hiện tại, thực sự chỉ có những người trong nước mới đứng lên chống bạo quyền cộng sản trong nước, nên Nguyễn Cung Thương mới đòi “gửi súng cho tao”. Rất tiếc, ở hải ngoại chúng ta không có điều kiện võ trang để tiếp sức cho anh em trong nước. Tuy nhiên, không lẽ chúng ta quên đi những đồng đội của chúng ta đã hy sinh trước năm 1975? Không lẽ chúng ta làm ngơ trước những người đang bị cộng sản đọa đày?

Kính thưa quý vị,

Tin tức trong các tháng vừa qua cho thấy rõ ràng đất nước chúng ta đang lâm nguy. Sau khi nhượng đất, nhượng biển, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang khiếp nhược nhượng luôn cao nguyên Nam Trung Phần cho Trung Quốc, để Trung Quốc khai thác bauxite. Việc khai thác nầy chẳng những nguy hiểm về môi sinh, tàn phá núi rừng, mà còn nguy hiểm về lâu về dài trên phương diện an ninh quốc phòng cho Việt Nam.

Vì tất cả những lẽ đó, tuy không còn có thể võ trang như trước đây, chúng ta hãy tiếp tục cuộc chiến đấu bằng con đường khác. Thiết thực nhất, hiện nay chúng ta hãy hết lòng yểm trợ công cuộc tranh đấu dân chủ, dân quyền ở trong nước, và tranh đấu chống lại vụ bauxite ở Tây nguyên.

Chắc chắn cuộc chiến đấu nầy thật khó khăn, lâu dài, nhưng mỗi người một ít, mỗi ngày một ít, rồi có lúc lịch sử sẽ chuyển mình, phong trào tự do dân chủ sẽ đi đến thành công, còn hơn là chỉ ngồi nguyền rủa bóng tối, để suốt đời bị bóng tối bao phủ. Quý vị nhớ cho rằng một đám cháy có thể bắt đầu chỉ từ một que diêm. Một cuộc cách mạng cũng có thể bắt nguồn từ những vận động cá nhân, cùng nhau tạo dựng phong trào, cùng nhau góp gió thành bảo. Lịch sử cho thấy cuối cùng chính nghĩa sẽ chiến thắng. Lịch sử Việt Nam cũng cho thấy cuối cùng

    “Nam quốc sơn hà nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư.”
    Lý Thường Kiệt

    Sông núi nước Nam vua Nam ở
    Rành rành định phận ở sách trời
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Thiết thực yểm trợ phong trào dân chủ trong nước, vận động và tiếp tay người trong nuớc đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản, chận đứng cuộc xâm lăng chậm chạp nhưng nguy hiểm theo kiểu tằm ăn dâu (tàm thực) của Trung Quốc, là chúng ta thiết thực đền đáp công ơn những chiến sĩ VNCH đã hy sinh trước năm 1975 và những nhà tranh đấu cho tự do dân chủ đang chiến đấu ở trong nước.

Và như thế, ánh nến lung linh tối hôm nay mới thật sự đầy đủ ý nghĩa. Xin Hồn thiêng sông núi phò hộ cho cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam và chứng giám cho tấm lòng thành kính và biết ơn của những người tham dự buổi thắp nến tối hôm nay. Trân trọng cảm tạ quý vị đã lắng nghe và kính chào quý vị.

Trần Gia Phụng
Toronto, 25-4-2009


TỔ QUỐC – DANH DỰ – TRÁCH NHIỆM - Nguyễn Duy Thành

Nguyễn Duy Thành
    Tổ quốc
Có được dải đất cong cong như hình chữ S nằm hiền hòa bên biển nước trong xanh hôm nay. Thì sinh mệnh của Việt Tộc phải trải qua những cuộc trường chinh cam go đầy máu lửa. Cũng nằm trong chiều dài lịch sử đầy tràn biến động đó. Một cuộc chiến tranh mang tính Ý Thức Hệ đã xảy ra trong bạo lực.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cuộc chiến kết thúc . Kết thúc như lời thơ của Thanh Nam trăn trở:
    Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
    Cờ còn nước đánh phải đành thua
    Hay như tiếng lòng than thở của Song Nhị:
    Canh bạc đã về tay Bạo Chúa
    Tình người Đạo nghĩa đã nhường ngôi
Mới đó thôi mà đã 34 năm rồi ! Ba Mươi Bốn năm. Một thời gian không dài so với dòng lịch sử chinh chiến của quê hương. Nhưng với một phần ba của Thế kỷ đã đi qua. Rất đủ cho người đời hôm nay hay hậu nhân mai sau có cái nhìn ý nghĩa về chân Lý của thế hệ Cha Ông.

Thưa Bạn đọc.
Đặc biệt Bạn đọc trẻ tại Quốc nội Việt Nam.

Tất cả đã trở thành Lịch sử. Bóng tối của chiến tranh đã đi qua, đó đây trên các nẻo đường của Quê hương Việt Nam, cây cối đã xanh màu trở lại nhưng tương lai của con người vẫn còn vàng úa. Khắp nơi trên đường phố Hà Nội hay Sài gòn, hàng ngàn cánh tay của Dân Oan đang đưa lên để đòi công chính. Và e ngại rằng ! một ngày không xa, màu xanh cây cối của đất nước và ước mơ của con người Việt Nam sẽ mãi vàng úa, và lụi tàn dưới bước chân dày xéo của dòng người Đại Hán Phương Bắc đang ào ạt tiến vào Tây Nguyên.

Một sự thật đau lòng đang xảy ra trên Tổ Quốc chúng ta. Bạn đọc nghĩ gì ?

Nhìn lại dòng Lịch sử đã đi qua và biết được hiện trạng của quê hương hôm nay. Chúng ta mới khẳng định được cái công lao và sứ mạng bảo vệ Miền Nam được tự do-dân chủ và phú cường của Người Lính: Việt Nam Cộng Hòa.

Muốn hiểu hết được ý nghĩa nói trên thì chỉ cần một phút thôi ! Bạn đọc sẽ nhớ lại dòng lịch sử của 34 năm về trước. Khi những người Bộ đội Bắc Việt đưa cao khẩu hiệu “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” quyết sống chết để giải phóng Miền Nam và đem lại sự hòa bình cho đất nước. Một thứ hòa bình mà Nhà Báo Phan Nhật Nam đã chua chát:

-“Một thứ Hòa Bình quái dị, đắng như thuốc mà quê hương trong cơn thập tử phải uống vào”.

Đúng vậy ! Câu nói này chỉ phát ra sau một ngày Hiệp Định Paris được ký kết, nó như một thông điệp xám, một tiên đoán buồn, một phân ưu cho một Nửa Tổ Quốc. Một chế độ tự do và dân chủ bị cưỡng bức đi vào một tương lai tăm tối, và chỉ còn là hoài niệm của bao người. Người tránh đấu cho tự do.

Quả thật như thế ! trải qua 34 năm. Dưới chế độ đương thời. Ngay cả những người dồn hơi cao cổ thét to khẩu hiệu – Không Có Gì Quý hơn Độc Lập Tự Do ! Chính họ vẫn không được độc lập tìm cho mình một nhân tài, để tự do bỏ phiếu cho người lãnh đạo Quốc gia mà họ muốn. Giản đơn như thế mà vẫn không có được ! Từ đó. Ai đã từng sống trong Chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới hiểu ra hết cái chân lý. Có khi trở thành một nguyên lý của thể chế Cộng Hòa là: Chính Quyền do Dân Cử và vì dân mà phục vụ. Rất có thể ! Chế độ Việt Nam Cộng Hòa chưa tuyệt đối hoàn hảo. Nhưng rất đầy đủ về Quan điểm và Khuynh hướng chính trị yêu nước. Để cho những người lãnh đạo nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải noi gương theo. Và phải chăng cũng vì thế ! Gần Ba Triệu con dân Việt Nam đang lưu vong đều đồng niệm: Việt Nam Cộng Hòa là Tổ quốc của tôi.
    Danh dự
Tự ngàn xưa. Tiền nhân truân chuyên vất vả lắm mới tạo nên được giang sơn hùng vĩ như ngày nay. Giang sơn này đã kết tinh và hun đúc nên một dân tộc mang tính chí nhân quật cường. Đó là Dân Tộc Việt Nam. Cho nên trong dòng sử xanh của Việt Tộc. Lời của Nguyễn Trãi đã khẳng định về danh dự của Quốc gia và nhân phẩm của Con Người như một Thiên Cổ Hùng Văn:
    Như nước Đại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Song hào kiệt thời nào cũng có
Thế mà !

Hơn 60 năm dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam . Danh dự của Quốc gia và thể diện của Con người chỉ tóm gọn trong một câu nói ngắn ngủi của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt:

- Cầm cái Passport Việt Nam đi qua nhiều nước. Nhìn quốc gia người ta mà tôi thấy mình nhục nhã!

Phải ! Không nhục làm sao khi hàng chục chị em phụ nữ Việt Nam phải bị cởi lột trần truồng cho một người đàn ôngTrung Quốc - Đài Loan hay Đại Hàn ngắm nhìn để chọn vợ !

Không nhục làm sao ! Khi chính nhân viên Đại Sứ Quán Việt Nam ở Châu Phi buôn lậu Sừng Tê Giác.

Không nhục làm sao ! Khi chính Phi công Hàng Không Việt Nam ăn cắp và chuyên chở hàng lậu bị nước Nhật lên án.

Không nhục làm sao ! Khi Ngư dân Việt Nam bị Trung Cộng bắn chết ngay trên lãnh hải của đất nước mình.

Không nhục làm sao ! Khi anh chị em công nhân lao động bần hàn đang thất nghiệp, thì giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam mở cửa cho công nhân Trung Cộng ào ạt vào Tây Nguyên đào hầm bới mỏ. Phải chăng anh chị em người Việt không biết lao động chân tay !

Làm sao nói hết tất cả nỗi nhục của người dân Việt Nam !

Từ đó. Người ta mới thấm thía nhận ra được sự danh dự của một Quốc gia và thể diện Con người. Qua câu nói của người Lãnh đạo Quốc Gia và cũng là người đứng đầu đại diện cho Người Lính Việt Nam Cộng Hòa:

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm từng tuyên bố:
    - “Nếu tôi tiến, thì đồng bào hãy tiến theo tôi. Nếu tôi bỏ chạy, thì đồng bào hãy bắn chết tôi”
Và Danh dự của Quốc gia cũng như phẩm chất của người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã được Người khí khái khẳng định với Ngoại Bang trước giờ lâm chung:
    - “Tôi mới là Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa. Chứ, không phải các ông ở Tòa Đại Sứ Mỹ. Tôi sẽ lập lại trật tự của đất nước tôi”
Danh Dự là như thế đó !
    Trách nhiệm
Nhìn lại Lịch sử Cổ đại đến Cận đại của Đông sử hay Tây sử. Thì sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Việt Nam chứng minh hùng hồn một điểm. Chưa có một Quân đội của một Quốc gia nào trên thế giới có số lượng Tướng Lãnh và Binh Sĩ đã tuẫn tiết theo lý tưởng nhiều như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lịch sử cận đại Việt Nam ghi nhận. Họ đã vì Tổ Quốc -Danh Dự – Trách Nhiệm mà Quyên sinh.

Thưa Bạn đọc Hải Ngoại. Bạn đọc Quốc Nội.
Hiện nay.

Tổ Quốc Việt Nam chúng ta đang lâm nguy. Lâm vào nguy cơ Hán Hóa của Trung Cộng dưới nhiều hình thức. Mấy hôm nay. Các cơ quan Truyền Thông Việt Nam Hải Ngoại cho phát đi một đoạn Phim về cuộc chiến trước đây tại Hoàng Sa và Trường Sa giữa hai Quân đội Cộng Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc.

Các Bạn có đau lòng không ? Khi thấy hơn 100 người lính Bộ đội Cộng Sản Việt Nam mình trần thân trụi với những vũ khí thô sơ, không có tàu bè che chắn. Nhưng họ vẫn dũng cảm đứng dàn hàng ngang trên các gầm đá giữa biển khơi, chơi vơi và cô đơn giữa một đoàn Chiến Hạm tối tân của Trung Cộng đang bao vây chặt họ. Những tiếng súng lớn, súng nhỏ vang lên sau những tiếng hô “Tả Tả” và “Sát Sát” nghĩa là “Đánh Đánh” và “Giết đi Giết đi”. Những tiếng la hét, cầu cứu vang lên ... và chỉ trong 26 giây đồng hồ. Hơn Một Trăm người Bộ Đội. Hơn Một Trăm con dân nước Việt chúng ta nằm xuống, nằm xuống như những tấm bia dành cho người tập bắn súng. Chỉ có biển khơi mới nghe lời trăn trối của Họ !

- Tại sao hôm qua Họ phải chết trên những gầm đá kia ?
- Tại sao hôm nay những gầm đá kia phải dâng nhường cho Trung Cộng ?

Đau đớn hơn ! Chính những thước Phim đó được Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc làm tài liệu để đào tạo lính Hải Quân. Họ đào tạo cách giết người Việt Nam sao cho nhanh chóng hơn ! Sao cho man rợ hơn!

Bạn trẻ ở Quốc Nội Việt Nam hãy xem thước phim đó để đánh thức lòng tự ái dân tộc của mình. Đây là lúc tốt nhất. Thời điểm hợp lý nhất. Để bạn đặt TỔ QUỐC- DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM của người Việt Nam lên hàng Tối Thượng. Như Lý Tưởng cao đẹp của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.

Nhân ngày 30 tháng 4. Xin gởi đôi dòng suy tư và tưởng niệm đến cùng bạn đọc. Trân trọng Kính chúc Quý vị có một ngày Tưởng Niệm đầy ý nghĩa trong tình Việt Nam.

Kính chào
Hậu sinh
Nguyễn Duy Thành

Tuổi trẻ Việt Nam - Lê Nguyễn Huy Trần


Lê Nguyễn Huy Trần

Nhiều người cứ trách rằng thế hệ trẻ Việt Nam thời nay có lối sống buông thả về đạo đức, tư cách, và nhân phẩm. Tôi không phủ định cách nhận xét ấy vì chính bản thân tôi cũng thấy buồn khi những phong tục tập quán và giá trị con Rồng cháu Tiên được xem là niềm tự hào dân tộc ngày càng bị mai một dần, thay vào đó là một nền văn hóa thực dụng.

Tuy nhiên, tôi cũng muốn đưa ra một số nguyên nhân và luận điểm dẫn đến vấn nạn thiếu ý thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong nước qua cái nhìn hạn hẹp của chính tôi. Tâm nguyện của tôi qua bài viết này không phải để bào chữa cho cái nhìn lãnh đạm của tuổi trẻ về hiện tình đất nước mà là mong tìm thấy sự đồng cảm từ các bậc cha ông lão thành, đồng thời có thể giúp các bản trẻ thấu hiểu được sự việc để biết mình cần phải làm gì cho đất nước ngày hôm nay.

Quan hệ nhà nước – xã hội – gia đình đóng một vai trò quan trọng đến cách suy nghĩ và nhận thức của giới trẻ. Một đất nước văn minh sẽ khai thông được tư tuởng và sức sáng tạo trong con người. Nhưng ngược lại, nếu các bạn trẻ được giáo dục và đào tạo dưới một bộ máy “độc quyền, độc Đảng” như Việt Nam hiện nay thì quả thực rất khó có thể tự giác học hỏi những điều mới lạ và hữu hiệu để góp phần xây dựng Tổ quốc. Một chính quyền bạo lực với các ban lãnh đạo thi nhau tham nhũng, đàn áp người dân vô tội, không cho họ lấy một cơ hội “hé răng” than trách nửa lời. Một nhà nước thối nát tận gốc rễ: tự do ngôn luận không có, tự do báo chí không tồn tại, phi dân chủ, vô tôn giáo, và mất nhân quyền. Một xã hội bất công bao gồm các tầng lớp được phân hóa rõ rệt khi có người thì “giàu nứt vách đổ tưởng”, còn người nghèo tận cùng thì chỉ biết nằm chờ chết.

