Sunday, July 29, 2012

Bom đạn nào tàn phá quê hương? - Nguyễn Quý Đại

Nguyễn Quý Đại

Thành phố Genève/ Genf Thụy Sĩ thơ mộng, nghiêng bóng bên những hồ nước xanh biếc, mỗi lần ghé Công trường Place des Nation Genève gợi tôi nhớ dư âm ngày đau thương của lịch sử Việt Nam, Ngoại trưởng các cường quốc hội nghị ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, giải quyết vấn đề Việt Nam đưa đến Hiệp định Genève ký kết ngày 20.7.1954, Việt Nam bị chia đôi đất nước. Nguyên nhân nào Việt Nam bị chia đôi? rồi kéo dài cuộc nội chiến 20 năm, bom đạn ngoại bang tàn phá quê hương? hơn 3 triệu người đã hy sinh trong cuộc chiến cho đến ngày cuối cùng 30.4.1975. Chúng ta lại một lần bỏ nước ra đi làm người viễn xứ! thời gian trôi mãi không ngừng và bất tận, đời người chỉ có giới hạn, chúng ta tìm về những điểm chính lịch sử, không phải gây lại lòng hận thù mà là bài học kinh nghiệm hữu ích cho con cháu mai sau.

Những người trách nhiệm với lịch sử đã an giấc ngàn thu, công và tội chỉ còn lại trên những trang sử cho hậu thế, cái khó người viết sử không tránh khỏi thế lực bên ngoài, bị kiểm duyệt, dưới chế độ CS luôn đề cao chủ thuyết, đánh bóng một nhân vật..nhưng sự thật sai lầm nghiêm trọng, những cuộc thanh trừng đẩm máu trong nội bộ, giết lầm hơn bỏ sót ít được nhắc đến? Trường hợp Hồng quân Nga giết hàng chục ngàn sĩ quan Ba Lan ở rừng Katyn, các tài liệu sử thời Ba Lan thân Liên Xô đổ tội cho quân đội Đức Quốc Xã, hơn 20 năm qua mới đưa ra bằng chứng ai đã giết? Hiện nay ở hải ngoại có đầy đủ tài liệu phong phú, gần 100 tác phẩm viết về cuộc chiến Việt Nam, để chúng ta có thể nhìn lại sự thật lịch sử và những đau thương của dân tộc Việt Nam.

Những cơn gió bụi

Diễn tiến lịch sử ngày 19.6.1940 Nhật Bản buộc Pháp mở cửa Đông Dương cho quân đội Nhật vào Việt Nam. Nhật lập khối Đại Đông Á ngày 1.8.1940, đòi hỏi Pháp cung cấp thực phẩm cho quân đội của họ, Quân Nhật vào Việt Nam trên tay chỉ có vũ khí không cần lương thực, ăn hết lúa gạo Việt Nam? Pháp vì quyền lợi buộc dân VN giảm diện tích trồng lúa, và trồng những cây kỷ nghệ để phục vụ chiến tranh! thu mua ngũ cốc đầy kho, nạn nhân là người Việt Nam chịu nhiều đau thương, khốn khổ, năm 1944-1945 Ất Dậu, gần 2 triệu người bị chết đói !

Âu Châu quân Đồng Minh đổ bộ ngày 06.6.1944 thành công ở bải biển Normandie, đến ngày 23.8.1944 quân Đồng minh giải phóng Paris. Tướng Charles de Gaulle lập chính phủ, Đồng Minh chiến thắng trên các mặt trận. Ý bại trận Mussolini bị giết, ngày 30.4.1945 Hitler tự từ, người kế vị là Karl Doenitz đầu hàng vô điều kiện ngày 09.5.1945. Chiến tranh để lại đau thương, nghèo đói và đổ nát. Nước Đức bị chia đôi 2 miền Đông và Tây, gây nên chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Tình hình không thuận lợi cho quân Nhật ở Đông Dương nên ngày 09.3.1945 Nhật đảo chánh Pháp thành công chớp nhoáng. Đại sứ Nhật Yokoyama yết kiến vua Bảo Đại tại điện Thái Hòa, tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. từ đó Nhà giáo Trần Trọng Kim ở Singapore, Thái Lan được mời về thành lập chính phủ ngày 09.3.1945, nhưng Nhật không hơn gì bọn thực dân Pháp với tham vọng làm anh cả da vàng, chính phủ Trần Trọng Kim lệ thuộc vào chính sách Đại Đông Á của Nhật.

Ngày 26.7.1945 các nước Đồng Minh gởi tối hậu thơ Postdame buộc Nhật đầu hàng nhưng Nhật còn ngoan cố. Ngày 06.8.1945 lúc 8 giờ sáng chuyến bay B-29 cất cánh từ TINIAN một đảo nhỏ thuộc Marianas ném trái bom «litte Boy» xuống Hiroshima nhiệt độ từ 5400-7500 độ F lửa bốc cao 1900 feet sát hại hơn 100 ngàn người; và ngày 09/8 ném «Fat man» xuống Nagasaki giết chết 74 ngàn người. Ngày 15.8.1945 Nhật Hoàng Hiro Hito đầu hàng vô điều kiện trên chiến hạn Missouri của Hoa Kỳ chấm đứt đệ nhị thế chiến. Tại Postdam Berlin đại diện các nước: Hoa Kỳ là Harry Truman, Anh Quốc Winston Churchill sau thay thế Clement Attlee; Liên Sô là Stalin. Giải quyết vấn đề Đông Dương quân đội Anh Quốc và Trung Hoa đến Việt Nam giải giới quân đội Nhật Bản, được phân chia trách nhiệm phiá Nam vĩ tuyến 16 quân đội Anh; bắc vĩ tuyến 16 quân đội Trung Hoa.

Khúc quanh Lịch Sử

Ngày 17.8.1945 hàng ngàn công chức trên đường Paul Bert đến Hàng Trống biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, cán bộ Việt Minh chen vào cuộc biểu tình phất cờ đỏ sao vàng hoan hô VM! xách động phong trào và cướp chánh quyền, các Ủy Ban Nhân Dân ra đời. Việt Minh cướp chính quyền mùa thu năm 1945, Bảo Đại đời vua thứ 13 cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị ngày 30.8.1945 tại cửa Ngọ Môn, làm công dân Vĩnh Thụy. Hồ Chí Minh thành lập Chính Phủ Lâm Thời ở Hà Nội ngày 2.9.1945. Thanh niên hăng say tranh đấu dành độc lập và chủ quyền vì thất vọng với chủ trương của Nhật và nội các Trần Trọng Kim không gây được uy tín. Người ta không để ý đến chủ thuyết cộng sản Stalinism, Maoisn, Marx-Lenin là gì trước cao trào dành độc lập

Tối hậu thư Postdam muốn "chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình tại Đông Dương", không đề cập rõ nội dung ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật rút về nước? ngày 16.9.1945 phái bộ quân sự Anh Quốc do tướng Douglas Gracey đến Sài Gòn quân Pháp đi theo, quân Anh ngầm hỗ trợ quân Pháp chiếm lại Sài Gòn và các tỉnh miền Tây, và dần dần tiến ra Bắc. Gần 200 ngàn quân Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) đến Hà Nội có các lãnh tụ lưu vong của VNQDĐ, và Việt Cách theo về nước. Phía Việt Minh gặp trở ngại trước sự hiện diện của các đảng phái cách mạng theo khuynh hướng Quốc Gia. Chủ tịch HCM tuyên bố giải tán đảng CS Ðông Dương ngày 11.11.1945 nhưng tiếp tục hoạt động ngầm, (sau nầy đổi thành đảng Lao Động cuối cùng là đảng CSVN)

Tổ chức tổng tuyển cử ngày 06.01.1946 thành lập chính phủ Liên Hiệp ngày 02.03.1946 phe đối lập có 70 ghế, bề ngoài tạm thời hoà hoãn với các đảng khác nhưng trong thực tế, họ đã dùng nhiều thủ đoạn thanh trừng nếu không theo chủ trương của đảng CS. từ ngày 28.10.1946 Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ ngày 13.11.1946 với thành phần đa số là người của VM. Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Trường Tam phải bỏ qua Trung Hoa..

(Bài học lịch sử khó quên khi làm việc chung với CS. Nếu một ngày nó đó Việt nam thay đổi như các nước Đông Âu 20 năm về trước, Việt Nam phải theo chế độ Dân Chủ, Đa Nguyên, những người yêu nước đủ khả năng tham gia chính quyền, các cuộc bầu cử phải nhờ Ủy Ban Giám Sát Quốc Tế. Bởi vì tiến trình Dân chủ khởi đầu chưa vững mạnh, tránh sự gian lận, lật lọng và thủ đoạn thanh toán của đảng CSVN từ trước đến nay họ thường áp dụng. Chính họ ký Hiệp định Paris chưa ráo mực, đã đem quân chiếm miền Nam.)