Vậy làm sao gọi là nước “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa” và rồi đặt hết trách nhiệm lên vai của thanh thiếu niên Việt Nam cho một đất nước phát triển trong khi lớp trẻ này sinh ra sau ngày nhà nước bại hoại ấy được thành lập. Bây giờ con người đang sống trong thế kỷ hai mươi mốt – thời đại mà nền kinh tế của một nước là yếu tố chính quyết định sức mạnh và sự phồn vinh của nước ấy đối với những nước khác trên thế giới. Cho nên nhu cầu của con người cũng vì thế mà tăng lên. Ai ai cũng muốn có một cuộc sống đầy đủ về mọi mặt: vật chất lẫn tinh thần, và luôn mang trong người những tham vọng đạt chức danh ông này hay bà nọ để đời.

Thế hệ trẻ Việt Nam đang sống trong thị trường thời mở cửa thì càng bị lôi cuốn với ý nghĩ: một người thật sự thành công chỉ khi nào có địa vị vững vàng trong xã hội. Họ chỉ nhìn vào hình ảnh những người đi trước đã bất chấp mọi thủ đoạn hèn hạ để tiến thân mà không hề hay biết rằng chính họ đang biến bản thân mình trở thành những con người thiếu đạo nghĩa khi nối gót theo các vị tiền bối ấy. Về mối liên hệ với gia đình, giới trẻ cũng không tìm được tiếng nói đồng thuận từ người thân vì khoảng cách giữa cha mẹ và con cái ngày càng bị nới rộng.

Hầu hết các bậc phụ huynh cứ mãi lăn lộn kiếm tiền ngoài xã hội mà quên mất nhiệm vụ cao cả của một người cha, người mẹ. Điều tôi muốn nói ở đây là họ vẫn dành tình thương cho con cái, luôn mong muốn con mình trở thành một người có ích cho xã hội; thế nhưng, do cuộc sống bận rộn hay vì những ngăn cách khác, họ lại thiếu quan tâm đến ý thích, ước mơ cũng như thiếu chia sẻ về thắc mắc của con cái. Đó là một thiếu sót lớn ở cái xã hội mất luân lý này. Chỉ có cha mẹ mới là tác nhân đắc lực trực tiếp giúp trẻ hoàn thiện tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức. Nếu như thế hệ 8X, 9X chỉ biết đến trường để bị đầu độc tư tưởng “Bác Hồ là vị cha già dân tộc” hay “Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng” ngay từ thuở nhỏ thì làm sao dễ dàng xóa bỏ được những vết mực dơ đã gieo vào nhiều đầu óc non nớt như trang giấy trắng tinh kia.

Có ai chỉ cho họ dám lên tiếng chống đối Đảng khi thấy đường lối của Đảng là sai? Có ai nói cho họ nghe những sự thật trong quá khứ mà Đảng và nhà nước đã cố tình giấu nhẹm hơn ba thập niên qua? Có ai dạy cho họ phải biết bảo vệ những người dân lành đang bị áp bức bởi công an là kẻ đại diện cho pháp luật? Có ai khuyên nhủ họ cần nhận biết và cảnh tỉnh vận mệnh đất nước đang “ngàn cân treo sợi tóc”? Các bạn trẻ không thể tự tìm hiểu những điều cần phải biết trong khi thông tin truyền thông đại chúng bị gò bó trong khuôn khổ Đảng nói dân nghe. Dù có một số ít hiểu rõ hiện trạng đất nước thì họ cũng không dám để lộ ra tư tưởng mà theo Đảng gọi là “phản động” cho người khác thấy bởi họ sợ liên luỵ đến gia đình và người thân. Họ không can đảm trao đổi cách nghĩ của mình về các vấn đề xã hội “nhạy cảm” với bạn bè đồng trang lứa vì nó như một đề tài xa lạ trong cuộc sống hằng ngày của sinh viên.

Hôm trước, tôi có dịp trò chuyện với một vài người bạn trong nước để hiểu xem các bạn ấy có nhận định gì về tình hình xã hội hiện nay trên đất nước Việt Nam. Có người cho rằng dân Việt Nam nhìn chung là “thụ động và sống lệ thuộc”. Ai cũng chỉ biết “vâng lời” theo nề nếp Đảng Cộng Sản đặt ra để được yên thân. Vì thế nếu có kẻ tìm cách bức ra khỏi lối sống ấy thì được xem là “sâu” tuy “sâu chưa chắc đã hại”. Tôi thấy nếu đã gọi là sâu bọ thì cần phải được loại bỏ nhưng có đáng không khi những người đó không muốn tương lai bị lệ thuộc theo cách sắp xếp của nhà cầm quyền Cộng Sản.

Người khác thì nghĩ “ai cũng làm việc vì bản thân” và khó thay đổi được thực trạng này thì làm sao ý thức đoàn kết dân tộc được đề cao. Vài người còn lại không mấy quan tâm đến hiện tình đau thương của đất nước, con người Việt Nam mà chỉ chú ý “nền kinh tế vừa lạm phát, vừa đình trệ” có ảnh hưởng thế nào đến công ăn việc làm. Qua mấy cuộc nói chuyện ngắn ngủi ấy, tôi cảm thấy rằng xã hội Việt Nam đang nuôi dưỡng thanh thiếu niên trở thành những người công dân chấp nhận sống dưới bóng đen Cộng Sản bởi họ tuyệt đối tin vào luồng thông tin phi thực tế của bộ chính trị đảng hay tiếp nhận các phim ảnh thiếu tính giáo dục được đưa từ ngoài vào. Khi đất nước Việt Nam mở cửa và hội nhập với những nước khác thì cũng chính là lúc tệ nạn xã hội gia tăng. Ngoài học hỏi những điểm tốt từ các nước bạn, giới trẻ cũng không tránh khỏi ảnh hưởng xấu như bạo lực trong học đường, bất mãn và phản kháng thầy cô, quan hệ bạn bè cởi mở đến mức khó chấp nhận, v.v…

Bên cạnh đó, cách mạng công nghệ kỹ thuật cũng được áp dụng rộng rãi nhưng thiếu kiểm soát làm nhiều bạn trẻ bỏ quá nhiều thời gian vào việc truy cập bậy bạ trên internet hay mê muội game online đến nỗi vô tình quên đi cuộc sống thực tại, quên đi việc học hành, quên đi nghĩa vụ một người chủ tương lai của đất nước. Mấy năm trước nhà nước cho thi hành chính sách xoá nạn mù chữ và tôi không thất vọng khi thấy số lượng sinh viên Đại học tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ khoảng hai trăm ngàn sinh viên học Đại học vào năm 1990, nhưng đến năm 2005 thì con số đã chiếm đến hơn một triệu tư. Thế nhưng nhà nước lại không tích cực giải quyết nạn thất nghiệp lan tràn trên khắp mọi miền nên nhiều sinh viên ra trường không kiếm được việc làm phù hợp với bằng cấp của mình.

Nếu tuổi trẻ Việt Nam đang bước vào giai đoạn tự lập như một người lớn thực thụ mà không kiếm nổi một bữa “cơm lành, canh ngọt” thì thử hỏi sức lực đâu mà nghĩ đến vận nguy nước nhà. Họ sẽ chán nản và phó mặc cho số phận đưa đẩy. Cuộc đời lại lắm trớ trêu khi nhiều kẻ vô học được gắn mác “con ông cháu cha” lại phè phởn với những cuộc ăn chơi trác táng, lại ngạo nghễ trên nỗi đau nhân loại. Đấy là những thành phần làm ô uế một tập thể chung khiến mọi người có cái nhìn thiếu thiện cảm về tuổi trẻ Việt Nam. Nhiều người cho rằng tôi đang bênh vực cho thế hệ thanh thiếu niên theo luận điệu cố hữu mà ai cũng biết. Vậy có ai thực sự thông cảm với những gì thế hệ “mắt không thấy, tai không nghe” này phải gánh chịu từ bao biến cố ngày xưa?

Tôi hi vọng người lớn hãy yêu thương và dìu dắt chúng tôi, vạch ra những sai sót và thiếu bản chất sự thật chứ đừng vội trách chúng tôi không xứng đáng là lực lượng thay đổi tương lai đất nước. Nếu giới trẻ được sự hướng dẫn tận tình của những bậc trưởng bối thì tôi tin rằng các bạn ấy sẽ tích cực tiếp thu những lời dạy bổ ích đó.

Tôi đã từng nằm trong hoàn cảnh tù túng dưới bộ máy chính quyền ĐCSVN nên tôi cảm nhận được nỗi bức xúc và sự nặng nề của nhiều người phải cam chịu sống im lặng từng ngày. Thật lòng tôi rất muốn gởi tâm tình của một người con yêu nước đến các bạn trẻ Việt Nam, những người chưa thấy rõ bộ mặt đê hèn và trơ tráo của Đảng ta. Tôi biết nhiều bạn trẻ cũng đang cố gắng chèo lái con thuyền của mình trên đại dương đầy sóng gió cạnh tranh, đầy khó khăn cản trở để hướng đến một chân trời mới. Ai cũng có khát vọng và ấp ủ những hoài bão riêng. Lúc còn ngồi trên chiếc ghế nhà trường, nếu các bạn chỉ biết quyết tâm học thật giỏi mà không màng đến thế sự thì cũng giống như tôi trước kia vậy.

Đến khi bước chân vào đời, các bạn bắt đầu nhận ra sự chèn ép bất công trong lòng xã hội. Có khi nào các bạn tự hỏi những điều oái oăm ấy là do đâu? Các bạn sẽ không tìm được câu trả lời thích đáng nếu các bạn chưa bao giờ biết đến hàng ngàn nỗi đau chua xót xảy ra với đồng bào Việt Nam trong thời gian gần đây. Tôi ghê tởm cái cách nhồi sọ tinh vi thuyết Chủ Nghĩa Cộng Sản và cách che giấu ma mãnh của Đảng đã làm các bạn không thể hiểu rõ thực trạng màn trời chiếu đất của nước nhà trong lúc này. Các bạn không học về biến cố thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế (1968) được xem là nỗi kinh hoàng truyền kiếp bởi vụ giết người hàng loạt, chôn sống tập thể của quân đội Bắc Việt còn tàn độc hơn thời Hít-le. Các bạn không được nghe kể về sự xâm lăng của Trung Cộng khi đánh chiếm đảo Hoàng Sa năm 1974 hay chiến tranh biên giới Việt – Trung vào năm 1979 đã hi sinh biết bao nhiêu chiến sĩ hải quân. Các bạn không được biết chuyện nhà cầm quyền Hà Nội toan phá bỏ những mộ bia của các thuyền nhân năm xưa đi vượt biên tỵ nạn trên đảo Pulau Galang, Nam Dương hay ở một số nơi khác chỉ vì họ muốn che đậy tội lỗi đối với những linh hồn không được siêu thoát sau cuộc chiến.

Các bạn không thấy được chính quyền Cộng Sản thẳng tay đàn áp và bỏ tù những nhà đấu tranh dân chủ như LM Nguyễn Văn Lý, LS Nguyễn Văn Đài, LS Lê Thị Công Nhân, v.v… chỉ vì họ dám đứng lên tranh đấu đòi nhân quyền. Các bạn không ngờ đến việc ĐCSVN đang chứa chấp bọn bá quyền xâm lược Tàu dưới chiêu bài hợp tác khai thác quặng nhôm với Trung Quốc trên vùng Tây Nguyên. Đã có rất nhiều bài viết phân tích về mối nguy hại nghiêm trọng cho môi trường nếu kế hoạch bauxite này được đưa vào hoạt động. Nó không đơn giản chỉ tác hại về kinh tế mà còn cả phương diện xã hội, đời sống, và chính trị khi sự diệt vong của một đất nước đang ở mức báo động. Nhiều dư luận đã lên tiếng phản đối dự án ngu ngốc này của ĐCS nhưng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn phớt lờ tất cả để tiếp tục nối giáo cho giặc. Thật ra, các nhà lãnh đạo nước CHXHCNVN chỉ là bọn bù nhìn đang bị quản thúc dưới tay đàn anh Trung Cộng. Các bạn là những người sáng suốt phải nhìn thấu được điều này và cần biết nên làm gì để hoàn thành sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc.

Đảng cầm quyền Việt Nam đang bóp chết mọi hi vọng và ước mơ của thế hệ chúng ta khi dập tắt những cuộc HSSV biểu tình chống sự xâm lấn của giặc Tàu. Thành phần buôn dân bán nước này cần phải được triệt hạ trước khi chúng dâng hiến toàn bộ giang sơn Việt Nam cho bọn bành trướng Trung Cộng. Tình thế nguy ngập của nước nhà không cho phép tuổi trẻ Việt Nam ngồi yên chịu đựng cái nhục quốc thể. Bây giờ là thời điểm để mỗi người chúng ta góp một bàn tay đấu tranh cho quê hương thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang. Bọn xâm lược Tàu Cộng đã không cho chúng ta quyền tự trị trên mảnh đất Việt Nam thân yêu. Vì thế chúng ta không thể dễ dàng khuất phục cho bọn chúng cai trị dân tộc Việt Nam ta – một dân tộc ngàn đời hiển danh quật cường.

Các bạn đừng phí phạm thời gian cho các cuộc tụ tập vui chơi vô bổ mà hãy dành giây phút vàng bạc đó để tìm hiểu sự thật về tất cả tội ác của chế độ Cộng Sản đã gây ra, về những uẩn khúc lịch sử đang chờ các bạn làm sáng tỏ. Hãy mạnh dạn nói lên những suy nghĩ và ước nguyện của các bạn cho một tương lai nước Việt giàu mạnh. Hãy chia sẽ những tâm tư và trăn trở của các bạn với những bạn trẻ khác để ý thức dân tộc được nâng cao. Hãy chấm dứt sự si mê ngu muội mà Đảng CSVN đang cố tình nhồi nhét vào não bộ các bạn. Chúng ta biết tìm tòi và học hỏi để hướng đến chân – thiện – mỹ chứ không nên chịu sự sai khiến của đám lãnh đạo nhà nước ngu si và bảo thủ. Các bạn không thể tự chủ trên một đất nước không có dân chủ.

Các bạn không thể tồn tại trong một xã hội không có công bằng. Đất nước Việt Nam đang cần các bạn. Một mình tôi không thể làm gì, một nhóm người lẻ tẻ cũng không đủ khả năng giải cứu non sông, nhưng cùng với toàn dân Việt Nam trên khắp năm châu bốn bể, chúng ta sẽ xây dựng lại một quê hương tự do, ấm no và thanh bình.

Hỡi tuổi trẻ Việt Nam, chúng ta hãy cùng nhau đứng dậy!

Lê Nguyễn Huy Trần


Tuesday, April 28, 2009

Thơ Mời Tham Dự Ngày Quốc Hận 30-04-2975 Tại Paris

THƠ MỜI

THAM DỰ NGÀY "QUỐC HẬN 30-4-75
"TRƯỚC SỨ QUÁN HÀNỘI"
TẠI PARIS
Ngày thứ năm 30.4.2009 lúc 17h00

Trung thành với truyền thống tranh đấu bất biến, và lập trường chống cộng, đúng với tinh thần "Quốc Hận 30-4-75" của Văn Phòng Liên Lạc các Hội Đoàn và Người Việt Tự Do tại Pháp, đã đề ra kể từ ngày thành lập (1977) đến nay.
  • Ban Tổ chức " NGÀY QUỐC HẬN 30-4-75", năm 2009
Trân trọng kính mời Quý Đồng Hương tham dự cuộc biểu tình được tổ chức từ 17 giờ đến 20 giờ chiều Thứ Năm 30-4-2009, tại góc đường Boileau và Boulevard Exelmans , Quận 16 Paris (Métro Exelmans)

Sự hiện diện của Quý Vị nói lên tinh thần bất khuất, kiên trì giữ vững phương hướng chính nghĩa của Người Việt Hải Ngoại trong đấu tranh giải thoát Đồng Bào Quốc Nội khỏi ách cộng sản hầu mang lại Dân Chủ, Tự Do, Hanh Phúc và Thanh Bình, Thịnh Vượng cho Quê Hương yêu dấu .

Paris ngày 15 tháng 4 năm 2009
TM. Ban Tổ chức,

Cựu TTK VPLL, ông Trần Hồng
Cựu TTK VPLL, ông Nguyễn Tường Long (CT/UBBVCNQGVN)
Cựu TTK VPLL, ông Lai Thế Hùng (CT/CĐNVQG-Âu Châu))
Cựu TTK VPLL, ông Dương Văn Lơi (CT/Hội TNCT & NN CSVN)
Dược sĩ Phạm Đăng Lý CT/ Hiệp Hội Cử Tri gốc Á Châu

*
* *


Đỉnh Cao Trí Tuệ của Đảng Cộng Sản Việt Nam - Lê Nguyễn Huy Trần

Lê Nguyễn Huy Trần

Trí tuệ của một con người gồm có sự hiểu biết thông thái, tư duy sáng tạo và ý thức bản thân; là ba yếu tố chủ đạo phân định giữa loài người và giống thú. Thế nhưng đối với những người lãnh đạo nhà nước Việt Nam thì ba yếu tố trên không hề tồn tại.

Trí tuệ của Đảng Cộng Sản được định nghĩa bằng bạo quyền, khủng bố, áp bức, bóc lột, xảo trá, lường gạt, bưng bô, bán nước, phản bội dân tộc, giết hại đồng bào. Bất cứ một hiệp định hay dự án nối giáo cho giặc ngoại bang nào cũng được Đảng tuyên truyền là “đỉnh cao trí tuệ” của nhà nước. Ngày hôm nay nhìn hàng triệu người dân oan đang phải gánh chịu muôn ngàn nỗi đau đớn đến từng thớ thịt, buốt cả tim gan vì những “kế hoạch to lớn” của nhà cầm quyền Cộng Sản, tuổi trẻ chúng tôi không nén được nỗi bực tức cho chế độ độc tài Đảng trị và sự ngậm ngùi cho những số phận nghiệt ngã kia.

Có lẽ bộ não của mấy kẻ thất học trong Bộ chính trị được nhào nặn bằng đất sét hay xi-măng nên họ không đủ trình độ để nhận biết rằng ngọn giáo nối cho giặc Tàu ấy chuẩn bị đâm ngược lại chính bản thân họ. Những tội ác ĐCS đã gây nên trong khoảng thời gian cai trị trên đất nước Việt Nam sẽ bị nguyền rủa mãi cho đến những thế hệ mai sau.

Bắt đầu từ sự kiện hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Đây là cuộc chiến xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của Tàu Cộng sau khi thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương. Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa đã vô cớ cho chiến hạm đến đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã dũng cảm chiến đấu tới cùng để bảo vệ toàn vẹn lãnh hải. Nhiều thuỷ thủ Việt Nam, trong đó có hạm trưởng Nguỵ Văn Thà của HQ-10, đã ngã xuống trong trận hải chiến này nhưng nhà nước XHCNVN không bao giờ tưởng nhớ đến sự hy sinh anh dũng của các anh.

Trái lại, họ dễ dàng để cho giặc Tàu tàn phá những bia chủ quyền, xóa sạch những di tích lịch sử và mộ bia của ngư dân Việt trên quần đảo này. Nhân bản tối thiếu của chính quyền Cộng Sản đã lụn bại quá độ khi đồng tình với lũ ác bá Trung Cộng không để hương hồn của những người đã khuất được yên nghỉ nơi chín suối. Ngày hôm nay lại tiếp tục xảy ra tranh chấp lãnh hãi chỉ vì bản công hàm bán nước do thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký ngày 14/9/1958

Tuy nhiên bản công hàm xác định hải phận này không nói rõ chủ quyền của Trung Quốc ở hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Cộng đã ngang nhiên dựa vào nó để chiếm cứ hai hòn đảo này mà bất chấp luật quốc tế về biển. Bộ chính trị quốc phòng Việt Nam đã làm gì để ngăn chặn sự cướp đoạt trắng trợn này của Trung Cộng? Họ chẳng có biện pháp nào ngoài hai chữ “câm lặng” thể hiện đỉnh cao trí tuệ của Đảng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh hành động dâng hiến đất đai của tổ tông cho quân cướp nước là một việc làm sáng suốt.

Cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu bán Ải Nam Quan, rồi thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm và những thắng cảnh thiên nhiên cũng đã mất. Nếu các cán bộ Trung ương này cứ mãi lập chiến công bán nước thì dải đất Việt Nam sẽ không còn mềm mại hình chữ S. Và một ngày không xa, toàn bộ giang sơn gấm vóc chẳng còn thuộc về con Rồng cháu Tiên nữa khi giặc ngoại xâm tràn vào bờ cõi. Thật nhục nhã cho cái mà Đảng và nhà nước gọi là “đỉnh cao trí tuệ”.

Tiếp đến là chiến tranh biên giới Việt – Trung xảy ra vào năm 1979 khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kịch liệt phản đối quan niệm của Tàu Cộng về chủ nghĩa bành trướng ở Liên Xô sẽ nguy hại đến các nước cộng sản trong khu vực Châu Á và vì thế mà không tham gia vào khối liên minh chống Liên Xô. Ngày 17/2/1979, quân đội Trung Cộng bắt đầu tiến đánh tuyến biên giới phía Bắc nước Việt như thể “dạy cho Việt Nam một bài học” theo lời Đặng Tiểu Bình vì cái tội cãi lời đàn anh.

Tuy cuộc chiến này chỉ diễn ra trong vòng một tháng nhưng rất quyết liệt. Những hành vi man rợ của giặc Tàu lấy dao chẻ củi và dùng cọc tre đánh chết hàng trăm trẻ em, phụ nữ rồi quăng xuống giếng nước. Hậu quả là quan hệ hai nước Việt – Trung trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Không còn khoảng viện trợ từ Trung Quốc, nền kinh tế và vấn đề ngoại giao của Việt Nam lúc bấy giờ bị tổn hại nặng nề. Dù vậy, tinh thần vì thể diện quốc gia của các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới này sẽ mãi được ghi nhớ trong lòng mỗi người dân mang dòng máu Lạc Việt.

Thế nhưng Đảng Cộng Sản lại cho xây dựng những nghĩa trang với những dòng chữ “nhớ ơn liệt sĩ Trung Quốc” hay “Nhân dân Việt Nam ghi công liệt sĩ người Trung Quốc” trên khắp đất nước. Quả là một chuyện khôi hài mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Có thể chế nào lại khua trống thổi kèn biểu dương quân thù đã từng đô hộ đất nước của mình một ngàn năm?

Có chính quyền nào lại dựng đài tưởng niệm kẻ xâm lăng giết hại đồng bào của mình? Có nhà nước nào lại kính trọng dâng những vòng hoa tưởng nhớ công lao của kẻ địch trong khi xương máu các vị anh hùng dân tộc thì bị chìm vào quên lãng? Thật sự tôi không biết phải dùng từ ngữ nào để diễn tả cái đạo đức tồi bại của ĐCS cho phải phép. Vẫn chưa hết, hiện nay có một cuốn sách ca ngợi những chiến công hiển hách của Tàu Cộng trong chiến tranh biên giới Việt – Trung được phát hành trên nước ta. Đó là cuốn “Ma Chiến Hữu” của tác giả Mạc Ngôn ở Trung Quốc do Trần Trung Hỷ dịch thuật.

Tại sao ĐCS cho phép xuất bản? Cho dù tác phẩm này có giá trị văn học đến thế nào đi chăng nữa thì làm sao chúng ta có thể chấp nhận cho nó lưu hành trên thị trường khi mà nó chà đạp lên lòng tự trọng dân tộc và vong linh của các liệt sĩ đã ngã xuống cho quê hương. Đỉnh cao trí tuệ của Đảng là hèn nhát quỳ lạy dưới chân Tàu Cộng mặc cho niềm kiêu hãnh của dân tộc bị bôi nhọ hay sao. “Một cách suy nghĩ khác về chiến tranh” nào nữa nếu không là vì gìn giữ non sông và bảo tồn nòi giống. “Một cách ca tụng riêng về chủ nghĩa anh hùng” tuyệt vời đến mức độ nào đây khi cái thuyết chủ nghĩa ấy chỉ biết đày đọa người dân đến chốn bần hàn cơ cực, ngay cả chén cơm ăn cũng không kiếm nổi. Ôi trí tuệ của Đảng ta!

Nhà cầm quyền Cộng Sản còn tiếp tục vươn đến những đỉnh cao bạo tàn khác nữa chứ không chỉ dừng lại ở đó. Chính quyền địa phương ở nhiều nơi đã dùng quyền lực chiếm đất đai của các giáo hội bất hợp pháp để dùng vào mục đích riêng.

Công an thì thẳng tay đàn áp người dân vô tội khi họ lên tiếng chống đối sự cướp giật ngang ngược của bè lũ lãnh đạo. Tiêu biểu là vụ cướp đất giáo xứ Thái Hà đã gây nên làn sóng phẫn uất trước thái độ lộng hành của nhà nước. Thời đại này là thời đại gì mà cảnh sát, dân phòng, thanh tra xây dựng giăng hào rào dây thép gai xung quanh địa phận nhà thờ Thái Hà vào đêm tối. Hành động lén lút đó chứng tỏ chúng là bọn cướp.

Xót xa thay cho các giáo dân Thái Hà hiền lành hằng ngày chỉ biết cầu xin Đức Mẹ ban phước lành. Những tiếng thét gào đau đớn của các con chiên trước giáo đường xé toạch màn đêm. Những câu kinh cầu nguyện se sắt trái tim những tu sĩ nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Một thánh địa tôn nghiêm đến thế mà chính quyền cũng không để yên. Họ còn đe dọa bỏ tù các tín đồ không một tấc sắt trong tay nếu có hành động không tuân thủ luật pháp. Nhà nước Pháp quyền Việt Nam chỉ biết xài luật rừng rú chứ có luật lệ gì khi tín ngưỡng tôn giáo bị cấm đoán và nhân quyền thì hoàn toàn không có.

Ai nói ĐCS của dân, cho dân, và vì dân? Ngày nay Đảng ức hiếp dân, đánh đập dân, và sát hại dân. Xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản đã thật sự đảo điên, không còn luân lý. Tất cả những ai còn lương tâm với vận mệnh đất nước xin hãy đứng lên đòi lại công lý cho giáo xứ Thái Hà. Đó cũng là chính là lối thoát khỏi màn đêm tăm tối do ĐCS bủa vây, tự cứu lấy bản thân, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn. Cám ơn những vị luật sư như LS Lê Trần Luật, LS Huỳnh Văn Đông đã không ngại nhà cầm quyền Việt Nam hạch sách để đứng lên tranh đấu cho sự thật và công lý. Tuổi trẻ chúng tôi tin tưởng rằng không một thế lực độc đoán nào có thể chiến thắng được công bằng, bình đẳng và chân lý.

Thêm một chủ trương lớn của Đảng là dự án khai thác Bauxite đã được đưa vào hoạt động. Hàng ngàn mẫu đất trên vùng Tây Nguyên đã bị san bằng cháy đỏ đau thương. Những lá cờ in chữ Tàu cắm rợp trời xung quanh khu vực khai thác như thể đó là lãnh thổ của bọn Trung Cộng bành trướng. Tôi không cần thiết phải nói đến những tác hại về kinh tế, chính trị và môi trường trong việc khai thác quặng vì hầu hết mọi người đều có thể tìm đọc những bài viết phân tích cụ thể ở trên mạng. Vấn đề tôi muốn đề cập đến ở đây là việc di tản dân cư Tây Nguyên đi chỗ khác. Từ xưa đến nay những người lao động chân chính này chủ yếu dựa vào canh tác cà phê, chè, điều, cao su là nguồn thu nhập chính của họ. Đời sống của họ sẽ ra sao khi đến vùng đất mới? Văn hóa Tây Nguyên có thể nào bảo tồn được nữa?

Họ sẽ phải bắt đầu từ đâu và làm gì để sinh nhai? Nhà nước Cộng Sản không những không tạo công ăn việc làm cho người dân mà còn phá hoại công ăn việc làm rồi đẩy họ vào bước đường cùng. Ngày xưa khi miền Bắc thống trị toàn đất nước sau ngày 30/4/1975, người dân miền Nam vượt biên đi tìm xứ sở tự do thì ĐCS bảo là phản bội Tổ quốc. Ngày nay khi chính quyền ép dân phải rời bỏ nơi tổ tiên ông bà thì ĐCS có cho những người dân này là kẻ phản đồ?

Các vị lãnh đạo Đảng gây tổn hại đến phong tục truyền thống, triệt hạ dòng giống, đưa quê hương đến bờ vực thẳm diệt vong. Chính bè lũ này mới là tội đồ ngàn đời của dân tộc bởi những chính sách buôn dân bán nước của họ. Sau hàng loạt tai tiếng như vụ PCI, vụ Lãnh sự quán Việt Nam đã bán hộ chiếu cho mọi người, vụ phi công, tiếp viên hàng không và nhân viên Vietnam Airlines đã tổ chức ăn cắp hàng cao cấp để vận chuyển về Việt Nam tiêu thụ, v.v…thì dân Nhật Bản đã nhận xét chính quyền CSVN chỉ đáng được xem là “giòi bọ”. Nhục nhã thay khi chính chế độ ấy lại đang đại diện cho đất nước Việt Nam trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng này.

Trí tuệ con người Việt Nam trong mắt thế giới chỉ biết ăn bám, trộm cắp, xảo biện thế sao? Ai đã làm tuổi trẻ chúng tôi không còn tự tin ngẩng mặt nhìn đời? Ai đã huỷ hoại niềm tự hào lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến của nước Việt Nam chúng tôi? Đau lắm khi nước mắt mẹ Việt Nam tuôn tràn nhìn đàn con thơ dại có tội tình gì mà phải chịu biết bao bi luỵ và khổ ải.

Sau ba mươi bốn năm chính thức cầm quyền, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã làm được những gì cho nhân dân với cái đỉnh cao trí tuệ ấy. Đó là hình ảnh những đứa trẻ bán vé số với đôi bàn chân trần phải lang thang khắp hang cùng ngõ tận trong chiều đông buốt giá. Là những người nghèo mạt không được xã hội trọng dụng, phải vất vưởng nơi sân ga hay công viên khi không có chổ trú thân qua đêm. Là nhiều gia đình tự tử chỉ vì không đủ tiền mua gạo trong những ngày Tết Kỷ Sửu. Là các công trình xây dựng cầu đường bị sập do sự bòn rút, cắt xén vật liệu của các cán bộ cấp cao.

Là ăn chận của công bỏ túi riêng đến hàng chục triệu Mỹ kim trong khi dân chết mặc dân. Là sự khiếp nhược trước Tàu Cộng tàn ác đến cả thai nhi cũng có thể nấu canh ăn bổ dưỡng khí huyết. Là biết bao phụ nữ Việt Nam bị bán ra ngoại quốc, làm dâu nơi xứ người trong tủi hờn, nhục thể. Là thanh niên thiếu ý thức sa vào cảnh nghiện ngập, hút sách. Là dân oan lên tiếng phản đối chính quyền cướp đất, cướp nhà một cách bất hợp pháp thì bị kết tội gây rối trật tự. Là làn sóng học sinh và sinh viên xuống đường biểu tình chống Tàu Cộng sang xâm lược lại bị chính quyền CSVN đàn áp, bắt bớ. Là những tai ương gieo xuống cuộc sống của hơn tám mưới triệu dân vì chủ nghĩa Cộng Sản. Vậy thì tại sao tuổi trẻ chúng ta chỉ biết nhìn cam chịu mà không hành động? Chúng ta không phải là những kẻ nô lệ phục dịch cho ngoại bang.

Chúng ta không thể ngồi yên cho bạo lực giết chết tương lai của tuổi trẻ Việt Nam. Chúng ta có quyền làm những con người chân chính và hiên ngang sải bước trên mảnh đất Việt Nam. Chúng ta hãy cất lên tiếng nói đòi nhân quyền cho dân tộc mà ĐCS đã ngang nhiên tước đoạt hơn ba mươi năm. Chúng ta phải tranh đấu cho quê hương và dành lấy những gì thuộc về chúng ta. Những cánh chim yêu nước Việt Nam trên toàn thế giới hãy dang rộng đôi cánh yêu thương, hãy nối tiếp từng đàn đùm bọc, hãy vì một tương lai tự do, và hãy hướng về tổ ấm cội nguồn vì nơi đó chúng ta mới là tuổi trẻ Việt Nam.