Pháp và Trung Hoa ký hiệp ước ngày 28.2.1946 Trung Hoa rút quân vào tháng 6.1946, quân Pháp thay thế ở Bắc Kỳ, trong đó có sự thỏa thuận Pháp trả lại cho Trung Hoa các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ Vân Nam. Trong thời gian quân đội Trung Hoa đến Việt Nam thừa hưởng khá nhiều quyền lợi, các tướng Lư Hán và Tiêu Văn được chính phủ Hồ Chí Minh hối lộ vàng để củng cố thế lực, bài thơ quyên vàng bạc, nữ trang đăng trên báo Cứu quốc:
    Đeo hoa chỉ tổ nặng tai
    Đeo kiềng nặng cổ hỡi ai có vàng
    Làm dân một nước vẻ vang,
    Đem vàng giúp nước giàu sang nào tày .....
Toàn dân Việt Nam muốn độc lập tự do, sau thế chiến 2 là thời giải thực, thời tàn của chế độ thực dân, các quốc gia bị thuộc điạ đều muốn đuổi thực dân ra khỏi bờ cõi. Sau thế chiến thứ nhất năm 1935 Mahatma Gandhi tranh đấu bất bạo động đòi Anh quốc trả lại chủ quyền. Thủ tướng Anh Attlee trả chủ quyền cho Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1950 thì hoàn toàn Độc Lập, Miến Điện 1948, Indonesia được Hòa Lan trao trả độc lập 17.8.1945.

Nhưng tiếc thay nước Việt Nam không may mắn như các Quốc gia trên, thực dân Pháp còn giữ chính sách thuộc điạ ở Đông Dương tái chiếm Việt Nam, Việt Minh ký hiệp định sơ bộ với Pháp ngày 06.03.1946 hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội Pháp trở lại Việt Nam! với mục đích củng cố hàng ngũ, tiêu diệt các thành phần Quốc gia, Quân đội Trung Hoa rút về nước các đảng phái chính trị hết chỗ dựa bị Việt minh tiêu diệt phải chạy sang Trung Hoa. Hội nghị Fontainebleau Hồ Chí Minh từng gặp riêng Bộ trưởng Bộ thuộc điạ ông Marius Moutet, nhưng không đem lại giải pháp nào cho vấn đề Việt Nam! trên thực tế Hội nghị Fontainebleu và Thoả ước đã ký kết âm thầm vào nửa đêm 14.9.1946 một thất bại ngoại giao cho Việt Nam.

Đệ Nhị Thế Chiến

Việt Minh và Pháp thường đụng độ bằng vũ lực tranh chấp, VM kêu gọi toàn quân dân Việt Nam cùng đánh đuổi thực dân ra khỏi bờ cõi. Từ đó Dân tộc Việt nam phải trải qua giai đoạn (1946-1954) khó khăn. Bộ đội VM rút khỏi Hà Nội ngày 29.11, chiến tranh chống Pháp bùng nổ ngày 19.12.1946, VM chủ trương tiêu thổ kháng chiến, nhiều nơi VM đốt phá Ðình-Chùa, nhà cửa ... ở kinh thành Huế nửa đêm 19.12.1946 cán bộ VM ra lệnh đốt một phần lớn cung điện trong hoàng thành! chiến tranh chống Pháp trong 9 năm dài đầy máu và nước mắt.

Thành phần trí thức vào chiến khu chống Pháp, nhưng một thời gian bất mãn với đường lối độc tài của cán bộ CS phải bỏ trốn về thành (La rentrée des jeunes intellectuels), dù họ không thân thiện với Pháp nhưng đành quay về thành sống yên thân, hơn là bị nghi ngờ làm mật thám, phản động, gián điệp, bị đấu tố ... VM thanh trừng tất cả nếu ai không theo chủ thuyết CS, Hồ Chí Minh nói „Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều bị bẻ gãy... „ (1) Nhiều người bị VM sát hại vì lý do chính trị, tôn giáo, đối lập như: Đức Hùynh Phú Sổ Hoà Hảo miền Nam, học giả Phạm Quỳnh ở Huế, Tạ Thu Thâu nhà văn Khái Hưng ở Hà Nội.....

Cựu hoàng Bảo Đại được HCM mời làm cố vấn cho chính phủ lâm thời, không đồng ý sự đàn áp của VM tiêu diệt những người yêu nước không theo CS, lợi dụng ngày 16.3.1946 theo phái đoàn ngọai giao sang thăm Trung Hoa, cựu Hoàng qua Côn Sơn Trùng Khánh và đến Hông Kông. Dân chúng Việt Nam đều biết Hoàng đế nước Nam chỉ ở Huế, đi nghỉ mát Đà Lạt săn bắn vùng Cao Nguyên, thích ăn chơi hơn lo việc nước, không có tinh thần yêu nước như các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân ... nhưng các nhà cách mạng Việt Nam theo khuynh hướng Quốc gia tự do, nhìn thấy nhu cầu cho tình hình Việt Nam nên ủng hộ cựu Hoàng thành lập chính phủ, lãnh đạo công cuộc tranh đấu dành độc lập không theo chủ nghiã cộng sản quốc tế. Cuối tháng 12.1947 cựu Hòang đến Pháp thương thuyết, ngày 05.06.1948 về nước ký thỏa ước Hạ Long trên chiến hạm Duguay-Trouin, Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đại, với nội các gồm đại diện các Đảng phái, Tôn giáo, đòi hỏi chính phủ Pháp trao trả độc lập .... Sau thoả ước nầy Quốc trưởng Bảo Đại sang pháp và ký thỏa ước Elysée với tổng thống Vincent Auriol ngày 8.3.1949 Pháp thừa nhận Việt Nam là Quốc gia thống nhất Bắc-Nam-Trung, có nền ngoại giao, kinh tế, tài chánh, tư pháp, giáo dục riêng ..thỏa ước nầy xem như xóa bỏ những Hiệp ước đã ký trước đó về vấn đề bảo hộ và Pháp hứa giúp thành lập quân đội Quốc gia do sĩ quan người Việt chỉ huy (từ tháng 7 năm 1949 đến 7.1954 Quốc Gia Việt Nam thay đổi 8 chính phủ với 5 thủ tướng!) Phủ Toàn quyền ở dinh Norodam đổi sang danh xưng là Phủ Cao Uỷ Đông Dương .

Tình hình thế giới cũng biển đổi, cuối năm 1948 Quân đội của Mao Trạch Đông/ Mao Zedong đại thắng ở Hoa Bắc tuyên bố thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa ở Bắc Kinh và tràng xuống miền sông Dương Tử làm chủ Vân Nam tướng Lư Hán đầu hàng ngày 11.12.1949. Tưởng Giới Thạch/Chiang Kai Shek di tản ra đảo Đài Loan. Ngày 18.1.1949 Mao thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh và khối cộng sản quốc tế giúp đỡ HCM chống Pháp.

Từ đó nước ta có hai chính phủ Quốc gia thân Tây phương, và Cộng sản thân Nga-Tàu. Hội nghị ngày 25 tháng giêng 1954 ở Berlin, thông báo ngày 18 tháng 2 có hoà đàm Genève khởi sự ngày 26 tháng 4 để giải quyết vấn đề Đông Dương cho đến ngày 08.05.1954 bàn cãi về vấn đề Việt Nam, các giới chính trị ở Pháp cũng như quân sự tranh chấp nội bộ, Pháp thua nhiều trận phải rút quân về gần Hà Nội, Pháp nhận thấy cuộc chiến tranh Đông Dương phải chấm dứt trong danh dự ? Phải giải quyết vấn đề ở Hội nghị Genève.