Lê Nguyễn Huy Trần


"ĐÁNH TRÂU" BẤT BẠO ĐỘNG, "ĐÂU TRÁNH" CỦNG CỐ ĐỘC TÀI - Trương Minh Hòa

Trương Minh Hòa

Sau ngày 30 tháng 4 nam 1975, kẻ thù mới của đảng Cộng Sản Việt Nam là tập thể những người bỏ nước ra đi tìm tự do, tập hợp lại thành một lực lượng chống Cộng toàn cầu, ảnh hưởng mạnh nhất tại các nước dân chủ hùng mạnh nhất thế giới. Những người không chấp nhận chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, may mắn thoát khỏi "thiên đàng Cộng Sản" cùng nhau, hạ quyết tâm ban hành chính sách "cấm vận ngoại giao" bất thành văn cho đến ngày nay, làm bạt vía kinh hồn những tên "vừa ăn cướp vừa lên lớp dạy đời" sau những chuyến "tham quan và hữu nghị ăn mày" các nước "tư bản phản động" bằng "HẬU MÔN" mà cảm thấy "phấn khởi hồ hởi" liếm gót, hít địt "bọn đế quốc tư bản phản động" để kiếm chút "bơ thừa sữa cặn" mà lòng "phơi phới một niềm vui".

Do đó, chính tên thủ tướng mà dân chúng "tưởng thú" Phạm Văn Đồng bực tức nguyền rủa theo tiếng Việt trong sáng: "bọn đĩ điếm du côn" nhằm ngăn chận những người Việt nào tìm đường vượt biển, vượt biên, mà chắc chắn là để gia nhập vào "lực lượng chống Cộng" hải ngoại. Sau nầy, từ khi Liên Sô và toàn bộ các nước Cộng đảng Đông Âu sụp đổ, vì nhu cầu tồn tại, nên đảng cướp Việt Cộng đổi giọng: "khúc ruột nghìn dậm nối liền" để thu tiền, vừa triệt hạ luôn tư cách tỵ nạn chính trị, nếu quay về theo diện TAM DU: "du lịch, du hý, du dâm" và cũng vừa tước bỏ khí giới của người bỏ nước ra đi vì hai chữ "tự do" qua chiêu bài: "hòa hợp hòa giải theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Tuy nhiên cái thứ "vũ khí lạc hậu lỗi thời" nầy tỏ ra không có "hiệu ứng nhà kín" trong lãnh vực tuyên truyền, kể từ khi câu nói của thượng tá Tám Hà đã trở thành tục ngữ: "Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm". Do đó, nhằm trang bị thứ vũ khí mới, qua sách lược ru ngũ qua bải bản cũ bên Tàu, thời Hán-Sở tranh hùng với: "tiếng sáo Trương Lương" đánh động tình yêu quê hương, được bọn gián điệp nằm vùng phát động với: quê hương là chùm khế ngọt, cây đa đầu làng, bến đò cũ người xưa ..... nhưng cũng đã bị vô hiệu hóa, khi lòi ra cái nhản hiệu cầu chứng "cờ đỏ sao vàng" được xuất khẩu sang các đại lý nằm vùng với các cơ quan truyền thông, trung tâm văn nghệ: "xanh vỏ đỏ lòng", rõ ràng là: "made in Việt Cộng".

"Ai bể mánh mà không hề bị lột mặt?
Ai trở cờ mà không đón gió bao giờ?
Dậy mà đi, dậy mà đi ..."

Cho nên kế hoạch "trường kỳ" tấn công vào người Việt hải ngoại luôn nằm trong sách lược của Việt Cộng, chúng ra sức biến một tổ chức kháng chiến giả, 10 ngàn kháng chiến quân ma, chiến khu dỏm, là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh thành một tổ chức chính trị nhằm "giải phóng hải ngoại, bàn giao trong vòng trật tự" như Mặt Trận Giải Phóng của đám Nguyễn Hữu Thọ trước 1975 ở miền Nam, là "giải phóng lộn địa chỉ", là thứ PHÂN của đảng Cộng Sản, nên sau nầy bị vứt xuống "ao cá Bác Hồ" khi "cách mạng thành công để giết người, cướp của"; đây là bài học cho những người còn u mê tin vào băng đảng Việt Tân qua lối "đấu tranh ruồi bu" từ trong và ngoài nước. Ngày nay Mặt Trận Hoàng Cơ Minh đã "quá độ" sang thành "cánh tay nối dài của đảng Cộng Sản VN tại hải ngoại", và họ uyển chuyển trong thứ vũ khí ru ngủ mới, theo công thức cũ: "đấu tranh bất bạo động để tháo gở độc tài" nhưng công thức của bài thuốc an thần có chứa độc chất hiện rõ trong công thức (formular): "đảng Cộng Sản Việt Nam là thành phần dân tộc, Hồ Chí Minh là người có công với đất nước".

Băng đảng Việt Tân hợp cùng Việt kiều, Việt Cộng phổ biến bài thuốc "bất bạo động" cũ, có pha CÀ RI, rập khuôn theo lối đấu tranh của Ghandi, thành công vì thực dân Anh có tính cởi mở, nếu áp dụng vào thực dân Pháp thì bị tù đày, an trí như nhà cách mạng Phan Bội Châu, thất bại như Phan Chu Trinh ..... do đó bài thuốc ru ngủ có pha cà ri không thể thuyết phục được mọi người tỵ nạn, vì đối với bọn cướp thì phải có cảnh sát với vũ khí, cái còng ... chớ "bắt cướp bất bạo động" để bắt cướp, là giúp cho chúng càng lộng hành, gây thêm tội ác.

Đảng siêu cướp Cộng Sản vốn gian ác tham, không bao giờ chịu từ bỏ quyền lực để "dân chủ đa nguyên" ngoại trừ đánh cho chúng tan tác. Tại Nga, Đông Âu, nếu" tháo gở độc tài theo lối bất bạo động" thì làm sao có thể lật nhào Cộng Sản? Và nhà tù lao cải có thêm thành phần "lao động là vinh quang" bị chụp mũ phản động, phá rối trật tự trị an, cấu kết với các thế lực thù nghịch ... Những cuộc xuống đường có "năng động cách mạng" ở Pháp năm 1789 làm sụp đổ vương quyền Louis 16, những người Nga, Đông Âu rần rộ ra đường quyết: "đập tan mọi xích xiềng, giành lấy chính quyền về tay nhân dân" đã thành công, chớ bất bạo động thì làm sao tháo gỡ độc tài? Cũng như không đi làm, thì lấy đâu ra tiền mà xây nhà, mua xe? Không thèm học mà đòi có bằng tiến sĩ ở các nước dân chủ, ngoại trừ ở Việt Nam thì "nhỏ không học, lớn bằng tiến sĩ" hay là "nhỏ chống Mỹ, lớn thành tiến sĩ" đầy đường .....

Băng đảng Việt Tân cố gắng "triển khai" và quảng cáo bài thuốc ngủ hiệu "cờ đỏ sao vàng", cho người len lỏi bán sỉ cho vài tôn giáo, khai thác yếu tố "từ bi, bao dung" để bán thuốc ngủ có pha cà ri; trong khi đó thì tôn giáo là kẻ thù của vô thần, Karl Marx thẳng thừng: "tôn giáo là thuộc phiện". Bất cứ tôn giáo nào cũng dạy con người "làm lành lánh dữ" nên lòng thương yêu là chủ tâm trong các tôn giáo, nhằm đưa đến thế giới hòa bình, an lạc. Tuy nhiên tôn giáo nào cũng "chống lại ma quỷ", được ghi nhận qua các huyền thoại của những vị khai sáng, ngày nay nhất là quỷ đỏ vô thần, là thứ quỷ vô cùng nguy hiểm, trà trộn trong các tôn giáo, rồi dùng tôn giáo để triệt tôn giáo, thật là tinh vi.

Do đó tôn giáo còn thêm chức năng TRỪ TÀ để bảo vệ đạo, trước sự đe dọa, cám dỗ của ma quỷ chung quanh. Lợi dụng "mặt yếu" khoan dung, từ bi của các tôn giáo, bọn quỷ đỏ vô thần Cộng Sản tấn kích và khai triển "đấu tranh bất bạo động" và được bọn MA-LAI Việt Tân cổ võ, nên gần đây mới có toa thuốc ru ngủ mới "là BIỂU TÌNH TẠI GIA, thật là nguy hiểm vô cùng; nếu khai triển thêm thì cũng có cả: biểu tình tại đồng ruộng, biểu tình tại hãng, biểu tình tại quán cà phê, biểu tình tại nhà hàng, dân chơi cũng" biểu tình tại động đĩ", người lái xe thì biểu tình tại xe, người bịnh biểu tình tại giường, học sinh, sinh viên biểu tình tại lớp, ngay cả những người đã "gĩa từ gác trọ" cũng có có khả năng bày tỏ lập trường chính trị "biểu tình tại nghĩa địa".... tức là biểu tình "xuất phát từ lòng người" và được lái sang "bất bạo động" một cách sáng tạo lẫn tối tạo mà kẻ thù Cộng Sản hợp cùng tay sai Việt Tân phát động rần rộ. Nếu ngày xưa, trong lịch sử chống ngoại xâm của người Việt Nam, toàn dân cùng nhau "đánh đuổi Tàu tại gia", hội nghị Diên Hồng cũng "họp tại gia", thì ngày nay đất nước Việt Nam trở thành huyện của Trung Hoa từ thời lập quốc, chớ nào còn tới tay Việt Cộng để bán. Nhưng trong thời binh lửa, khi mà giặc Cộng đánh phá, lúc "quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách" đang cần người chống đỡ sơn hà, thì cũng có một số:

"Thanh niên sức mạnh sơn hà.
Không lo diệt giặc ở nhà tu thân"

Đó là những người "chống Cộng tại gia" mà hiu hiu tự đắc: "TẠI GIA đừng tưởng là TA DẠI nhé!", Rồi những người chống Cộng tại gia nầy cũng xưng là CƯ SĨ, sau nầy ra hải ngoại cất chùa bằng tiền bá tánh, giàu hơn KỸ SƯ rất nhiều.

Cũng nằm trong bài thuốc ngủ có pha cà ri, ngục khỉ Nguyễn Chí Thiện khuyên người Việt tỵ nạn hãy vào hội trường mà "phát biểu" với những tên Việt Cộng, chớ đừng biểu tình, dùng biện pháp nầy làm cho chúng "ăn năn" và tiếp tục "ăn tiền" nhiều thêm, khi các HIỀN HUYNH của Nguyễn Chí Thiện vẫn hạ quyết tâm "bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa như bảo vệ con ngươi trong tròng mắt". Rồi sau nầy, nếu nhà "đánh trâu" Nguyễn Chí Thiện thành công trong việc "dắt tay người Việt hải ngoại đi theo tấm bản chỉ đường trong đấu tranh bất bạo động" thì người Việt hải ngoại đỡ khổ lắm, khỏi mất công đi biển tình chống những đoàn văn công, những tên đầu lãnh đảng cướp, văn công .... chỉ cần "BIỂU TÌNH TẠI NHÀ" hay "Biểu tình tại giường ngủ" là thế nào Việt Cộng cũng khoái chí đấy.

Nếu ngày Quốc hận 30 tháng 4 hàng năm được "triển khai" theo sách vở của Ghandi và được Việt Tân rao giảng, quảng cáo: "đấu tranh bất bạo động để tháo gỡ độc tài", thì người tỵ nạn cũng dám "chống Cộng tại gia", nếu có "bức xúc" những đau buồn ngày tang dân tộc, hãy cùng với anh em Hoàng Cơ Định, các cơ sở đảng Việt Tân, cùng nhau "xuống đường" để DIỄN HÀNH CHO TỰ DO và luôn tiện đồng ca bài: "Như có bác Hồ Trong ngày vui đại thắng" là Việt Cộng đỡ lắm, không cần huy động lực lượng để bảo vệ các sứ quán, trước những "âm mưu biểu tình trước cửa của những thế lực phản động ở nước ngoài" hàng năm đến đây để hỏi tội bọn sát nhân.

Khi đa số cùng "nhất trí" biểu tình tại gia, hay tại nơi làm việc, sinh hoạt và nhất là giới tu sĩ, có trình độ giác ngộ cao, cũng dám BIỂU TÌNH TẠI TÂM, như Phật TứcTâm, Chúa hiện diện ở trong lòng ... là coi như Việt Cộng thành công, từng bước tiến công, để "giải phóng hải ngoại" và yên tâm là người dân trong nước, các tôn giáo chỉ biểu tình tại TÂM thôi, là lối BIỂU TÌNH CAO CẤP, cũng đủ để tạo được nền "dân chủ đa nguyên TẠI TÂM", còn thực tế thì đảng Cộng Sản vẫn "thanh tâm trường cai trị". Tại miền Nam trước 1975, nhóm Phật Giáo Ấn Quang do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, đâu có "chống chính phủ tại gia, hay tại chùa" mà kéo xuống đường, mang cả bàn thờ Phật, làm rung rinh cả miền Trung năm 1966; nếu biểu tình tại gia, thì hòa thượng Thích Quảng Đức cũng dám "tự thiêu tại tâm" chớ không chết đâu. Tại hải ngoại, nếu thiền sư Thích Nhất Hạnh phát huy lối "biểu tình phản chiên khuynh tả tại gia" thì miền Nam đỡ khổ biết mấy .... còn nhiều thứ TẠI GIA khác đã xảy ra trong lịch sử dân tộc.

Khai triển thêm chuyện "tháo gỡ độc tài" theo kiểu Việt Tân được Việt Cộng chỉ đạo và tác động vào thành phần Việt Kiều TAM DU, vốn sợ Việt Cộng như sợ cọp khi về nước và ngay tại nước tự do cũng ngán lắm, họ rất "hồ hởi phấn khởi" biểu tình tại gia cũng vừa phát huy TỨ KHOÁI, cũng tại gia luôn .... để bày tỏ lập trường tỵ nạn chính trị TẠI GIA mà lòng vơi đi phần nào nỗi buồn quốc hận", thì việc tháo gỡ độc tài trở thành "hỗ trợ cho giặc Cộng" thêm bền vững, tiếp tục đè đầu cỡi cổ dân chúng bằng BẠO LỰC, chớ Việt Cộng không bao giờ đàn áp dân bằng biện pháp BẤT BẠO ĐỘNG cả.

Trương Minh Hòa
28.4.2009





Thảm sát trên đảo Trường Sa - Nguyễn Nhân Chứng



Câu chuyện sau đây được viết ra để tưởng niệm hơn 130 đồng bào trên “ghe ông Cộ” trên đường vượt biển tìm tự do đã bị Việt cộng tàn sát dã man vào tháng Tư năm 1979 ở đảo Trường Sa, và cũng để gửi đến các con yêu quý của ba: Chí Dũng, Đông Nghi, Tì Tì.

Trước khi vào chuyện:

Thời gian gần đây, dư luận đồng bào trong và ngoài nước vô cùng phẫn nộ trước nguồn tin Trung cộng đã xả súng bắn vào ngư dân Việt Nam đang săn bắt hải sản chung quanh khu vực đảo Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam, gây thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản cho ngư dân Việt Nam, Đây không phải là lần thứ nhất Trung cộng xả súng bắn vào ngư dân Việt Nam. Cách đây vài năm, Trung cộng cũng đã xả súng bắn vào ngư thuyền Việt Nam khiến cho 8 người bị chết và nhiều khác bị thương, sau đó Trung cộng còn ngang nhiên bắt giam nhiều ngư thuyền và ngư dân Việt Nam một cách trái phép vô cùng ngang ngược, bất chấp công pháp quốc tế về luật hàng hải. Đây là hai vụ điển hình nhất mà dư luận quốc tế có đưa tin và đề cập đến. Dĩ nhiên, là còn có nhiều vụ khác đã xảy ra nhưng không có người biết đến. Điều đáng để nói là: nhà cầm quyền Việt cộng đã không có lấy một hành động đáng kể nào được xem là để bảo vệ công dân của mình trước các hành động man rợ của Trung cộng. Thái độ nhu nhược và bất lực của Việt cộng trước việc Trung cộng bắn giết bừa bãi dân lành đã bị đồng bào nguyền rủa.

Nhưng đâu có ai biết được một câu chuyện đã xảy ra cách đây 28 năm về trước, cũng tại quần đảo Trường Sa này. Một cuộc tàn sát man rợ khác đã diễn ra, máu đào loang thắm cả một vùng biển, xác người trôi vất vưởng làm mồi cho muôn loài cá. Cuộc thảm sát man rợ này đã diễn ra do chính bộ đội Việt cộng, lực lượng trú đóng trên đảo Trường Sa ra tay thực hiện. Và ….. nạn nhân là hơn 130 đồng bào vượt biển tìm tự do trên một con thuyền xuất phát từ thành phố Nha Trang. Trung cộng là giống dân ngoại chủng luôn luôn có ý đồ xâm chiếm Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Trung cộng bắn giết ngư dân Việt Nam cũng do bản chất xâm lăng, đồng thời muốn chứng tỏ thế nước lớn của mình đối với Việt Nam. Thế nhưng, bộ đội Việt cộng xả súng hàng loạt bắn thẳng vào chính những người cùng một dòng máu, cùng một màu da, cùng một ngôn ngữ, mà họ gọi là đồng bào, chỉ vì những đồng bào này đã bỏ nước ra đi vì không chấp nhận một chế độ độc tài cộng sản. Hành động này của bộ đội Việt cộng đã vượt qua mức tưởng tượng bình thường của con người. Hành vi tội ác này của chúng nó, ngày nay đã được đảng cộng sản xóa bỏ để trở thành quá khứ, và những người sống sót trên con tàu oan nghiệt đó trở thành những khúc ruột xa ngàn dậm theo chủ trương của đảng, cho dù những người này không và sẽ không bao giờ quên dược cái đêm kinh hoàng của tháng 4 năm 1979 của 28 năm về trước.

Bộ máy tuyên truyền của đảng Vc giờ đây đang cùng với những cá nhân, đảng phái đón gió trở cờ đang cùng nhau diễn xuất kịch bản “xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai ” Người sĩ quan bộ đội cộng sản, người đã trực tiếp ra lịnh thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội trên đảo Trường Sa 28 năm về trước, nếu còn sống, có lẽ giờ đây đã biến thành một tay tư bản đỏ giàu sang, và đang ngồi ở vị trí Ủy viên Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.

Tác giả câu chuyện này xin được viết ra đây câu chuyện của 28 năm về trước, như một nén hương lòng thắp muộn để tưởng nhớ đến hơn 130 đồng bào trên “ghe ông Cộ” những người bạn đồng hành của tác giả đã bất hạnh gục ngã trước những họng súng oan nghiệt của những tên Việt cộng cuồng sát. Những người còn may mắn sống sót sau cuộc thảm sát trên, nếu có dịp được đọc những dòng chữ này xin hãy cùng nhau dành một phút để cầu nguyện cho những bạn đồng hành xấu số của chúng ta. Những kẻ theo cộng sản là những kẻ cuồng tín, cuồng sát. Cho nên chúng mới xả súng bắn những người chạy đi, dù là đàn bà hay con trẻ, trong tay không tấc sắt. Dù chúng đổi tên, thay áo bộ đội, vất nón cối, bỏ dép râu ….

Nguyễn Nhân Chứng.
*
* *

Chúa ơi cứu con với !

Tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm sát cạnh tôi, cùng lúc với một dòng nước ấm văng vào mặt đã khiến cho tôi phải lấy tay vuốt mặt mình và bàng hoàng nhận ra toàn là máu, máu nóng đã ập vào mặt tôi từ người phụ nữ bên cạnh. Tôi ngẩng cao đầu lên một chút để nhìn sang bên cạnh, người phụ nữ đang oằn oại với vết thương một bên đùi vỡ toác do đạn xuyên phá, máu tuôn xối xả. Tôi xót xa nhìn người phụ nữ đang lăn lộn vì đau đớn, nhưng cũng đành bất lực không cứu giúp gì được, vì ngay bản thân tôi cũng đang nằm bẹp dí xuống sàn tàu để tránh đạn.

Đạn vẫn tiếp tục nổ, tiếng rên xiết, la hét, kêu gào, của những người bị trúng đạn quyện vào nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn đến rợn người, âm thanh giữa biên giới của sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong một cái nháy mắt, mới còn nghe rên la đó …. một loạt đạn tiếp theo đã ghim chặt vào thân người, lập tức tiếng rên la im bặt, một con người đã vĩnh viễn ra đi, những người khác tiếp tục rên la, chờ đợi loạt đạn tiếp theo cướp lấy mạng sống của mình. Tôi tự nhủ thầm, muốn sống còn phải rời bỏ con tàu ngay lập tức. Tôi vùng dậy, và nhận ra con tàu đang chìm dần từ phía sau của thân tàu, phía trước của con tàu đã bị đạn pháo bắn gãy, đang chổng lên trời. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, máu thịt văng tung tóe, thây người nằm la liệt, một cảnh tượng hãi hùng mà tôi chưa từng chứng kiến. Thần kinh tôi tê cứng vì sợ hãi khiến tôi muốn khụy xuống, nhưng bản năng sống còn của con người trong tôi bừng sống dậy, tôi lao mình ra khỏi con tàu phóng xuống biển vừa lúc một cơn sóng biển chụp tới cuốn tôi rời xa con tàu. Thật là may mắn, tôi vừa rời xa con tàu thì dường như cùng một lúc, một trái đạn pháo kích rớt chính xác ngay giữa con tàu khiến con tàu gãy đôi và chìm xuống biển, mang theo toàn bộ số người có mặt trên tàu lên tới trên 130 người.

Trên mặt biển bây giờ đã không còn thấy bóng dáng con tàu đâu nữa, thay vào đó là những vật dụng bể nát của con tàu, những tấm ván bể nổi trôi lềnh bềnh trên sóng nước. Xác người chết ! xác người chết trôi nổi quanh tôi, phụ nữ, đàn ông, con nít, già có, trẻ có. Tất cả, không một ai còn được toàn vẹn thân thể, không một ai còn sống cả ….. Có lẽ tôi là người sống sót duy nhất còn lại của con tàu, ngoài tôi ra thì chỉ còn lại toàn rặt là xác của người chết. Máu, là máu, từng vệt loang dài chảy ra từ vết thương của những xác chết, theo dòng nước trôi quanh tôi. Thủy triều đang lên, tôi rùng mình nghĩ đến đàn cá mập đói đang lẩn quẩn quanh đây chờ thủy triều lên cao sẽ theo mùi máu mà kéo đến, thì cho dù tôi có còn sống thì vẫn phải làm mồi cho đàn cá mập như những xác chết kia mà thôi! Tôi vươn tay cố gắng chụp lấy một mảnh ván để bám vào, tôi bám chặt vào mãnh ván, nhắm mắt lại cầu nguyện, dọn mình chờ chết, và trong cái khoảnh khắc tuyệt vọng đó tôi đã nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những người thân thương ruột thịt, đã không biết được rằng tôi đã bỏ thây giữa biển cả và làm mồi cho cá mập. Vĩnh biệt tất cả ……

Câu chuyện bắt đầu:

Chuẩn bị ra đi tìm tự do, dân chủ, hạnh phúc, ấm no

3 giờ sáng thành phố Nha Trang vẫn còn chìm trong giấc ngủ, hàng trụ điện bên đường Nguyễn Thái Học tỏa ánh sáng mờ mờ, soi bóng tôi trên đường. Vai mang cái phao (loại ruột xe hơi được bơm căng lên) giả làm dân đi tắm biển sớm (đối với người dân Nha Trang thì việc có người đi tắm biển vào lúc 3- 4 giờ sáng là chuyện thường) tôi rảo bước thật nhanh hướng về phía biển cho kịp giờ hẹn. Xuống tới bãi cát, tôi đưa mắt nhìn quanh dò xét địa thế, bãi biển vắng lặng không một bóng người, tôi yên tâm cởi bỏ áo ra chỉ mặc chiếc quần cụt, giả vờ làm vài động tác thể dục trước khi bước xuống nước. Từ xa, về phía biển có ánh sáng mù mờ của một chiếc thuyền câu đang tiến vào bờ, tôi lại đảo mắt nhìn quanh kiểm soát lần cuối trước khi rời bãi cát. Bước xuống nước, tôi nhoài người bơi nhanh về hướng chiếc thuyền câu, trả lời đúng mật mã, một bàn tay vươn ra kéo tôi lên chiếc thuyền. Thuyền lướt nhẹ trên mặt biển hướng về “Hòn Tre” cá nhân tôi thì phải nằm sát xuống khoang thuyền không được ngồi dậy cho đến khi tới chỗ ẩn nấp ngoài đảo Hòn Tre.

Hòn Tre là một hòn đảo lớn, nằm cách bờ biển và hải cảng Nha Trang khoảng chừng 6 cây số, cư dân trên đảo này rất ít chỉ chừng vài chục gia đình, hầu hết đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Nơi đây cũng là nơi ẩn nấp của các tàu thuyền và ngư dân mỗi khi gặp gió bão. Con thuyền chạy được chừng hơn tiếng đồng hồ thì tới một cửa động nằm khuất sâu vào phía trong trên đảo Hòn Tre, rất khó mà tìm thấy nếu không quen thuộc được địa hình nơi đây. Từ phía ngoài nhìn vào, tôi chỉ nhìn thấy một màu tối đen, bằng ánh sáng của cái đèn (pin) do người ngồi trước mũi soi sáng, chiếc thuyền câu từ từ lướt nhẹ vào động. Tôi được bỏ xuống đây để ẩn trốn chờ đêm đến sẽ ra "tàu lớn". Một tốp 5 người đàn ông chạy ra đón tôi, ai nấy đều trần như nhộng, không mặc một thứ gì trên người (sau này thì tôi cũng như họ vì không khí trong động rất oi bức khó chịu) họ là những người đã đến trước tôi từ đêm hôm trước, cũng để chờ để ra tàu lớn. Trời đã sáng tỏ, nhưng từ phía bên trong động, chúng tôi nhìn ra bên ngoài cũng chỉ nhìn thấy được một vệt ánh sáng rất mờ, yếu ớt chiếu sáng vào trong động. Lúc này trong động chúng tôi cũng đã lờ mờ nhìn thấy được nhau, thật là một cảnh tượng sống động có một không hai mà trong cuộc đời của tôi đã được tận mắt nhìn thấy, 5 ông Adam của thời kỳ hồng hoang, ăn lông ở lỗ, trên người không một mảnh vải che thân, đang đứng giữa một thạch động thiên nhiên thì thào to nhỏ với nhau, vì cứ sợ bên ngoài nghe được. Nhưng thật ra thì có hét to lên cũng chẳng có ai người ta nghe thấy. Không khí trong động đã bắt đầu oi bức dần lên, tôi cũng phải lột bỏ cái quần cụt mang trên người để trở thành người tiền sử như những người khác.

Qua câu chuyện, tôi được biết nơi đây là nơi cất giấu dầu chạy máy dùng cho chuyến vượt biển, mỗi ngày một ít số dầu tồn trữ được tăng dần lên theo với thời gian, và đây là giai đoạn chót cho nên 5 người họ đã ở lại luôn trong thạch động, chờ tối nay thì sẽ chuyển sang tàu lớn. Tôi được chia cho một ít cơm với muối mè đã được vắt cục lại với nhau để đỡ đói chờ đêm đến ra tàu lớn, nằm ngả lưng trên mặt đá lởm chởm, tôi liên tưởng đến chuyến vượt biển đêm nay và cầu nguyện ơn trên cho mọi việc được thông suốt, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến tương lai không biết rồi sẽ đi về đâu, tôi bồi hồi tấc dạ. Đêm đến, ánh đèn pin từ cửa động chiếu ánh sáng vào, cùng với tiếng người nói chuyện với nhau. Rõ ràng là không phải những người trong ban tổ chức, mọi người nín thở chờ đợi, mọi người đều nằm ép sát mình xuống mặt đá, không dám cử động mạnh, cũng may là từ phía ngoài nhìn vào thì chỉ thấy một màu tối đen, nên chúng tôi đã không bị phát giác.

Thời gian chờ đợi tưởng chừng như vô tận, sau cùng thì nhóm người đó cũng bỏ đi, chúng tôi thở ra nhẹ nhõm. Một anh trong nhóm chúng tôi cho biết, đó là những người đi “soi mực” ban đêm và anh đoan chắc rằng họ chỉ vô tình đi lạc vào đây mà thôi. Vào khoảng giữa đêm thì chiếc thuyền câu liên lạc đã trở lại thông báo cho biết là: tối nay không thể khởi hành được vì có sự trục trặc do lý do an ninh. Mọi người lộ vẻ thất vọng, nhưng cũng đành phải nhận lấy phần lương thực cho ngày mai và tiếp tục chờ đợi. Thời gian chờ đợi trong thạch động dường như dài vô tận, chúng tôi chỉ có việc ăn xong rồi nằm hoặc đi lại cho giãn gân cốt, trò chuyện thì hạn chế tối đa vì lo sợ bị phát giác. Một ngày một đêm đã trôi qua, mọi người nôn nóng chờ tin từ con thuyền liên lạc, bóng đêm lại phủ đầy bên ngoài cửa động, con thuyền liên lạc đã trở lại và tiếp tục báo tin buồn vẫn chưa thể khởi hành được, chúng tôi nóng ruột thấy rõ, người đưa tin thì chỉ làm nhiệm vụ đưa tin và chuyển lương thực cho chúng tôi xong thì rút lui. Đêm thứ ba, bóng con thuyền đưa tin đã trở lại, lần này có vẻ hối hả hơn hai đêm trước, theo sau nó là ba chiếc thuyền câu khác nối đuôi nhau tiến vào thạch động, tôi đoán là giờ khởi hành đã tới. Quả đúng như tôi dự đoán, chúng tôi được lịnh “bốc” toàn bộ số dầu chạy máy lên bốn chiếc thuyền câu cùng với mọi người rời thạch động ra tàu lớn. Giây phút quan trọng đã đến, chúng tôi lần lượt chuyển hết số dầu lên thuyền, còn chúng tôi thì nằm sát xuống thuyền bên trên được phủ một tấm nylon để che kín. Bốn chiếc thuyền câu theo hàng dọc lặng lẽ rời thạch động hướng về tàu lớn. Khoảng nửa giờ sau, chúng tôi đã cập được sát tàu lớn đang bỏ neo chờ chúng tôi.

“Tàu lớn” là một chiếc ghe đi biển của ngư dân, dài khoảng 15 thước, rộng chừng 3 thước, mà dân trong nghề đi biển gọi là “3 lốc đầu bạc”, dầu được chuyển cấp tốc và nhanh chóng lên tàu lớn, chúng tôi cũng đã lần lượt leo lên tàu lớn. Tàu nhổ neo, chạy ở vận tốc bình thường như là một chiếc tàu đánh cá bình thường khác đang hoạt động quanh đó. Tôi leo lên mui tàu tìm chỗ ngồi, tôi đã giật mình kinh ngạc khi nhìn thấy toàn bộ số người có mặt trên tàu. Đông quá! Chỗ nào cũng có người ngồi chen chúc, nhưng rồi tôi cũng không lấy làm quan tâm cho lắm, miễn sao con tàu cứ tiếp tục hướng mũi ra khơi hướng về Philippines. “Tháng ba bà già đi biển” câu thành ngữ của những người hành nghề đánh cá, rất đúng trong trường hợp của chuyến vượt biển đêm nay. Mặt biển phẳng như gương, bầu trời trong vắt với muôn vì sao lấp lánh. Sau khi đã bỏ xa khu vực đánh cá trong vùng, con tàu mở hết tốc lực hướng mũi ra khơi. Mặt trời đã ló dạng từ phía chân trời, trời đã dần sáng tỏ, từ trên mui tàu tôi có dịp quan sát rõ hơn toàn bộ khung cảnh trên tàu, điều khủng khiếp đập vào mắt tôi đầu tiên là mặt nước biển chỉ cách bẹ tàu có chừng non 1 thước, chứng tỏ con tàu đang bị khẳm vì chở quá nặng, con tàu như đang oằn mình trườn tới phía trước với sức nặng vượt quá mức cho phép.