Thung lũng Ðiện Biên Phủ tỉnh Lai Châu, cách Hà Nội về phía Tây khoảng 500km. Từ Hà Nội theo quốc lộ 6 qua Sơn La, Thuận Châu, vượt đèo Pha Ðin sang Tuần Giáo rồi rẽ vào Ðiện Biên, bắt đầu ngày 13.3.1945 quân đội Việt Minh dưới quyền chỉ huy của tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Hoàng Văn Thái với chiến thuật biển người, mở cuộc tấn công bất thần vào hai vị trí Gabrielle và Béatrice và chiếm được 2 cứ điểm đầu tiên trong chiến dịch theo một số tài liệu cũng như hồi ký của tướng Võ Nguyên Giáp Giáp, viết có cố vấn quân sự Trung cộng Vi Quốc Thanh/ Wei guoqing, La Qúy Ba /Luo Guibo ... Việt Minh chủ trương vừa đánh vừa hội nghị, trận chiến kéo dài 57 ngày đêm, tướng De Castries chỉ huy trận ĐBP phải đầu hàng ngày 08.5.1954

Niềm khao khát chung của dân tộc có được một nước VN tự do độc lập khiến người dân tự nguyện hy sinh tất cả, đổ bao nhiêu sức người với những nắm gạo bớt ra của từng bữa cơm để nuôi quân, hy sinh quyền lợi riêng cho cái chung của dân tộc. Nhưng tiếc thay hơn 50 năm cuộc sống của họ vẫn cơ cực dưới mức nghèo khổ và lạc hậu. Quân Pháp bị thiệt hại 16.000 người trong đó 1500 chết, 10.000 bị bắt làm tù binh theo (René Julliard 1963). Điện Biên Phủ đã tiêu diệt lực lượng Liên hiệp Pháp 17 tiểu đoàn, trong số có 11 tiểu đoàn thiện chiến của nhảy dù và Lê dương, 1 tiểu đoàn Pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp và 70 phi cơ. Quân Việt Minh thiệt hại 23.000 người gồm có 8000 tử trận và 15.000 bị thương. Vì quyền lợi và danh dự riêng Pháp phản bội chính phủ Bảo Đại dù trước đó với Thoả ước Elyée công nhận Việt Nam độc lập, thống nhất 3 miền, rồi lại ký Hiệp Định Genève chia cắt Việt Nam! Là một bài học cho chúng ta suy nghĩ về chủ quyền Quốc gia, nếu mình không đủ sức tự cường, phải sống đời sống của loại cây chùm gởi !

Hiệp định Genève 20.7.1954

Hội Nghị Genève đi đến hồi kết thúc bằng Hiệp Định Genève, gồm ngoại trưởng đại diện các quốc gia tham dự: Anh (Eden Robert Anthony), Pháp (Georges Bidault), Nga (Motolov Vyacheslav Mikahailovich) Trung Hoa (Chou En Lai /Chu Ân Lai), Hoa Kỳ (Dulles John Froter). Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng cầm đầu, phái đoàn có đại tá Tạ Quốc (Quang) Bửu, đại tá Hà Văn Lâu, các ông Phan Anh, Trần Công Tường, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Thanh Hà, Nguyễn Thanh Sơn, Đặng Tính, Trần Lâm, Hoàng Nguyên, Trần Thanh, Lê Văn Chánh. Campuchia (Tep Phan), và Lào (Phoui sananiakone, Sem Sary). Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam gồm có các ông: Nguyễn Quốc Định, ngoại trưởng (chính phủ Bửu Lộc) là trưởng đoàn, Nguyễn Khắc Khê, Trần Văn Tuyên, Trương Văn Chình, Bửu Kính, Đoàn Thuận. Đến ngày 10/5, phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh được cử làm trưởng đoàn và tăng cường thêm ông Nguyễn Duy Thanh. Trong lúc đang diễn ra Hội Nghị Genève thì tại Việt Nam, Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/54, ông Diệm cử Bác sĩ. Trần Văn Đỗ làm Bộ Trưởng ngoại giao thay thế Nguyễn Quốc Định. Ông cũng thay ông Định làm trưởng phái đoàn Việt Nam tại Genève, ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tham dự không có quyền biểu quyết.

Các cường quốc vì quyền lợi riêng, đi đêm với nhau họp bàn chia đôi Việt Nam Trung Cộng năm 1954 chiến thắng Trung Hoa Quốc Dân Đảng làm chủ được Trung Hoa Lục Địa, chưa có chỗ đứng trên quốc tế, con trai Mao và hơn 500 ngàn quân Trung cộng bị loại khỏi vòng chiến ở chiến trận Cao Ly. Trung Cộng muốn chứng tỏ cho Ấn Độ, Nam Dương và các nước không liên kết một thái độ ôn hòa, không bành trướng của mình. Nga cũng chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản nhưng không có khả năng kiểm soát mọi chuyện ở Á Châu, vai trò đem lại hòa bình ở Đông Dương tạo cho Nga một hình ảnh đẹp của một quốc gia mưu cầu hòa bình cho thế giới, đó cũng là một thủ đọan chính trị giữa cộng sản Nga-Tàu. Họ cũng không thân thiện gì, từng xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Nga-Hoa. Anh Quốc vì quyền lợi ở Hong Kong, Singapor, Mỹ không ký muốn loại Pháp ra khỏi Việt Nam với dự định can thiệp vào Đông Dương....

Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức ngày 17.6.54, tuyên bố rằng nếu không đạt được thỏa hiệp trước ngày 20.7.1954 ông từ chức. Tại phiên họp cuối cùng Phạm Văn Đồng đồng ý (?) với đề nghị của ngoại trưởng Nga lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới phân chia, vì hạn định của Mendès France đến nhưng chưa giải quyết xong vấn đề chót. Hai đồng chủ tịch Hội nghị là Anh và Nga, phải ngưng đồng hồ của trụ sở Liên Hiệp quốc vào lúc nửa đêm 20.7.1954. Sau cùng thỏa ước ngưng chiến ký kết (đaị tá Tạ Quang Bửu thay mặt Tổng tư lệnh quân đội nhân dân cùng tướng Delteil thay mặt tướng Ely.)

Hiệp Định Genève có 47 điều khoản và một phụ lục. Phiên họp kết thúc Hội nghị đúng vào sáng sớm ngày 21.7.1954 dưới sự chủ toạ của Anthony Eden, trong lúc mọi người còn đang ngủ. Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tướng Bedell Smith không ký, nhưng không cản trở việc thi hành Hiệp định, ông Trần Văn Đỗ ngoại trưởng chính phủ Ngô Đình Diệm (thay thế Bửu Lộc làm thủ tướng ngày 7.7.1954) ông Trần Văn Đỗ uất ức ở hội nghị và phản đối thỏa hiệp hấp tấp của Việt Minh với thực dân Pháp các điều khỏan chia đôi đất nước, dù chính phủ Việt Nam Quốc Gia không thừa nhận Hiệp định Genève và điện về Việt Nam:

- Không sao thắng được sự cừu địch của kẻ thù và sự am hiểm của bạn giả dối của chúng ta. Người ta dùng những thủ tục bất thường để làm tê liệt hoạt động cuả phái đoàn mình. Tất cả các thỏa hiệp họ đều bí mật kín với nhau. Chúng tôi rất đau buồn vì sự thất bại hoàn toàn của phái đoàn! (2)

Thi hành Hiệp định ngưng bắn ngày 27.7.1954 ở Bắc, ngày 11.8.1954 tại miền Nam. biên giới phân chia, từ sông Bến Hải đến làng Bồ Đồ Su biên giới Lào Việt, cầu Hiền Lương do Công binh Pháp dựng năm 1950 (trước đấy dân hai bờ qua lại bằng thuyền). Cầu có 7 nhịp, dài 178m, được lát bằng 894 miếng ván, mỗi bên có chủ quyền 89m cầu. Ranh giới trên cầu Hiền Lương sông Bến Hải đã kéo dài hơn 20 năm. từ vĩ tuyến 17 ra Bắc thuộc chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thủ đô là Hà Nội; từ vĩ tuyến 17 vô nam thuộc chính phủ Quốc Gia Việt Nam, thủ đô Sài Gòn. Vấn đề kiểm soát quốc tế thi hành việc đình chiến một Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến được thành lập với đại diện Ấn Độ làm chủ tịch, Gia Nã Đại và Ba Lan làm hội viên. Bản tuyên ngôn cuối cùng đã đề cập đến vấn đề tổng tuyển cử thống nhất đất nước sau hai năm dưới sự giám sát của Ủy Hội Quốc Tế.

Việt Minh phải rút quân đội ở Lào trong thời hạn 4 tháng, ở Campuchia hạn 3 tháng. Quân đội Pháp rút khỏi Bắc Kỳ trong 10 tháng chấm dứt việc xâm lăng của thực dân trên đất Bắc, chính sách thuộc điạ hà khắc và tàn bạo cuả Pháp đã giết hàng loạt những nhà cách mạng Việt Nam yêu nước đấu tranh dành độc lập. Nhưng đạo quân viễn chinh cũng phải trả giá rất đắt tại chiến trường Việt Nam trong thập niên cuối cùng, quân Pháp bị giết và mất tích 92.000 người bị thương 114.000; tù binh 28.000 người, kinh phí hơn 30 tỷ quan Pháp. (Theo Louis Saurel trong cuốn La guerre de Indochine).