Trên khoang tàu la liệt là người, trước mũi, sau khoang, chỗ nào cũng có người. Nắng đã lên cao, tuy mới sáng sớm nhưng nắng giữa đại dương đã mang lại cái nóng khó chịu trong người rồi, vài người đã cởi áo ra cũng như tận dụng hết tất cả những gì khả dĩ có thể che nắng được để tránh cái nắng đã bắt đầu gay gắt. Chỗ duy nhất có thể tránh nắng được là cabin tàu đã được dành riêng cho gia đình chủ tàu, các hầm tàu bình thường dùng để làm nơi chứa cá sau khi thu hoạch được, đã được gỡ bốc nắp hầm đi dùng làm nơi tránh nắng, nhưng có lẽ dưới hầm tàu không khí quá ngột ngạt oi bức nên cứ chốc chốc lại có người trồi lên để hứng lấy khoảng không khí trống trải trên tàu, có người leo lên khỏi miệng hầm thì cũng có người lại chui xuống dưới hầm tàu, cái quy trình “cắc cớ” này cứ thế mà tiếp diễn trong suốt cuộc di hành. Vài tiếng khóc của trẻ em đã nổi lên vì khát nước, chủ tàu ra lịnh cung cấp nước uống cho mọi người, người lớn thì được ba nắp “bi đong“, con nít được gấp đôi trong ngày đầu tiên, cứ cách khoảng chừng 1 giờ đồng hồ thì lại cấp tiếp cho con nít, người lớn thì phải chịu nhịn lâu hơn. Vì ngồi trên mui cabin nên tôi đã nói chuyện được với gia đình chủ tàu, theo như họ cho biết thì chuyến đi đã bị gặp khó khăn do địa điểm bị tiết lộ ra bên ngoài bởi những người chung vàng cho chuyến đi, do đó thân nhân của những người này đã “canh me” rất sát chuyến đi. Đó cũng là lý do khiến chúng tôi phải chờ đợi trong thạch động hết hai ngày đêm, đêm thứ ba chủ tàu quyết định phải ra đi bằng mọi giá trước khi việc đổ bể. Tàu cập sát bờ biển nơi “kho gạo” để bốc người, số người dự trù chính thức là gần 60 người. Không ngờ, khi tàu cập vào bờ thì người ở mọi ngõ ngách túa ra leo lên tàu, và vì không muốn bị lộ nên chủ tàu đành phải chở hết số khách không có trong danh sách, sau khi kiểm soát lại thì được biết là con số người đã lên đến hơn 130 người.

Trời đã vào chiều, gió thổi lạnh, một đàn cá heo “dolphin” bơi cập theo hông tàu trông rất đẹp mắt, mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống chân trời, bóng tối bắt đầu phủ xuống, con trăng thượng tuần treo lơ lửng trên đầu, bóng con tàu trông thật cô đơn giữa biển cả mênh mông, con người đã trở nên vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, đâu đó văng vẳng tiếng cầu nguyện, lúc đầu nhỏ, sau to dần lên, và không hẹn hầu như mọi người trên tàu đều cầu nguyện theo tôn giáo mình. Biển hoàn toàn vắng lặng, không có bóng một con tàu nào qua lại, không gian là một màu đen che phủ đến lạnh người, con tàu vẫn lầm lũi lướt tới, tôi được anh tài công người của chủ tàu đưa cho một “tấm bạt” loang đầy dầu mỡ để che lạnh, tôi cùng vài người khác quây quần phía bên trong tấm bạt cho bớt lạnh. Một ngày một đêm đã trôi qua trong an bình, mọi người thầm cảm tạ ơn trên đã che chở cho con tàu. Ngày thứ hai, nắng dường như gay gắt hơn, nắng như đổ lửa xuống những tấm thân đã rộp lên vì bị phỏng nắng, tiếng con nít khóc vang trời. Nước ! Nước đã trở thành một thứ quan yếu bật nhất trên tàu, chủ tàu đã cử bốn thanh niên lực lưỡng đứng canh gác khu vực để nước. con nít được ưu tiên tăng lượng nước uống lên từ 6 nắp lên 8 nắp, nhưng người lớn thì bị giảm xuống chỉ còn có một nắp mà thôi.

Ngày qua đi, đêm lại xuống, tiếng kinh cầu lại vang lên, thỉnh thoảng lại có tiếng nôn oẹ vang lên, đoàn lữ hành nằm dã dượi trân mình hứng chịu khí hậu lạnh lẽo của đại dương về đêm. Ngày hứng chịu cái nắng khủng khiếp, đêm về lại phải đón nhận cái lạnh, chỉ mới có hai ngày mà những con người khốn khổ đã teo hóp lại, sức đề kháng dường như đã không còn nữa. Ngày thứ hai cũng trôi qua bình an, nhưng đoàn người thì đã hoàn toàn đuối sức, ai nằm chỗ đó, phó mặc cho con tàu muốn đưa mình đi tới đâu thì đi. Trưa ngày thứ ba thì sóng gió đã nổi lên, mặt biển đã không còn phẳng lặng nữa, gió đã nổi lên kéo mạnh từng cơn, bầu trời vần vũ, mây đen kéo về đen kịt, từ xa từng ngọn sóng bạc đầu đang kéo tới. Sóng to, gió mạnh, khiến con tàu chao đảo liên tục, từng cơn sóng cao vời bốc con tàu lên cao, nhìn xuống dưới là một hố sâu thẳm đến rợn người. Tôi cùng những người khác trên mui phải leo xuống khoang tàu, vì quá nguy hiểm nếu cứ tiếp tục ở lại trên mui tàu. Đang ở giữa trưa mà tôi cứ ngỡ rằng là đang lúc chiều tối vì bầu trời tối đen, chủ tàu trấn an mọi người rằng: ”Đây là chuyện thường thôi, chỉ là “gió Nam”, gió Nam thì mấy người làm nghề biển coi như cơm bữa.” Hư thật ra sao không biết, nhưng mọi người đã quá hoảng sợ và trở nên nhốn nháo, khiến con tàu đã bị sóng nhồi chao đảo lại thêm tròng trành như muốn lật úp. Chủ tàu phải hét lớn ra lịnh, không được nhốn nháo, nếu không muốn tàu bị lật thì ai ở đâu ngồi đó. Con tàu chuyển mình kêu răng rắc như muốn vỡ ra từng mảnh nhỏ, khiến mọi người đang lúc hoảng sợ càng thêm hoảng sợ, tiếng than khóc, tiếng gọi nhau vang lên thảm thiết, người ta dồn cục vào với nhau như để tìm sự che chở cho nhau.

Mưa đã bắt đầu trút xuống, ngày càng nặng hột hơn, mưa giăng trắng xóa cả một khoảng không gian rộng lớn giữa đại dương, con tàu vẫn trồi lên hụp xuống tưởng chừng như muốn hất văng những thuyền nhân xuống biển. Con tàu đã phải chuyển hướng, không thể nào đi theo hướng đã định mà phải cập theo sóng để tránh cho tàu khỏi bị lật úp, người tài công chính của tàu, người nắm giữ sinh mạng của hơn 130 thuyền nhân, giờ đây đang gồng mình ôm chặt bánh lái với sự giúp sức của hai người khác để giữ cho con tàu khỏi bị lật, giữ cho con tàu khỏi bị lật đã là một việc vô cùng khó khăn lắm rồi, việc nhận rõ phương hướng đã không còn được đặt ra nữa. Con tàu đã thật sự lạc mất phương hướng, mặc cho sóng gió đưa đẩy, mọi người chỉ còn biết cầu nguyện và phó mặc số mệnh vào sự may rủi mà thôi. Cơn bão vẫn tiếp tục quần thảo từ trưa đến tối, nhồi con thuyền xoay vòng giữa cơn bão dữ, những người trên tàu giờ đây đa số đã phải chui vào hầm tàu để tránh khỏi bị hất văng xuống biển.

Đến tối thì cơn bão chấm dứt, mọi người ngoi ngóp bò dậy, may mắn thay suốt cơn bão dữ mọi người vẫn được bình an dù đã phải trải qua một ngày kinh hoàng khiến ai nấy không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc tiếp tục di hành thêm nữa. Có ánh đèn ! Có ánh đèn ! Một người la to, rồi nhiều người khác cùng la, cứ tưởng như là mơ. Nhưng quả thật, từ hướng bên phải của con tàu có ánh đèn leo lét khi ẩn khi hiện do sự trồi lên hụp xuống của con tàu. Tài công hướng mũi con tàu chạy thẳng vào nơi có ánh đèn, trông thì gần, nhưng thật ra thì tàu phải chạy gần hai giờ đồng hồ mới đến được. Càng đến gần thì mọi người nhận ra đó là một hòn đảo, đảo nhưng có ánh đèn, nghĩa là có người sinh sống trên đảo. Mọi người mừng rỡ quỳ tạ ơn trên đã dẫn dắt con tàu đến nơi bình an. Con tàu đang ngon trớn, bỗng nghe đánh ….. ầm một tiếng lớn, tiếng máy tàu gầm rú liên hồi, anh tài công la lớn “Ghe mắc rạng”, anh tài công cố gắng bằng mọi cách để xoay chuyển con tàu nhưng đành bó tay đứng nhìn, nhìn mũi tàu ghếch cao ở phía trước, tôi đoán là con tàu đã “cưỡi” lên đá ngầm rồi. Từng đợt sóng mạnh mẽ đánh vào mạng tàu như muốn phá vỡ con tàu ra làm trăm mảnh. Nhìn vào phía trong đảo, thấy không còn xa lắm, từ chỗ con tàu gặp nạn vào đất liền khoảng chừng vài trăm thước. Phải rời tàu đi tìm phương tiện cấp cứu thôi, có người lên tiếng đề nghị. Thế là một số trai tráng khỏang chừng 20 người trong đó có tôi, tình nguyện rời tàu đi vào đảo tìm phương tiện cấp cứu, chúng tôi được quấn dây thừng thật chặt rồi lần theo đó mà vào chỗ nông hơn để đi vào bờ, thật may mắn là vào lúc đó thủy triều đang rút xuống cho nên chúng tôi có thể đi bộ vào đảo được, dưới chân tôi là muôn ngàn những con cầu gai cùng với các loại vỏ nghêu, vỏ ốc, mà tôi đã phải giẫm lên khiến cho lòng đôi bàn chân bị cắt đứt ngang dọc, khiến đau rát buốt óc. Chúng tôi lần mò, nối đuôi nhau tiến vào đảo, đặt chân được lên bãi cát trên đảo, chúng tôi nằm nhoài ra nghỉ lấy sức. Hồi tưởng lại cơn bão vừa qua, tôi vẫn còn hãi hùng và thầm cám ơn ơn trên đã che chở, bằng không có lẽ giờ này chúng tôi đã vùi thây giữa lòng biển cả rồi. Lấy lại được sức, đoàn người tiếp tục bước sâu vào trong đảo, riêng tôi thì còn quá mệt nên cũng chẳng vội vã bước theo họ. Vì lý do đó, cho nên tôi trở thành người cuối cùng ở sau chót của đoàn người. Bất ngờ, hàng loạt đèn pha từ phía trong đảo bật sáng chiếu thẳng vào chúng tôi. Có tiếng hô to ….. ai đó, đứng lại, vào đây làm gì? Lúc đầu chúng tôi nghe không rõ vì gió biển thổi cùng với tiếng sóng, hơn nữa họ lại nói tiếng Việt phát âm giọng Bắc khiến chúng tôi ngỡ là một thứ tiếng ngoại quốc, có thể là tiếng Phi. Chúng tôi đã vô cùng mừng rỡ vì biết được mình đã tới nơi chốn mà mình muốn.

Chúng tôi vừa đưa cả hai tay lên trời, vừa làm dấu cho họ biết rằng chúng tôi đến đây là do thiện chí và cứ thế tiếp tục bước tới. Nhưng càng đến gần thì chúng tôi nhận ra rõ ràng là tiếng Việt chứ không phải là tiếng ngoại quốc. Có tiếng hô qua loa phóng thanh. Tất cả đứng lại ….. nếu không sẽ bị bắn bỏ. Trời ạ …… chúng tôi đã lạc vào đảo của Việt Nam rồi!

Chúng tôi lập tức đứng lại, hai tay vẫn đưa thẳng khỏi đầu, chúng tôi hội ý với nhau là: để qua mặt được họ, chúng tôi phải nói rằng tàu vượt biên do nhà nước tổ chức ra đi. Khi nói như vậy, chúng tôi ngầm hai ngụ ý: Thứ nhất, khi biết là chúng tôi ra đi do nhà nước tổ chức thì họ sẽ tìm phương tiện giúp chúng tôi. Thứ hai, nếu không giúp được gì thì họ cũng sẽ không làm khó dễ chúng tôi, trường hợp tệ lắm là họ sẽ bắt trở về đất liền để đi tù, trong trường hợp này thì mọi người sẽ an toàn hơn cả.

Giọng nói kia tiếp tục vang lên: Tất cả đứng yên tại chỗ đợi lịnh …… Thời gian lặng lẽ trôi qua trong ngột ngạt. Khoảng chừng hơn 10 phút, thì đột nhiên từ phía bờ cát một loạt lửa da cam tóe lên cùng lúc với những tràng súng liên thanh nổ rền trời, tôi giật mình ngó về phía đoàn người. Tôi như bị hoa mắt vì thấy máu từ các thây người phun ra khắp nơi, thây người đổ ập xuống, tiếng rên la thảm thiết vang lên như muốn xé tan màn đêm. Việt cộng giết người ….. nghĩ thế xong là tôi vội vàng bò hết tốc lực để tránh ra xa khỏi đoàn người và đứng lên vùng chạy về phía biển, vài người khác trong đoàn người cũng cố gắng mang thương tích vùng chạy ngược trở ra biển, một số chỉ chạy được nửa chừng rồi thì ngã xuống nằm lại luôn. Bằng tất cả sức lực còn lại trong người, tôi chạy thẳng và nhào người ra biển, giẫm lên cầu gai, võ nghêu, võ ốc mà chạy càng xa, càng tốt, trong tôi bây giờ không còn có cảm giác đau đớn do bị cầu gai đâm thủng chân nữa, tôi hoàn toàn ở trong trạng thái vô cảm. Sau cùng thì tôi cùng vài người khác cũng đã chạy ra được nơi con tàu mắc cạn. Mọi diễn biến trên đảo đã được chúng tôi tường thuật lại, thực ra thì mọi người đã nghe được tiếng súng nổ tuy không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng cũng phần nào đoán ra được là đã có chuyện không lành. Khi nghe chúng tôi báo cáo lại mọi chuyện, mọi người đã vô cùng hoảng sợ. Tất cả đàn ông, trai tráng trên tàu, đều được huy động xuống để đẩy con tàu ra khỏi vùng đá ngầm.