Cuộc Di cư lớn nhất của thế kỷ 20

Pháp và phe Quốc gia có thời hạn tập trung 80 ngày tại Hà Nội, 100 ngày ở Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng. Tại miền Nam bộ đội tập kết tại Hàm Tân 80 ngày, Bình Định 100 ngày và Cà Mau 300 ngày. Từ tháng 8-1954 mỗi ngày có hàng ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng vào Sài Gòn hay sang Pháp bằng đường hàng không và hàng ngàn người mỗi ngày bồng bế nhau về cảng Hải Phòng để được xuống tàu thủy đưa vào Nam (gọi là tàu há mồm). Tính đến chuyến tàu sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950.000 người từ Bắc di cư vào Nam. Có nhiều nơi dân muốn di cư bị công an Việt Minh ngăn chận, gây nhiều xô xác đẫm máu. Bình minh về trên đất Bắc hay là những ngày dài trong khổ đau với chính sách cải cách ruộng đất đấu tố, thanh trừng như vụ Nhân Văn Giai phẩm!

Dân di cư được phân phối định cư khắp nơi, dù đời sống lúc đầu khó khăn, nhớ quê hương ruộng đồng, bỏ nhà cao cửa rộng chen chúc ở các trại định cư, được trợ cấp tiền mặt mỗi ngày cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng đủ sống. Tổng số 315 trại định cư cho 508.999 người, được chia ra Nam phần 206 trại cho 393.354; Trung phần 59 trại gồm 61.094 người; cao nguyên 50 trại cho 54.551 người. Thiên Chúa giáo gồm 676.348 Tín đồ, Tin Lành 1.041 Tín Đồ, Phật Giáo 182.817 Phật Tử … Nhiều người mua nhà ở riêng không vào các trại định cư. Thời gian ngắn khó khăn người di cư được chính phủ giúp đỡ lập nghiệp, nếu nhìn lại từ 1954-1975 có những khu phố sầm uất phát triển giàu mạnh như Hố-Nai Biên-Hòa, Đà-Nẵng khu Tam-Toà, vùng Cái-sắn Rạch-Giá ... Lâm-Đồng Bảo-Lộc ... nơi nào có người Bắc định cư đều có nhà Thờ, nhà cửa khang trang, con cháu học hành đỗ đạt và đời sống thành công trên mọi lãnh vực. Các nhà Văn di cư tự do viết sách, làm báo phát hành, đóng góp cho nền văn học miền Nam thật khởi sắc, sinh hoạt đổi mới hơn các quán nhậu có những bảng hiệu mới lạ như „đúng đây rồi, cờ tây, mộc tồn, nai đồng quê ..“

Ngày 19.7.1955 Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) đề nghị chính phủ Quốc Gia Việt Nam sau nầy đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mở hội nghị Hiệp thương bắt đầu từ 20.7.1955 theo qui định trong Hiệp định Genève để tổng tuyển cử đề nghị của Bắc Việt bị chính phủ Nam Việt bác bỏ ngày 10.8.1955. Đó là lý đo đưa đến cuộc chiến tranh Nam-Bắc. Miền Nam theo thể chế tự do, cựu hoàng Bảo Ðại với danh xưng Quốc trưởng nhưng sống ở Cannes bên Pháp, không trực tiếp điều hành Quốc Gia Việt Nam. nên Ngô Ðình Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10.1955 truất phế Bảo Ðại. Ngô Ðình Diệm lên làm tổng thống đầu tiên Việt Nam Cộng Hòa ngày 26.10.1955. Năm 1956 quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, chấm dứt thời làm mưa gió hơn 80 năm đô hộ Việt Nam, tự do khai thác tài nguyên mang về cho bản quốc

Đảng Lao Động quyết tâm đánh chiếm miền Nam, Lê Duẩn bí mật vào Nam nghiên cứu tình hình khi trở ra Bắc tại hội nghị lần thứ 15 ở Hà Nội ngày 13.5.1959. Lê Duẩn đưa nghị quyết giải phóng miền Nam và miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghiã... (chủ trương của chủ tịch Hồ Chí Minh) Hà Nội thành lập Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch MTDTGPMN thành lập ngày 20.12.1960 ở chiến khu Dương Minh Châu, vùng biên giới Tây Ninh Campuchia. Gọi là mặt trận „giải phóng miền Nam“ từ năm 1960, với nhân sự nòng cốt hơn 25.000 cán bộ hồi kết, sau tết Mậu Thân ông Huỳnh Tấn Phát (1913-1989) được bầu làm chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bình cháu ngoại Phan Châu Trinh làm bộ trưởng ngoại giao là con cờ tạo thế đứng trong các cuộc Hoà đàm Paris ? Sau 30.4.1975 một thời gian chính phủ nầy đã bị xoá tên !

Tổng bí thư đảng CS Lê Duẩn đã từng tuyên bố „ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc ..“ (3) Trường Chinh nói: “Kháng chiến là một hình thức cao rộng, của đấu tranh giai cấp, nghiã là cuộc đấu tranh lớn lao trên thế giới, giữa tư bản và vô sản ...” (4), lời phát biểu trên của những kẻ quyền lực làm tay sai cộng sản quốc tế, gây nên cuộc nội chiến tương tàn khổ đau cho dân tộc Việt Nam, như nhà thơ Phùng Quán đã viết: “Những con người tiêu máu của dân như tiêu giấy bạc giả  (Trăm Hoa Ðua Nở). Nếu không có chiến tranh để hai miền Nam Bắc, tự do xây dựng xã hội, phát triển kinh tế, dân trí cao, thì việc thống nhất trong tình thương và hoà bình có thể thực hiện được, không cần vũ khí của bất cứ nước nào mang đến cho mượn !!

Tiến lên Xã Hội Chủ nghiã ở miền Bắc

Thời gian đầu hoạt động Việt Minh chưa chủ trương tranh đấu giai cấp để kêu gọi dân chúng đoàn kết để chống Pháp, sau cách mạng mùa Thu Việt Minh chủ trương “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn”, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt chước theo mô thức của Nga-Tàu. Từ năm 1949-1956 Việt Minh đã làm 5 đợt cải cách ruộng đất, con tố bố mẹ, nàng dâu xỉ vả mẹ chồng, tổng bí thư Trường Chinh đã đấu tố cả cha mẹ ông ta.. Giết chết hơn 200 ngàn người vô tội, toà án nhân dân thành lập ở các vùng thôn quê do những cán bộ không học xét xử, những đêm đấu tố tại các đình làng, xã thôn.. người dân miền Bắc có lẽ họ không bao giờ quên giai đoạn đó, Xuân Diệu đã ca ngợi:
    Anh em ơi! quyết chung lưng
    Ðấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù
    Ðịa hào, đối lập ra tro,
    Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
    Thắp đuốc cho sáng khắp đường
    Thắp đuốt cho sáng đình làng đêm nay
    Lôi cổ bọn nó ra đây
    Bắt quỳ gục xuống, đoạ đày chết thôi
Thành phần bị ghép tội điạ chủ đem ra đấu tố đánh đập, dù những người nầy đã giúp đỡ cho cuộc kháng chiến, là Mẹ của chiến sĩ nhưng vẫn bị kết án tử hình dưới nhiều hình thức cực hình khác nhau, Tố Hữu xách động
    Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
    Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Sit-ta-lin bất diệt…
Hiệp định Genève kết thúc, chính phủ VNDCCH xây dựng xã hội chủ nghiã tiến lên thiên đường đỏ, mọi người phải sống theo chủ trương đường lối của đảng, ảnh hưởng Trung cộng sâu đậm. Năm 1956 Mao chủ trương “trăm hoa đua nở” với chiến dịch” Bách hoa tề phóng, Bách gia tranh minh / trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” cuộc ”cách mạng văn hoá” Lục Nhất Định trưởng ban tuyên truyền trung ương cùng vợ Mao bà Giang Thanh cầm đầu cuộc thanh trừng giết gần 30 triệu người ! (Đặng Tiểu Bình cũng bị thanh trừng)

Những văn nghệ sĩ theo kháng chiến chống thực dân, phong kiến về thành phố cầm bút phục vụ văn nghệ, nhưng đảng buộc họ viết theo chủ trương của đảng, đời sống càng ngày càng khó khăn về kinh tế, gò bó về xã hội ! Đảng LD thanh trừng văn nghệ sĩ chống đối vụ án Nhân Văn hàng trăm văn nghệ sĩ bị tập trung tẩy não và lao động trên núi rừng trung du như Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Trương Tửu, Hữu Loan … 30 năm sau đảng CSVN nhận ra sai lầm với lời tuyên bố năm 1986 của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói cho văn nghệ” văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn Gia Phẩm được phục hồi danh dự, nhà thơ Hữu Loan là nhân chúng cuối cùng trả lời phỏng vấn về vụ án Nhân Văn trên đài BBC London. Những năm 1966-1968 cũng xảy ra vụ án xét lại? Lê Duẩn kết tội những cán bộ thân Liên Xô thời Khrushchev hạ bệ Stalin năm 1956 thi hành chính sách mềm dẻo chủ trương “chung sống hoà bình” ảnh hưởng chủ trương của Khrushchev như: Ung Văn Khiêm, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Dương Bạch Mai... phản đối chiến tranh tấn công miền Nam bị thanh trừng, trong vụ nầy có nhà văn Vũ Thư Hiên bị cần tù thời gian khá lâu .. Phe hiếu chiến Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ ... mưu đồ quyền lực đã giết hại hàng triệu người vô tội, lợi dụng khát vọng độc lập, sử dụng xương máu nhân dân để phục vụ quyền lợi bè nhóm và Quốc tế cộng sản. Miền Bắc tiến lên Xã Hội Chủ Nghiã thế nào chúng ta đã biết sau ngày 30.4.1975 .

Chính quyền Quốc Gia ở Miền Nam

Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thực hiện cách mạng Quốc Gia và khai sinh nền Ðệ Nhất Cộng Hòa. Quân Ðội Quốc Gia với toàn vẹn chủ quyền được thống nhất chỉ huy dưới danh xưng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa (Tháng 8 năm 1955 Bộ Tổng tham mưu hoàn toàn do sĩ quan Việt Nam điều khiển, Việt ngữ lúc nầy mới được thay Pháp ngữ !). Các trường huấn luyện các ngành chuyên môn được thành lập để đào tạo các chuyên viên ưu tú trong quân đội. Khó khăn lúc đầu thành lập quân đội từ thời quốc trưởng Bảo Đại phải dùng những Cai, Đội, cũng như ngành Cảnh sát phải dùng người từ thời Pháp Nhật, (một số người kém văn hóa và đạo đức từng làm việc với bọn thực dân). Riêng ngành Cảnh sát Quốc Gia năm 1965, Tổng Nha tuyển dụng những người có Tú Tài trở lên được theo học các Khóa Sĩ Quan Cảnh Sát để thành những cấp chỉ huy tương lai. Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được thành lập để đào tạo những khóa Biên Tập Viên (Tú Tài II) và Thẩm Sát Viên (Tú Tài I) và phải qua một kỳ thi tuyển. Thời gian học của các Sĩ Quan này là 1 năm. Khóa 1 Sĩ Quan Cảnh Sát Quốc Gia khai giảng ngày 01.3.1966 tại trại Lê văn Duyệt, trong khu Biệt Khu Thủ Ðô Sài Gòn. Đầu năm 1969 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia thành lập ở Thủ Ðức. Những sĩ quan quân đội ưu tú VNCH được đào tạo từ Đà Lạt, Thủ Đức, trí thức đầy nhiệt huyết, văn võ song toàn, nhưng thời gian quá ngắn không đủ thâm niên để lãnh đạo quân đội. Thành phần hoán chuyển từ quân đội Pháp đã cầm vận mệnh Quốc gia VNCH 1954-1975 một thời gây sóng gió chính trị miền Nam, thời loạn tướng và chạy trốn trước 30.4.1975.

Quân đội được thành lập qua nhiều giai đoạn khác nhau, nhiệm vụ khó khăn dưới thời đệ nhất Cộng Hoà phải đối đầu quân đội Giáo phái Hoà Hảo ở miền Tây, Bình Xuyên (Bảy Viễn) Sài Gòn và Bà Rịa; Cao Đài ở Tây Ninh, các đảng phái chính trị tại miền Trung (chiến khu Ba lòng, Nam Ngãi) cán bộ CS nằm vùng hoạt động tuyên truyền quấy phá các vùng quê…Chính phủ Ngô Đình Diệm đã ổn định tình hình, tự do dân chủ còn non trẻ vì đất nước trải qua chiến tranh và nô lệ chưa thể một sớm chiều để thăng tiến, hệ thống hành chánh, công an còn ảnh hưởng thời Pháp thuộc, chưa thể làm cuộc cách mạng mau chóng, chính phủ Ngô Đình Diệm phải cần một thời gian để ổn định, TT Diệm ký sắc lệnh thành lập Đại Học Huế 1957 để mở mang Văn hóa và giáo dục cho miền Trung. Vì kinh tế chưa phục hồi để phát triển phục vụ quốc gia phải nhờ Mỹ viện trợ tài chánh quân sự và cố vấn (Military Assitance Advisory Group) có thêm các cơ quan viện trợ phát triển (United States Agency for International Development) rồi từ đó họ ý muốn can thiệp vào Việt Nam…Có những bất đồng chính kiến Việt Mỹ về đường lối lãnh đạo đối với tình hình mới ở Đông Dương. Cùng xảy ra những vụ xuống đường biểu tình ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, trái lưụ đạn nổ gây tử thương một số Phật tử tham gia biểu tình, lãnh đạo phong trào đấu tranh không ai xa lạ Thượng Tọa Thích Trí Quang tục danh (Phạm Trí Quang) gây thêm sóng gió nào đình công bãi thị, tự thiêu lấy lý do đàn áp tôn giáo. Tháng 8 năm 1963 nữ sinh Quách Thị Trang bị trúng đạn trong cuộc đàn áp biểu tình ở trước chợ Bến Thành tình hình càng căng thẳng hơn. Chính Phủ Hoa Kỳ ủng hộ nhóm tướng lãnh lật đổ TT Ngô đình Diệm ngày 11.11.1963. Anh em TT Ngô Đình Diệm bị đại úy Nguyễn Văn Nhung cận vệ của tướng Dương Văn Minh giết trên thiết vận xa M113, ngày 2.11.1963 dưới thời TT Ngô Đình Diệm cai trị có những sai lầm, lịch sử phán xét phân minh, sự thật từ từ được hé mở .

Đảo chánh tranh dành quyền lực

Nhóm Tướng, Tá tham gia lật đổ TT Ngô Đình Diệm tự thăng quan tiến chức như diều gặp gió, cầm vận mệnh Quốc Gia gây xáo trộn đời sống xã hội ở thành phố, đảo chánh chỉnh lý. v v Vùng nông thôn cán bộ CS hoạt động mạnh hơn, được sự bao che cuả các gia đình có con đi tập kết để bao vây thành thị. Chính phủ mới không đủ khả năng uy tín để chống cộng, nên phải nhờ quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh giúp chiến đấu chống lại cộng sản, ngày 8.3.1965 Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên bãi biển Nam Ô Đà Nẵng, quân Đồng minh: Đại Hàn, Thái Lan, Úc, Phi Luật Tân lần lượt đến miền Nam. Ngược lại ngoài Bắc nhiều sư đoàn Trung cộng bí mật sang giữ hậu phương, cho bộ đội vào chiến trường miền Nam. Các cố vấn quân sự, chính trị các nước cộng sản quốc tế giúp Bắc Việt viện trợ tối đa lương thực, vũ khí, xe tăng, máy bay cho bộ đội tiến hành cuộc chiến chiếm miền Nam. Việt Nam thống nhất nhà cầm quyền CSVN phải gởi thanh niên đi lao động tại các nước cộng sản tiếp tục trả nợ chiến tranh bằng mồ hôi và nước mắt! và sai lầm đáng buồn Phạm Văn Đồng ký quốc thư ngày 14 .9.1958 nhận ranh giới biển 12 hải lý của Chu Ân Lai công bố và gián tiếp công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay còn tranh cãi.

Miền Nam tự do quân đội đối đầu với bộ đội miền Bắc trên các mặt trận, thì hậu phương xãy ra phong trào chống chính phủ, chống Mỹ đạo diễn là Thượng Toạ Thích Trí Quang được bầu làm Chánh thư ký Viện Tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống Nhất ngày 4.1.1964, sau khi đảo chánh chính phủ TT Ngô Đình Diệm. TT Trí Quang một cao tăng của Giáo Hội Phật Giáo xách động Phật tử đem bàn Thờ Phật xuống đường gọi là tranh đấu đòi hỏi tự do cho dân chủ và Đạo Pháp? nhưng sau ngày 30.4.1975 không còn nghe tiếng T.T Trí Quang có lẽ nhiệm vụ của ông đã hoàn thành?