Trời đã phụ lòng người ! Sức của con người làm sao chống chọi lại với sức mạnh của thiên nhiên, chúng tôi cố đẩy được con tàu xê dịch đi một chút, thì lập tức các ngọn sóng lại đánh đẩy con tàu trở về vị trí cũ. Đang lúc tất cả đang cố gắng đẩy con tàu thì súng lại nổ vang rền, đạn bay như rải về phía con tàu. Có tiếng thét kinh hãi … có người trúng đạn … có người trúng đạn, tiếp theo là những tiếng khóc, tiếng kêu gào, khung cảnh rối loạn cả lên, mạnh ai người đó chạy tìm chỗ nấp, nhưng nấp vào đâu bây giờ, giữa trời nước bao la và con tàu khốn khổ đang phải hứng chịu những vết đạn từ những con người tàn bạo? Súng đã thôi nổ liên hồi, nhưng vẫn tiếp tục nổ cầm chừng, và thỉnh thoảng lại có người gào lên kêu cứu khi thân nhân mình trúng đạn. Phải ở vào hoàn cảnh trên thì mới có thể cảm nhận được hết cái không khí dã man, tàn bạo, đầy khủng bố mà không thể có ngòi bút nào lột tả được hết. Súng vẫn nổ lai rai, đoàn người vẫn cố gắng trong tuyệt vọng để đẩy con tàu. Nhưng bất lực! Hoàn toàn bất lực! Mọi người đã kiệt sức vì đói lạnh, da thịt mọi người đã thâm tím đi vì lạnh. Tất cả đều buông xuôi leo lại lên tàu phó mặc cho trời. Suốt đêm đạn vẫn nỗ, người tiếp tục chết vì đạn, tiếng kêu khóc vẫn cứ vang lên mỗi khi có người trúng đạn chết. Từ nơi xa xa, có thấp thoáng ánh đèn chiếu sáng từ một hòn đảo khác bên cạnh .…

Trời sáng dần, tiếng kẻng buổi sáng phía trong đảo vang lên. Đoàn người tội nghiệp dõi mắt về hướng đảo trông chờ phép lạ. Trên đảo nhộn nhịp hẳn lên, bộ đội chạy tới chạy lui, gia đình thân nhân vợ con của bộ đội cũng chạy ra đứng nhìn con tàu nghiêng ngả. Đàn bà, con nít trên tàu được cho lên mui tàu hướng về trong đảo quỳ lạy xin được cứu giúp. Tiếng kêu khóc vang dội trời xanh, những con người Việt Nam khốn khổ đang quỳ lạy những con người Việt Nam khác ngừng tay bắn giết đồng bào mình. Lịch sử Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm nay chưa bao giờ có những trang sử ô nhục như thế này. Ô kìa …. phép lạ xảy ra, có bóng của những bàn tay vẫy phất như báo cho thuyền nhân biết là họ có thể vào bờ được rồi, những cái vẫy tay mời gọi từ phía trong đảo đã làm mọi người như sống lại. Ưu tiên cho đàn bà và con nít vào trước, dây thừng được lấy ra quấn chặt vào mình, cùng với sự giúp sức của vài thanh niên, sợi dây thừng dài được nối từ con tàu vào thân của những người xuống tàu lôi vào bờ. Đoàn người rời con tàu xa dần dần tiến vào bờ, dây thừng vẫn được quấn chặt vào người, cách bờ chừng 100 mét nhưng vẫn chưa thấy người từ trên bờ ra cứu giúp. Bỗng nhiên súng lại nổ. Trời ơi! súng nổ nhắm vào những người đang quấn chặt dây thừng ngang mình để vào bờ, thế là chỉ còn có chờ chết mà thôi, làm sao mà có thể chạy thoát được khi sợi dây oan nghiệt đang trói mọi người lại với nhau. Không một ai còn sống sót qua trò chơi man rợ của lũ người không tim trên đảo. Tiếng kêu gào thảm thiết lại vang lên của những người chồng, người cha, khi nhìn thấy cảnh vợ con mình bị bắn giết vô cùng man rợ như trên. Đàn bà con nít lại được đưa lên mui tàu chấp tay hướng vào đảo mà van lạy xin được buông tha, đáp ứng lại những lời van xin thảm thiết này là những tràng đạn lại nổ tiếp, bóng người đàn bà với tư thế hai tay chấp vào nhau vì đang quỳ lạy ngã chúi xuống biển từ trên mui tàu, cùng lúc với các em trẻ bật ngửa ra sau giẫy chết vì trúng đạn.

Tàn bạo, man rợ, không thể nào tả hết.
Tàu vướng đá ngầm rồi, phải rời tàu thật nhanh.

Nắng đã lên cao, từ trong đảo bóng dáng bộ đội Việt cộng chạy lại ụ súng được mọi người trên tàu nhìn thấy rõ mồn một. Tấm phông che súng được kéo xuống, nòng súng được hạ xuống. Trời ơi!….. Một cây súng pháo với nòng súng dài có đến 10 thước đang hiện ra trước mắt mọi người trên tàu. Kinh hãi …. hỗn loạn trên tàu đã diễn ra, chỉ cần một trái đạn pháo từ khẩu súng đó mà trúng vào con tàu thì tất cả chỉ còn là tro bụi. Cầu nguyện, và dọn mình chờ chết, vì sẽ không còn ai sống sót sau khi trái đạn được khai hỏa bắn trực xạ vào một mục tiêu cố định là con tàu. Nhưng không, tấm phông đã được kéo lại che đậy khẩu súng, nòng súng đã được nâng lên cao, không còn ở vị trí sẵn sàng nhả đạn nữa. Bóng dáng bộ đội lại chạy nhốn nháo, và họ đang lấp ráp chân “dế” của cây súng cối. Dã man, tàn bạo, bộ đội cộng sản Việt Nam vì tiếc một quả đạn súng pháo lớn, nên đang thay vào đó là đạn súng pháo nhỏ hơn, và đó là trò chơi giết người của họ.

Ầm …. quả đạn đầu tiên được bắn ra rớt xuống biển cách con tàu chừng vài thước, mọi người chưa kịp hoàn hồn thì. Ầm …. quả đạn thứ hai rớt chính xác ngay mũi tàu, thịt xương văng tung tóe, máu đổ chan hoà, cùng lúc với hàng loạt đạn lớn nhỏ vang rền khắp nơi, tay chân, máu thịt, vung vãi ở khắp mọi nơi trên tàu, con người lăn lộn, vật vã với vết thương, khung cảnh của địa ngục trần gian đang phơi bày trước mắt tôi. Sau tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm bên cạnh tôi. Tôi vùng dậy, nhoài mình phóng ra khỏi con tàu, một ngọn sóng cuốn tôi ra xa cùng lúc với một trái đạn khác rớt ngay giữa thân tàu, con tàu gẫy đôi và chìm xuống biển. Tất cả sự kiện xảy ra chưa đầy 1 tiếng đồng hồ, sau khi tiếng kẻng buổi sáng trên đảo vang lên.

Chung quanh tôi xác người chết trôi vất vưởng khắp nơi, những người còn sống sót thì vẫn phải đang lặn hụp với từng cơn sóng biển, và từ trong bờ đảo những tên bộ đội Việt cộng khát máu vẫn giương súng nhắm bắn vào những người sống sót, rất may là nhờ sóng biển nhồi lên hụp xuống mà cái đầu tôi trở thành một mục tiêu khó bắn trúng của những kẻ sát nhân, có người đang cố gắng bơi ra xa khỏi tầm đạn, nhưng nửa chừng thì tôi bỗng thấy nằm bất động trôi vật vờ trên biển, tôi biết rằng họ đã trúng đạn hoặc chết vì vết thương quá nặng. Thủy triều đã lên cao, sóng biển không còn đánh mạnh nữa, và cũng chính vì vậy mà những người sống sót khó tránh khỏi tầm ngắm của lũ sát nhân. Tất cả đã vĩnh viễn ra đi, tôi cũng đã trôi ra xa khỏi tầm đạn và đang nằm chơi vơi giữa đại dương bao la, khung cảnh hoàn toàn im lặng đến rợn người. Tôi nhắm mắt lại cầu nguyện, nghĩ đến gia đình đang còn ở lại đất liền xa xôi, chỉ trong chốc lát nữa thôi những con cá mập sẽ kéo tới và tôi sẽ chết vì bị cá mập ăn. Nghĩ tới cá mập, tôi hoảng sợ mở mắt ra. Và kìa, từ hướng xa tôi nhìn thấy một chiếc thuyền câu đang trôi về hướng tôi. Thoạt đầu, tôi cứ tưởng bộ đội công sản Việt Nam hạ quyết tâm đuổi tận, giết tuyệt, nên không dám bơi lại gần. Nhưng nhìn kỹ lại thì tôi nhận ra trên chiếc thuyền đó hoàn toàn im lặng, không có một sự di động của bất cứ người nào trên thuyền, tôi hơi vững tâm và cố gắng bơi lại gần thuyền. Nắm được be thuyền và leo lên thì tôi trông thấy có người trên thuyền, nhưng mọi người đang nằm ở tư thế ẩn nấp. Thấy tôi leo lên thuyền họ bèn quay lại sụp lạy tôi và xin tha mạng, tôi không có thời giờ giải thích gì cả, bật ngửa ra nằm bất động trên sàn tàu. Sau khi đã hoàn hồn và hỏi chuyện nhau thì tôi mới vỡ lẽ ra họ cũng trôi dạt vào đây và cũng bị bắn như chúng tôi. Thuyền của họ xuất phát từ Phước Tỉnh, Bà Rịa, trên tàu gồm 13 người gồm 11 người đàn ông và 2 đứa trẻ, bé chị vào khoảng 9 tuổi, bé em trai khoảng 6 tuổi. Ba của hai em bé này đã bị bắn vỡ đầu nằm chết ở phía mũi thuyền, một thanh niên khác bị bắn nát mất phần vai hai bên, hai cánh tay chỉ còn dính liền bởi phần da còn lại trên vai, đang nằm thôi thóp thở dưới hầm máy, tình trạng cho thấy là anh này sẽ khó thoát chết do vết thương quá nặng.

Trong khi con thuyền đang trôi vật vờ như thế thì cũng có được 4 người khác từ chiếc tàu bị bắn chìm trước đó thoát chết, leo lên được con thuyền mà chúng tôi đang có mặt. Như vậy là tổng cộng số người thoát chết của hai chiếc thuyền là 16 người, con số trên 130 người đã bị bắn chết vùi thây dưới lòng biển lạnh. Sóng lớn quá, có người rơi xuống biển.

Con thuyền cứ tiếp tục trôi vật vờ trên biển, nhưng càng lúc càng rời xa khu vực nguy hiểm, lúc này đã vào khoảng 10 giờ sáng, nhìn sang bên trái của con thuyền, chúng tôi nhìn thấy một hòn đảo khác cách chúng tôi không xa lắm. Nghĩa là con thuyền của chúng tôi đang nằm giữa vị trí của hai hòn đảo. Hòn đảo này tôi đoán có lẽ là hòn đảo mà chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh đèn từ đêm hôm trước, đêm hôm bị bộ đội Việt cộng tàn sát. Chúng tôi quyết định phải rời xa hai hòn đảo này càng sớm càng tốt nếu còn muốn sống. (Đây là một quyết định sai lầm mà chúng tôi đã phải trả giá rất đắt, sẽ được nói đến ở đoạn sau) chúng tôi dùng mái chèo cố gắng chèo con thuyền ra khơi, vì bình xăng của con thuyền đã bị bắn vỡ chảy hết dầu. Gió đã đổi chiều, thổi con tàu tội nghiệp của chúng tôi trôi vào cõi vô định. Con thuyền này dài chừng 6 thước, rộng gần 2 thước, loại thuyền dùng để đi câu ven bờ biển chứ không thể đi xa hơn. Vậy mà nó cũng đã chở 13 con người vượt được hàng trăm hải lý để đến nơi đây cùng chung số phận như chúng tôi.

Chiều xuống dần, không gian yên tĩnh, không có một bóng dáng của bất cứ một con tàu nào khác ngoài con thuyền của chúng tôi lạc lõng giữa đại dương. Tối đến, chúng tôi phát giác ra một chuyện chết người khác, con thuyền đang bị vô nước từ phía dưới lườn tàu, thế là chúng tôi tìm cách chặn nước không cho tràn vào, và cử người canh chừng để tát nước liên tục. Cứ hai người cho mỗi phiên trực tát nước, số phận của 16 người sống sót trên con thuyền này sẽ tùy thuộc vào hai người có nhiệm vụ tát nước ra khỏi tàu, nếu chẳng may họ buồn ngủ, hoặc mệt quá mà chểnh mảng thì con thuyền sẽ chìm và mọi người cũng sẽ chìm theo con thuyền, nhưng biết làm sao hơn đây! khi mà tất cả mọi người ai cũng còn mang nét mặt kinh hoàng vì mới vừa phải trải qua một biến cố quá đau thương và …. phó mặc mọi việc cho Thượng Đế. Một đêm kinh hoàng trôi qua, người sống phải sống cùng xác chết trên một diện tích vô cùng chật hẹp của con thuyền, vấn đề vệ sinh chung đã được đặt ra, là phải giải quyết cái xác chết vẫn còn ở trước mũi thuyền. Thật là tội nghiệp cho hai đứa trẻ, chúng kêu khóc thảm thiết không cho thủy táng người cha thân yêu của mình. Chúng tôi cũng đành phải chìu lòng của hai em, nhưng sang đến ngày thứ ba thì chúng tôi phải giấu lén hai em mà thủy táng người quá cố để bảo vệ sức khỏe cho những người còn lại. Sau này biết được hai em đã lăn lộn khóc lóc vô cùng bi thảm, chúng tôi chỉ còn biết rớt nước mắt dỗ dành hai em. Tình trạng của anh thanh niên bị thương dưới hầm tàu đã trở nên tồi tệ hơn vì không có thuốc men chạy chữa, vết thương đã thối rữa, biết là anh cũng sẽ không qua khỏi, tối ngày thứ ba, sau khi thủy táng người đàn ông ba của hai đứa trẻ, chúng tôi quyết định nấu cho anh chút cháo trộn với đường cát như là bữa ăn tối cuối cùng trước khi ra đi, tôi là người đã đút cháo cho anh ăn, suốt bữa ăn anh cứ liên tục kêu cứu cầu sống, tôi chỉ còn biết gạt lệ an ủi với anh là cố gắng chút cháo, rồi mọi người sẽ được cứu sống. Sáng hôm sau, chúng tôi thấy anh đã nhắm mắt lìa đời, thân thể anh tái xanh vì đã không còn máu. Chúng tôi cũng đã thủy táng anh và cầu nguyện cho linh hồn anh sớm được siêu thoát.

Đã hơn một tuần lễ lênh đênh trên biển, có một điều thật lạ lùng là chúng tôi không hề nhìn thấy bất cứ một thương thuyền nào qua lại vùng biển này cả. Không lẽ chúng tôi đã lạc vào một vùng biển chết? Lương thực còn được mấy kí gạo sau ngày bị bắn dùng để nấu cháo cầm hơi cũng đã hết, nước uống thì đã hết từ trưa, cơn đói khát đang đốt cháy ruột gan mọi người. Một ngày đói khát đã bắt đầu và sẽ còn tiếp tục không biết kéo dài đến bao lâu. Cầu nguyện, chỉ còn có biết cầu nguyện thôi, tất cả mọi việc đều đã được sắp đặt và an bài do Thượng Đế, con người đã trở thành vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ.

Lại một ngày đói khát nữa, cái khát làm cho da thịt như muốn bốc khói, môi nứt nẻ, đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi thức ăn, nước uống. Tội nghiệp hai đứa trẻ, suốt ngày chúng cứ nói đến miếng ăn mà trước đây mẹ chúng làm cho chúng ăn, hoặc thứ nước uống mà chúng thích. Mọi người như mê loạn đi vì đói và khát. Dường như lời cầu nguyện của chúng tôi đã thấu tới trời xanh. Chiều hôm đó, trời đổ cơn mưa, những hạt mưa như những nước cam lồ trong chuyện thần tiên, tưới mát thân thể chúng tôi, chúng tôi say sưa ngửa mặt lên trời hứng lấy nước mưa mà uống, lấy thêm “can nhựa” trên tàu hứng lấy nước mưa dự trữ. Nhưng trời mưa lại dẫn đến một vấn đề khác. Thuyền ngập nước, thế là mọi người xúm vào tát nước cho thuyền khỏi chìm, rất may là cơn mưa không kéo dài, và còn may hơn nữa là từ đó cho đến ngày được cứu, cứ vài ngày lại có một cơn mưa ngắn giúp chúng tôi có đủ nước uống. Vấn đề nước uống đã được giải quyết, nhưng còn thức ăn? Chúng tôi đã không còn được bất cứ một thứ gì để có thể ăn được. Cơn đói cứ dày vò, ám ảnh chúng tôi liên tục, người chúng tôi đã teo lại chỉ còn lớp da bọc lấy xương, hay nói cho đúng hơn là những bộ xương biết bò, vì chúng tôi không thể nào đứng vững được nữa. Một hôm tôi bò xuống hầm máy để cố gắng kiếm thử xem còn gì có thể ăn được không, tôi trông thấy một chai “ xá xị ” mới nhìn tôi cứ tưởng đó là một chai đựng dầu nhớt gì đó của mấy người thợ máy bỏ quên, nhưng tôi cứ cầm lên và ngửi thử. Một mùi thơm ngào ngạt bốc thẳng vào óc tôi, khứu giác tôi dường như mở ra tối đa để hít lấy mùi thơm đó. Mùi thơm của mỡ heo, đúng vậy, chai xá xị kia là một chai dùng để đựng mỡ heo dành để chiên đồ ăn của các ngư phủ. Tôi thọc ngón tay vào miệng chai và đưa lên miệng mút. Trời ạ! Thật là một thứ cao lương mỹ vị mà tôi chưa hề được thưởng thức qua bao giờ, tôi cứ mút lấy mút để cái thứ nước sền sệt nhưng vô cùng tuyệt hảo đó. Chợt nhớ lại những người ở trên, đặc biệt là hai đứa trẻ, tôi bò trở lên với chai xá xị, không ai còn để ý đến tôi vì mọi người đều đã nằm liệt. Tôi bò đến hai đứa trẻ, thò ngón tay tôi móc một ít mỡ heo nhét vào miệng các em, như là một liều thuốc tiên các em bừng tỉnh lại, tôi ra dấu cho các em cứ bình tĩnh mà mút mỡ heo, nhắm chừng các em đã dần dần có chút sinh lực trở lại, tôi trút một ít mỡ heo vào cái chén nhựa cho các em, còn lại tôi dùng một chiếc đũa thọt vào chai xá xị có mỡ heo và kêu mọi người lại mút lấy chiếc đũa thần kỳ diệu. Nhờ có chai xá xị mỡ heo mà chúng tôi có được một bữa tiệc sang trọng nhất trong đời. Và cũng nhờ chút mỡ heo tuyệt vời đó mà em bé trai có chút sinh lực ngồi nghịch phá cái máy radio nhỏ xíu bất khiển dụng, cái radio bị vỡ lòi ra mấy sợi dây kẽm nhỏ, một bác lớn tuổi trên thuyền có sáng kiến uốn mấy sợi kẽm nhỏ đó thành những cái móc câu, dùng cước cột các móc câu đó lại, cạy các con ốc nhỏ bám theo be thuyền làm mồi.

Kết quả thật bất ngờ khích lệ, buổi đầu tiên bác câu được hai con cá lớn độ bằng bàn tay người lớn. Cái cột buồm vô dụng được bác ấy chẻ ra từng miếng nhỏ dùng để nhóm bếp. Cũng may là trên thuyền còn có được cái hộp quẹt còn sử dụng được. Hai con cá được bác nướng lên chia đều cho mỗi người. Từ đó chúng tôi được chia ra làm công việc chẻ cột buồm để giữ lửa, bác ấy làm công việc câu cá. Ngày nào có được vài con cá thì bác chia đều cho mỗi người được một miếng bằng hai ngón tay, ngày nào không câu được thì mọi người nhịn đói uống nước mưa cho qua cơn đói.

Chúng tôi đã trôi trên biển 20 ngày qua rồi, nhưng vẫn không nhìn thấy bóng dáng của một chiếc thương thuyền nào, mỗi khi chiều xuống tôi thường bò lên trước mũi thuyền nằm trông ngóng bóng dáng một con thuyền. Nằm nhìn những con chim hải âu săn mồi trên biển mà lòng tôi tan nát, không ngờ rằng cuộc đời của mình lại kết thúc trong bi thảm như thế này. Sợ nhất là mỗi khi chiều về, màn đêm chuẩn bị buông xuống, chung quanh là một màu tối đen, không khí chết chóc cứ như lẩn quẩn đâu đây. Hoặc những khi trời nổi cơn giông, từng lượn sóng cao như mái nhà bốc con thuyền lên cao, rồi nhận con thuyền xuống đáy, rồi lại bốc lên, cứ như thế kéo dài hàng mấy giờ đồng hồ liền khiến chúng tôi vô cùng sợ hãi. Tình trạng cô đơn giữa đại dương bao la kéo dài cho đến tuần lễ thứ ba thì chúng tôi nhìn thấy con tàu đầu tiên. Thật là không còn gì để diễn tả được nỗi vui mừng của chúng tôi, chúng tôi reo mừng, reo la cầu cứu, vì nghĩ rằng chắc chắn là mình sẽ được cứu.

Nhưng, ô kìa ! Chiếc thương thuyền vẫn lạnh lùng rẽ nước phăng phăng chẳng buồn ngó đến chúng tôi, mặc dù khoảng cách của đôi bên quá gần, gần đến nỗi chúng tôi có thể nhìn thấy thủy thủ trên chiếc tàu buôn đang tập trung trên bong tàu để nhìn chúng tôi. Con tàu khuất dạng ở chân trời, chúng tôi ngỡ ngàng, hụt hẫng, sao lại có chuyện lạ lùng như vậy ? Sao lại có những người vô lương tâm đến như vậy? Thấy người sắp chết sao không cứu? Ngần ấy câu hỏi cứ quay trong đầu tôi cho tôi đến khi tôi lịm người đi vì mệt mỏi và thất vọng.

Lại có thêm bóng dáng một chiếc tàu buôn từ đàng xa, như được tăng thêm sức, tôi cùng vài người khác vùng dậy trèo lên mui ra dấu cầu cứu, và cũng như chiếc tàu thứ nhất, họ lạnh lùng bỏ đi mặc cho chúng tôi kêu gào đến kiệt sức. Từ đó trở đi, mỗi ngày chúng tôi nhìn thấy hàng chục chiếc tàu buôn qua lại trong vùng nhưng không một chiếc nào chịu cứu vớt chúng tôi. Thậm chí, có ngày chúng tôi còn nhìn thấy hạm đội của Mỹ đang thao dượt trên biển với máy bay phản lực lên xuống trên các chiến hạm. Từ dữ kiện này, tôi đoán là chúng tôi đang ở đâu đó trong vùng vịnh Philipines. Chiều ngày thứ 30 trên biển, chúng tôi tuyệt vọng trong mòn mỏi, không còn hơi sức để kêu cứu nữa, mặc cho các tàu buôn vẫn qua lại nhìn chúng tôi sắp chết. Tôi nằm xoải trên mui con thuyền đưa mắt hững hờ nhìn chiếc tàu buôn mang hàng chữ Nhật chở đầy những cây gỗ với đường kính hai người ôm, chiếc tàu buôn đó, cũng như những chiếc khác trước đây, cũng lạnh lùng băng qua trước mặt chúng tôi mà đi thẳng, tôi cũng chẳng buồn ngó theo làm chi vì quá chán ngán với thế thái nhân tình. Khoảng độ hai tiếng đồng hồ sau, tôi đang nằm nhìn mặt trời xuống dần thì bỗng giật mình vì tiếng còi hụ ngân dài, tiếng còi hụ giữa biển khơi nghe vang dội, tôi nhổm mình dậy nhìn thì trông thấy từ đàng xa chiếc tàu buôn chở gỗ mà tôi nhìn thấy từ chiều đang tiến về hướng chúng tôi. Và ….. Trời ạ ! Thủy thủ trên tàu đang nhộn nhịp với dây thừng và phao cấp cứu, và quan trọng hơn nữa là nó đang giảm dần tốc độ để lựa thế lại gần thuyền chúng tôi mà tàu chúng tôi không bị lật do sóng vỗ. Dùng thân tàu to lớn như ngọn núi, chiếc tàu buôn chận lại các ngọn sóng đang vỗ về phía ghe chúng tôi như một bà mẹ đang bảo vệ đứa con bé bỏng của mình, các thủy thủ đang cố gắng quăng các sợi dây thừng sang phía chúng tôi. Họ đã cứu chúng tôi, sau khi đã cột được dây thừng vào thuyền chúng tôi, họ đã kéo được con thuyền cập sát hông chiếc tàu buôn, chiếc thang dây được buông xuống, chúng tôi từng người một dưới sự phụ giúp của các thủy thủ trên chiếc tàu buôn, chúng tôi đã lần lượt lên được chiếc tàu buôn an toàn. Leo lên được bong tàu chúng tôi ngã sóng soài xuống và nằm im không cử động gì được nữa, vì tất cả sinh lực còn lại đã được dồn lại cho việc leo lên chiếc tàu buôn to lớn kia sau gần hai tiếng đồng hồ cố gắng thực hiện.

Con thuyền nhỏ bé tội nghiệp của chúng tôi được kéo theo sau chiếc tàu buôn, nhưng sau đó có lẽ vì lý do an toàn đã được cắt bỏ, nhìn chiếc thuyền bé nhỏ tội nghiệp đã cưu mang chúng tôi một tháng trời ròng rã trên biển đang từ từ chìm xuống biển, chúng tôi không hẹn mà ai cũng bật lên tiếng khóc chào vĩnh biệt con thuyền.

Tối đến, chúng tôi được cho uống nước mát ướp lạnh, một loại nước uống thông dụng của người Đại Hàn có pha đường. Thật là một cảm giác khó tả, khi cầm ly nước trong tay nhưng chưa uống được vì quá vui mừng vì đã được cứu sống, tất cả xảy ra như một giấc mơ. Sáng hôm sau chúng tôi được cho ăn cháo loãng với nước tương (xì dầu) chúng tôi ăn như chưa bao giờ được ăn. Nhưng vì sợ chúng tôi bị bội thực, thủy thủ trên tàu đã không cho chúng tôi ăn nhiều, vậy mà cũng có người sau khi ăn xong bèn quay qua ói xối xả vì bội thực. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi được biết đây là một chiếc tàu chở mướn của một công ty hàng hải Nhật Bản với thủy thủ đoàn và thuyền trưởng là người Đại Hàn, chiếc thuyền đang trên đường chở gỗ từ Pakistan về Okinawa, một hòn đảo nằm về phía cực Nam nước Nhật. Viên hoa tiêu cho chúng tôi biết diễn biến của sự việc như sau: Lúc chiều (là lúc mà tôi nhìn thấy chiếc thuyền) ông ta đã thấy con thuyền của chúng tôi và đã báo cáo lên thuyền trưởng xin phép được tiếp cứu, nhưng viên thuyền trưởng cho biết là ông ta không được phép làm vậy, nếu không tất cả nhân viên kể cả ông sẽ bị mất việc và gặp rắc rối, vì vậy mà chiếc tàu vẫn tiếp tục hải trình như tôi đã thấy. Tuy nhiên, viên hoa tiêu vẫn cứ tiếp tục van nài thuyền trưởng với lý do là sẵn sàng bị mất việc, chứ thấy người sắp chết mà không cứu là không được. Hơn nữa, theo tin tức khí tượng cho biết thì tối nay bão sẽ kéo tới và chắc chắn rằng con thuyền vượt biên sẽ bị nhận chìm xuống biển. Viên thuyền trưởng đã khóc và chấp nhận vớt chúng tôi. Vị trí mà chiếc tàu buôn đã cứu chúng tôi nằm cách đảo Lữ Tống (Luzon) của Philippines khoảng 60 cây số. Và nếu chúng tôi có sống sót qua cơn bão này thì chúng tôi sẽ trôi ra tới Ấn Độ Dương, vì gió đã đổi chiều và chúng tôi sẽ khó có cơ hội được cứu thoát vì đó không phải là hải trình của tàu buôn.

Chúng tôi cũng đã tường thuật lại chuyến vượt biên kinh hoàng của chúng tôi cho thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ trên tàu được biết. Sau khi nghe chúng tôi tường thuật, thuyền trưởng đã đánh điện vào đất liền thông báo cấp tốc, vì trước đó qua tin tức ông cũng đã biết được chuyến vượt biên kinh hoàng này do những người sống sót trước đó tường thuật lại. Số là trong cái đêm kinh hoàng đó, khi chúng tôi bị bộ đội Việt cộng tàn sát dã man, thì có 8 người đàn ông nhìn thấy có ánh đèn trên một hòn đảo ở từ phía xa, cách nơi chiếc thuyền bị nạn chừng vài hải lý, nên thay vì ở lại chờ chết, họ đã lặng lẽ dùng các can nhựa có trên tàu để bơi về phía hòn đảo có ánh đèn đó để tìm sinh lộ. Họ đã tìm đúng sinh lộ, vì đó là hòn đảo thuộc chủ quyền của Philippines. Họ được cứu và đưa về đất liền ngay đêm hôm đó. Đêm đó, quân trú phòng trên đảo được lệnh báo động và sẵn sàng để cứu vớt các thuyền nhân mắc nạn, họ cho biết là có nghe tiếng súng nổ suốt đêm, và súng pháo kích sáng hôm đó, nhưng không thể làm gì khác hơn được là đứng nhìn, vì hòn đảo đang diễn ra cuộc tàn sát thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tóm lại, trong khi chúng tôi vẫn còn đang lênh đênh trên biển đúng một tháng, thì đã có 8 người trên chiếc “ghe ông Cộ” đã được cứu thoát do bơi sang đảo Phi.

Nhận được tin từ vị thuyền trưởng, Bộ Nội Vụ Nhật Bản đã đồng ý cho chúng tôi cập bến Okinawa, thuyền trưởng hoan hỷ loan báo tin này cho chúng tôi biết và chúc mừng chúng tôi thoát nạn. Ba ngày sau, chúng tôi cập bến hải cảng Okinawa. Người đầu tiên bước lên tàu để đón chúng tôi là một thông dịch viên tiếng Nhật, một sinh viên du học tại Nhật Bản trước năm 1975, hiện đang phụ giúp với hội Caritas Nhật lo giúp đỡ những thuyền nhân Việt Nam đang tị nạn tại Nhật Bản. Chúng tôi đã vô cùng xúc động vì nghĩ mình đã được tái sinh lần thứ hai. Chúng tôi bịn rịn bắt tay từ giã các vị ân nhân cứu mạng mình để lên đất liền làm thủ tục tị nạn, những người này cũng đã khóc khi tiễn chúng tôi bước xuống cầu tàu.

Bước xuống tàu, chúng tôi đã nhìn thấy một rừng phóng viên báo chí, các hãng thông tấn thế giới đang chờ sẵn để lấy tin tức, một cuộc họp báo đã được tổ chức liền tại chỗ dưới sự hướng dẫn và thông dịch của các anh thuộc tổ chức người việt tại Nhật Bản. Sau đó chúng tôi lên xe bus về trại tị nạn tại quận Motobucho, một trại tị nạn dành cho người Việt tị nạn được coi là lớn nhất nước Nhật với vỏn vẹn chừng 300 người Việt hiện đang tạm trú để chờ các quốc gia đệ tam nhận đi định cư. Ngày hôm sau, tất cả các báo chí, đài truyền hình Nhật Bản đều cho chạy đi bản tin đầu với hình ảnh và tin tức về chuyến vượt biển kinh hoàng do tội ác Việt cộng gây nên, và 30 ngày đói khát lênh đênh trên mặt biển của chúng tôi. Cầm trên tay tờ báo, nhìn vào hình ảnh của chính mình, tôi đã rúng động không còn nhìn ra được mình nữa, thay vào đó là một bộ xương với hộp sọ nhô cao lên. Đôi dòng lệ đã âm thầm chảy xuống vì hạnh phúc. Tôi biết mình đã thực sự sống sót.

Chủ nghĩa cộng sản đã là một thảm họa của nhân loại. Kể từ khi thứ chủ nghĩa này xuất hiện trên thế giới, nó đã giết chết không biết là bao nhiêu nạn nhân vô tội. Cuộc vượt biển tìm tự do đầy bi thảm và kinh hoàng của tôi cũng chỉ là một sự đóng góp vào kho tàng tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Điều đáng quan tâm là hiện nay đất nước và dân tộc Việt Nam vẫn còn bị chìm đắm dưới sự độc tài, toàn trị của đảng Việt cộng. Chỉ có một con đường duy nhất là phải chấm dứt cái chế độ man rợ này, không thể nào nói chuyện hoà hợp hòa giải với những con người với đầu óc chai cứng vì đặc quyền, đặc lợi, mà họ đang thụ hưởng trên từng thân xác của những con người Việt Nam bất hạnh.

February 18, 2008
Nguyễn Nhân Chứng