Chính quyền VNCH tiếp tục cố gắng cải tổ hành chánh, năm 1966 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được thành lập đào tạo sĩ quan chuyên môn, có trình độ tú tài trở lên để thi hành luật pháp Quốc gia. Có Thượng Viện, Hạ Viện, đại diện của các tôn giáo, đảng phái, đối lập do dân bầu. TT Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo quốc gia không tránh được các vấn nạn tham nhũng, buôn lậu. Tết Mậu thân 1968 là ngày tết linh thiêng của dân tộc Việt nam, dù 2 bên đồng ý ngưng chiến đón xuân, nhưng CS lợi dụng ngày Tết tổng công kích trên toàn miền Nam, dân miền Nam vô tôi bị thiệt hại về tài sản cũng như sinh mạng, ngày tết đã biến thành ngày giỗ của hàng ngàn người từ Nam đến Bắc!

Ký giả Eddie Adames thuộc Associated Press (AP USA) chụp hình tướng Nguyễn Ngọc Loan Tư lệnh CSQG bắn chết tù binh VC gây dư luận không tốt đẹp cho bản thân tướng Loan, mà còn bất lợi cho chính phủ miền Nam! Tổng công kích tết Mậu Thân cán bộ MTDTGPMN thiệt hại nặng qua các cuộc giao tranh, đại tướng Bộ trưởng quốc phòng Bắc Việt Võ Nguyên Giáp thảo kế hoạch chỉ huy, nhưng ký giả nước ngoài phỏng vấn ông đã chối “We had nothing to do with it. The National Liberation Fromt put it on “Don Oberdorfer trang 45.

Từ khi quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam, CS thêm lý tưởng tuyên truyền, “chống Mỹ cứu nước “; “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” thêm vụ giết lầm người ngày 16.3.1968 của trung úy William Calley ở Mỹ Lai. Tivi phát hình bé Phạm thi Kim Cúc bị bom lửa (Napal), như đổ dầu thêm vào lửa cho phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam. Những đêm pháo kích về thành phố bằng hoả tiển 122 ly, xe đò bị giật mìn gây nhiều người chết, bị thương, hàng ngàn người bị chôn sống ở Huế.. thì ít được nhắc đến ? Sử gia Jean Luis Margolin giáo sư Université de Provence là một trong tác giả viết cuốn “Le livere noir du communisme” đã nói “tôi đã xuống đường biểu tình ủng hộ MTGPMN, tôi đã reo mừng với cuộc chiến thắng tại Việt Nam. Không phải mình tôi mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản..”

Miền Nam ra lệnh tổng động viên thanh niên, sinh viên, học sinh phải nhập ngũ thi hành quân dịch, đồng thời mật đàm Paris được hình thành giữa phái đoàn Mỹ và Bắc Việt đưa đến Hội nghị Paris kéo dài 4 năm từ 1969-1973... Hiệp định Paris do Kissinger và Lê Đức Thọ phê chuẩn tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế khách sạn Majestic đại lộ Kléber Paris. Hiệp định Paris ngày 27.1.1973 Quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam trong danh dự và mở đường cho sự sụp đổ của chính quyền VNCH. Ðây là kết quả của gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp thế giới. 58 ngàn quân Mỹ đã hy sinh tại Việt Nam, họ đến như một tia sáng bảo vệ bức tường Tự Do ở Đông Nam Á, Họ ra đi âm thầm của người bại trận, vết thương đổ nát quê hương không thể hàn gắn, máu của người miền Nam vẫn chảy để bảo vệ tự do Mùa hè đỏ lửa, Bình long, An Lộc, Cổ Thành Quảng Trị... lệnh tổng động viên 1973 học sinh, sinh viên bị tụt một tuổi phải giã từ sân trường đi chiến đấu ... sự trưởng thành của quân lực VNCH vững mạnh dù thiếu sự yểm trợ của Đồng Minh.

Ngày 14.3.1975 cố TT Nguyễn Văn Thiệu và một số tướng lãnh quân đội VNCH ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên, máu của quân dân miền Nam đổ ra trên tỉnh lộ 7 về đến Nha Trang, Sài gòn. Ðà Nẵng di tản chiến thuật ngày 29/3 hàng trăm ngàn người hải hùng lên các tàu hải quân hy vọng tìm được tự do, trong lúc đòan quân bộ đội CSVN tiến về thành phố. Ngày đó vẫn còn như những vết hằn sâu kín, những nỗi buồn còn vướng đọng những giọt nước chưa khô. Chuyện thật nhưng khó tin nếu không sống dưới chế độ cộng sản. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê trước 1975 từng từ chối giải thưởng văn học nghệ thuật của TT Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hiến Lê có cảm tình và ủng hộ cuộc chiến „giải phóng miền Nam „ sau năm 1975 ông đã tâm sự „muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm ..“. Học giả Đào Duy Anh đã trao đổi với Nguyễn Hiến Lê khi từ Hà Nội vào thăm Sài Gòn sau năm 1975 „ông ngại hai ba chục năm nữa, kinh tế vẫn chưa tiến được, và xã hội chủ nghiã vài trăm năm nữa cũng chưa xây dựng xong, mình bị phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ„ Hồi ký NHL trang 521.

Mở đầu cho phong trào rời bỏ đất nước ra đi của hơn hai triệu người Việt ngày nay sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Đảng CSVN bắt tất cả người làm việc của chế độ VNCH, Công chức, Sĩ quan, chuyên gia kỷ thuật, Giáo viên, kể cả các lãnh đạo Tôn giáo vào trại tập trung cải tạo trong các vùng núi với sơn lam chướng khí, thiếu lương thực, thuốc men sống như những người tù khổ sai ..nhà cầm quyền VN đổi tiền hai lần và đánh tư sản mại bản, đuổi người đi kink tế mới, chiếm đoạt nhà cửa để bần cùng hóa xã hội, đưa quân can thiệp nội bộ Campuchia hy sinh thêm 50 ngàn nghiã vụ quân sự, chiến tranh biên giới Việt Hoa gây thiệt hại kinh tế... Dù thống nhất đất nước, ngày nay có đổi mới nhưng dân tộc Việt Nam chưa thật sự tự do và dân chủ, bạo lực chỉ chiếm được đất chứ không chiếm được lòng người. Những người trí thức yêu nước chống ngoại xâm đòi hỏi tự do và nhân quyền, đã bị CSVN đàn áp kết án tù đày, giống như Trung Hoa trong vụ Thiên An Môn đàn áp Sinh viên. Muốn có tự do nhân quyền phải từ bỏ chế độ Cộng sản độc tài tham nhũng mới có hy vọng đất nuớc phát triển giàu mạnh, theo kịp các quốc gia văn minh trên thế giới.

Nguyễn Quý Đại

1. Bên giòng Lịch sử LM Cao Văn Luận
2. Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê
3. Đêm giữa ban ngày của nhà văn Vũ Thư Hiên
4. Nguyễn Kỳ Nam tài liệu Lịch sử 1945-54 trang 83
Tài liệu tham khảo
-The NLF’s Foreign Relations and the Vietnam War" (Cornell, 1998)
-Án Tích Cộng sản Việt nam của tác giả Trần Gia Phụng
-Việt nam đi về đâu huyền thoại và sự thật Luật sư Lê Trọng Quát
-Quân sử tập 3 Bộ Tổng Tham Mưu
-Những ngày chưa quên tác giả Đoàn Thêm
-Những cơn gió bụi tác giả Trần Trọng Kim..
-Hồi Ký Võ Văn Giáp
-Hình trên Internet





Saturday, July 28, 2012

Gửi đến những người lính đã phản bội.

    LỜI NGƯỜI LÍNH VNCH GỞI CÁC CHIẾN HỮU ĐỔI MÀU
Đỗ Văn Xuân

Tôi rất ngại, không biết phải xưng hô thế nào với các bạn, trước đây tôi và các bạn đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, nay có một số đã chấp nhận đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ mà trong cuộc chiến bảo vệ tự do, chúng ta không bao giờ chấp nhận và truy lùng trong những cuộc hành quân, cũng như hạ xuống tại những vùng nông thôn kẻo lánh để thay vào bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ. Đau lòng là ngày nay, các anh không còn thích chào cờ nầy khi về Việt Nam, phải đứng trước lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Hồ chí Minh, thậm chí khi trở sang nước tạm dung, các anh tỏ ra khiếp sợ một cách hèn nhát, ít khi dám tham dự các sinh hoạt có lá cờ vàng, nhất là không dám chụp những tấm ảnh có những thứ mà chế độ cộng sản thù ghét, đã sống tại các nước dân chủ, nhưng các anh vẫn còn sợ hải đảng cộng sản, thì làm sao giải trừ được chế độ phi nhân, mang lại tự do cho đồng bào Việt Nam. Tôi cảm thấy ngượng ngùng khi gọi các anh là chiến hữu, các anh đã thực sự đổi màu, trở thành đồng chí với cán binh cộng sản khi về đây vui chơi hay với nhiều lý do khác.

Nhớ thuở xưa, quân nhân chúng mình đã thề trung thành với tổ quốc, đứng dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, ngày nay các anh đã quên tất cả và đổi màu chỉ sau lần về Việt Nam và sau đó là những chuyến hồi hương, càng thắt chặt tình đồng chí với cán bộ, công an, bộ đội để kết bạn tâm giao, mua sự an toàn bằng những tiệc tùng do chính các anh xuất tiền chiêu đãi.

Những năm tháng chiến đấu chống lại kẻ thù cộng sản, tay sai của khối cộng sản quốc tế, những năm tù đày tưởng như không sống sót sau khi miền nam thất thủ. Một số các anh may mắn di tản trong giờ phút sau cùng của cuộc chiến và nay một số các anh đã quay về, không còn như bài ca: Người Di Tản Buồn, một thời làm xúc động trái tim của những người xa tổ quốc, khi quê hương lọt vào tay quân thù. Những người di tản buồn ấy tiêu biểu như Nguyễn Cao Kỳ và gia đình với con gái Kỳ Duyên, vợ là Tuyết Mai, đã quay về, sánh vai cùng những kẻ mạt sát mình là bọn phản động nước ngoài, đĩ điếm du côn ... chắc chắn là những người di tản buồn ấy đã mất hết tâm hồn, trở thành công cụ tuyên truyền cho chế độ phi nhân.

Người di tản buồn Nguyễn Phương Hùng, về Việt Nam vài lần và tự xóa bỏ căn cước tị nạn, khóc lóc như là đứa trẻ trước mặt bọn cán bộ cộng sản, thật là nhục nhã, còn đâu phẩm cách con người, chứ chưa nói đến tác phong của người lính Việt Nam Cộng Hòa, với tấm gương Trần Bình Trọng: "thà làm quỷ nước nam, còn hơn làm vương đất bắc". Các anh em quân nhân, nhất là cùng binh chủng Biệt Động Quân, cảm thấy đau lòng khi trong hàng ngũ có Nguyễn Phương Hùng, đổi màu, đón gió, trở thành quân nhân quốc gia, thờ ma cộng sản. Ấy thế mà Nguyễn Phương Hùng cảm thấy hãnh diện, niềm tự hào của tên phản bội đê hèn, là hạng người mà bất cứ xã hội nào cũng khinh khi, sớm đầu tối đánh. Ngay cả những đồng chí mới của Nguyễn Phương Hùng cũng không bao giờ tin được hắn, nhưng trong giai đoạn nầy, đảng cộng sản dùng thân xác của anh lính Biệt Động Quân đón gió để thực hiện mục đích tuyên truyền. Chính cá nhân Nguyễn Phương Hùng cũng có thể là không nhận ra sự thâm độc của đảng cộng sản, như con chó được chủ nó ném khúc xương để ngoan ngoãn nằm gọn trong thòng lọng và sau đó bị đập đầu, xẻ thịt cho một tiệc nhậu, cái băng Youbube mà Người di tản buồn năm nào, Biệt Động Quân Sát như bài ca hành khúc, bị Nguyễn Phương Hùng hạ nhục thành Biệt Động Quân khóc như đứa trẻ lên ba tại một phòng họp ở đảo Song Tử Tây, đưa Nguyễn Phương Hùng thành thân bại danh liệt, xú danh muôn đời, nhất là sau đó trở sang Hoa Kỳ, sống trong vùng đất tự do mà hầu hết mọi người nguyền rủa kẻ phản bội. Đảng cộng sản đã giết Nguyễn Phương Hùng bằng cái youtube ấy, hắn lại hãnh diện và cám ơn kẻ giết mình. Nhưng nếu Nguyễn Phương Hùng trở về Việt Nam, sống trọn vẹn với tấm lòng mê đảng, hiếu với bác như Trần Trường, thì trong tương lai, bị trấn lột, phải bỏ của chạy lấy người, như nhiều kẻ lập công dâng đảng từ trước, trở về và bị vắt chanh bỏ vỏ. Nguyễn Phương Hùng ngây thơ, dù làm báo lâu năm với nghề ký giả tự do ở Hoa Kỳ, hắn không biết hay cố tình không muốn biết con tàu Việt Nam Thương Tín, đã đến bến bờ tự do mà còn quay về và tất cả đã bị đảng tống vào tù. Nếu Nguyễn Phương Hùng về Việt Nam cách đây 35 năm trước, thì hắn không bao giờ nói là hối tiếc là không về sớm để phục vụ chế độ cộng sản. Những nạn nhân Việt Nam Thương Tín vẫn còn hổ thẹn và hối tiếc sau khi trở về quê hương.

Những bạn lính may mắn khác, vượt biển, đi bằng đường bộ thành công, đến bến bờ tự do. Sau bao năm lăn lóc nơi xứ người, thành công trên nhiều lãnh vực, bỗng trở về, mang tiền về giúp đảng cộng sản từ nhiều năm qua, họ trở thành khách cung cấp tiền thường trực hàng năm cho chế độ cộng sản, giúp đảng vượt qua những khó khăn kinh tế, nợ nần lút đầu, nên tránh được sụp đổ từ lâu, khi cạn kiệt tài chánh, là bài toán chung cho sự sụp đổ các chính quyền trên thế giới.

Một số tù cải tạo, sống sót, được Hoa Kỳ cứu vớt theo chương trình O.D.P, sau thời gian định cư, quay về, kết bạn với những kẻ đã từng hành hạ, mạt sát trong các nhà tù, lương tri của con người không nằm trong ấy, ngay cả thú vật cũng không quên sau vài lần đánh đập nó, nhưng các anh quân nhân H.O trở về, kết bạn mới với cán bộ, trở thành đồng chí, kiêm mạnh thường quân trong các tiệc, sáng nhậu với ủy ban nhân dân, chiều công an đãi tiệc ... đó là những đồng tiền hưu dưỡng được chính phủ Mỹ chu cấp để sinh sống, hay những món tiền hưu sau nhiều năm làm việc, thay vì chi cho gia đình, giúp cho các bệnh viện sở tại để chửa trị, trong đó có phúc lợi gia đình và cá nhân mình .... thì các anh lại tiêu xài cho cán bộ cộng sản để mua sự an toàn trong thời gian lưu lại, với nhiều ly do như thăm gia đình, hú hý với gái tơ, du lịch ... Những quân nhân như Phạm Tín An Ninh, sau 9 năm tù, quay về để làm quen với những kẻ hành hạ trước đây, còn viết sách ca tụng quản giáo và giúp đỡ cả con quản giáo nữa.

Một số bạn bè của tôi cho biết ở nước Úc, chính phủ ưu ái dành cho quân nhân đồng minh quyền lợi, được cấp hưu dưỡng từ bộ cựu chiến binh, nhưng đã có nhiều anh đã dùng 11 tháng trong năm số tiền cấp dưỡng để sống tại Việt Nam, đó là tiền đóng thuế của dân Úc, lại được các anh nuôi chế độ cộng sản. Theo nhiều người biết, nhiều quân nhân đã quay về, mua nhà, chỉ sang Úc 1 tháng cho hợp chính sách và trở về sống 11 tháng còn lại trong năm, các anh ấy là đồng chí, chứ không còn là chiến hữu nữa. Tại sao những quân nhân ở đây không báo cho chính phủ Úc biết những người như thế?. Một số quân nhân quay về Việt Nam thường viện lý do là có quan hệ bang giao, các cựu chiến binh đồng minh ở Hoa Kỳ, Úc... trở về Việt Nam du lịch, vì họ có nguồn gốc khác với các quân nhân VNCH, chúng ta ra đi vì chế độ cộng sản, nay không thể viện lý do bang giao, là quốc tịch được ban cấp để trở về nơi mà chúng ta cho là nguy hiểm, không thể quay về .... đó là trường hợp một giàn dây leo, có cây mướp, bầu, khổ qua ... chung một giàn, nhưng khác giống. Những người tỵ nạn cộng sản năm nay, trở về an toàn, thì đã tự mình xé bỏ căn cước tỵ nạn chính trị, chính phủ các nước ban cấp quyền công dân, nhưng họ cũng có quyền thu hồi khi cần và xét thấy những người được cấp vi phạm luật, giống như thu hồi giấy phép thương nghiệp, hành nghề luật sư, bác sĩ ... của những kẻ vi phạm luật.

Kẻ thù cộng sản đã đạt thắng lợi lần nữa sau cuộc chiến Việt Nam, không phải chúng tài giỏi, nhưng là do trong hàng ngũ quốc gia, có một số người đón gió trở cờ, đặt cá nhân trên tổ quốc, trở thành những kẻ phản bội.

Trước năm 1975, chính sách chiêu hồi của chính phủ miền nam đã cải hóa hàng chục ngàn cán binh trở về với chính nghĩa quốc gia. Nhưng phía cộng sản cũng có cái gọi là: trở về với nhân dân và cách mạng, thực tế là con số người giác ngộ cách mạng không nhiều, đa số là những kẻ nằm vùng trong hàng ngũ quân đội, chính quyền bị lộ nên phải bỏ vào bưng để an toàn, hay những tên gây tội phạm hình sự, sợ bị pháp luật chế tài, nên vào rừng để trốn tránh. Vào những ngày gần cuối cuộc chiến, có một số quân nhân phản bội, nằm vùng như Nguyễn Thành Trung, quay súng làm phản, được cộng sản cấp giấy " Tiền Khởi Nghĩa", số người nầy đa số là gia đình cán bộ cộng sản, được móc nối bỏ hàng ngũ để sau nầy được an toàn.

Ngày nay, sau cuộc chiến, các quân nhân may mắn thoát khỏi tay kẻ thù, nay trở thành "tiền khởi nghĩa", trở về làm đồng chí của những kẻ chiến thắng thời cơ, mang tiền về đóng góp cho bọn tư bản đỏ tại Việt Nam và đã thành kẻ phản bội. Đây là những tâm tình của một người lính Việt Nam Cộng Hòa, nhắn gởi những ai còn lương tri và đồng thời xác định lập trường, bảo vệ chính nghĩa quốc gia, từ nay những kẻ phản bội, trở cờ, không còn là chiến hữu nữa.

Đỗ Văn Xuân
(Người lính chưa nhận chứng chỉ giải ngũ)

Saturday, July 14, 2012

Chiến Tranh Việt Nam Trong Toàn Cảnh Chính Trị Thế Giới - Trần Gia Phụng

Trần Gia Phụng

Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975. Cuộc chiến nầy là cuộc chiến phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam, xen lẫn nhiều yếu tố chính trị quốc tế lồng trong chiến tranh lạnh toàn cầu giữa hai khối tư bản và cộng sản. Vì vậy, để góp phần soi rõ chiến tranh Việt Nam vừa qua, thiết tưởng nên đặt chiến tranh Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới.

1. VẬN MỆNH VIỆT NAM TRONG TAY NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Trong điều 1 hòa ước Pháp Việt ngày 6-6-1884, có đoạn nguyên văn như sau: “… Nước Pháp đại diện cho nước Nam trong các việc giao dịch với nước ngoài…”. Như thế có nghĩa là từ năm 1884 tất cả những vấn đề ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp quyết định.

Đến thế chiến thứ hai (1939-1945), đế quốc Nhật Bản thao túng Đông Dương từ năm 1940, nhưng mãi đến ngày 9-3-1945, Nhật Bản mới đảo chánh, lật đổ Pháp. Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11-3-1945. Tuy nhiên nền độc lập quá mong manh, vì vua Bảo Đại dựa vào Nhật, mà Nhật sắp thất trận.

Sau khi Đức đầu hàng ngày 7-5-1945, nguyên thủ các nước Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô họp hội nghị thượng đỉnh tại thị trấn Potsdam (gần Berlin, thủ đô nước Đức), từ ngày 17-7 đến 2-8-1945, có mục đích bàn về các vấn đề hậu chiến tại Đức. Hoa Kỳ thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 16-7, nên chọn ngày 17-7 để bắt đầu hội nghị Potsdam, nhằm tăng uy lực cho Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết. Bên cạnh đó, cũng tại Potsdam, đại diện Hoa Kỳ, Anh và Trung Quốc (không họp hội nghị Potsdam, nhưng đồng ý qua truyền thanh) cùng gởi một tối hậu thư cho Nhật Bản ngày 26-7-1945. Lúc đó, Nhật Bản còn tiếp tục chiến đấu ở Á Châu. Liên Xô không tham dự vào tối hậu thư vì Liên Xô chưa tham chiến ở Á Châu và chưa tuyên chiến với Nhật Bản.

Tối hậu thư nầy, thường được gọi là tối hậu thư Potsdam, buộc Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện, chấp nhận những điều kiện của Đồng minh, như chấm dứt quân phiệt, giải giới quân đội, từ bỏ đế quốc… Cũng theo tối hậu thư Potsdam, tại Đông Dương quân Nhật sẽ bị giải giới do quân Trung Quốc ở bắc và do quân Anh ở nam vĩ tuyến 16. Như thế, qua tối hậu thư Potsdam, các cường quốc tự ý quyết định tương lai chính trị cho Việt Nam mà không có đại diện của Việt Nam.

Tối hậu thư Potsdam không đề cập đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho tương lai Đông Dương. Phải chăng các cường quốc cố tình tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính trị ở Đông Dương, nhằm sử dụng Đông Dương làm chiến lợi phẩm đổi chác với nhau, hay đổi chác với Pháp? Nhân cơ hội nầy, Pháp hết sức vận động với cả hai nước Anh và Trung Quốc để Pháp tái lập quyền bảo hộ Đông Dương.

Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, mặt trận Việt Minh (VM) do Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) điều khiển, nhanh tay cướp chính quyền và lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945. Trong khi đó, để giải giới quân đội Nhật, tướng Douglas Gracey chỉ huy quân Anh đến Sài Gòn ngày 13-9-1945 và tướng Lư Hán cầm đầu quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc đến Hà Nội ngày 14-9-1945.

Pháp ký với Anh Tạm ước về hành chính và tư pháp tại London ngày 8-10-1945, theo đó Anh giao quyền cho Pháp cai trị phía nam vĩ tuyến 16 ở Việt Nam. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, tr. 275.) Sau đó, Pháp ký với Quốc Dân Đảng Trung Quốc hiệp ước tại Trùng Khánh (Chongqing) ngày 28-2-1946, nội dung là Trung Quốc chịu cho quân Pháp thay thế ở bắc vĩ tuyến 16, và ngược lại Pháp nhường cho Trung Quốc nhiều quyền lợi kinh tế ở Bắc Kỳ cũng như ở Trung Quốc. (Chính Đạo, sđd. tr. 311.) Như thế các nước Anh, Trung Quốc, Pháp xem Việt Nam như một món hàng trao đổi, buôn bán với nhau.

2. VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Sau khi Nhật Bản đầu hàng (14-8-1945), thế chiến thứ hai chấm dứt. Các nước thắng trận chia thành hai khối: một bên là Hoa Kỳ cùng các nước Tây Âu theo chủ nghĩa tư bản, và một bên là Liên Xô cùng các nước Đông Âu do Liên Xô mới chiếm đóng, theo chủ nghĩa cộng sản. Hai khối tư bản và cộng sản tranh chấp quyết liệt trên tất cả các lãnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự; tăng cường sức mạnh cho mình và khối của mình, đồng thời tìm cách làm suy yếu khối đối phương. Tuy nhiên hai bên tránh đụng độ trực tiếp với nhau vì cả hai bên đều thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy ra thì cả hai bên đều thiệt hại thảm khốc. Tình trạng tranh chấp căng thẳng nhưng không đánh nhau nầy gọi là chiến tranh lạnh. (Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 29-8-1949.)

Trong khi đó, sau thế chiến thứ hai, phong trào giải thực chống đế quốc lan tràn khắp nơi. Lợi dụng hoàn cảnh nầy, Liên Xô tiếp tục chủ trương xuất cảng cách mạng, xúi giục và giúp đở các nước nhỏ bị các nước Tây phương đô hộ vào thế kỷ trước, đứng lên giành độc lập, rồi sau đó gia nhập khối Liên Xô. Các cuộc võ trang nổi dậy, hoặc các cuộc nội chiến tranh chấp quyền lực, tạo nên những cuộc chiến cục bộ, là những điểm nóng địa phương trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

Ở Á Châu, sau thế chiến hai, các điểm nóng quan trọng là Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Quốc tái diễn ngày 20-7-1946. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) thành công, lập ra Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) ngày 1-10-1949. Sự ra đời của CHNDTQ tăng cường sức mạnh cho khối CS và gây nhiều ảnh hưởng ở Á Châu.

Trước sự thành công của đảng CSTQ, Hoa Kỳ rất lo ngại sự bành trướng của CS ở Á Châu. Từ tháng 1-1950, thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy, thuộc đảng Cộng Hòa, tiểu bang Wisconsin, phát động chiến dịch “tố cộng”, thịnh hành đến nỗi người ta còn gọi là chủ thuyết McCarthy (Carthyism).

Tại Triều Tiên, sau thế chiến thứ hai, Triều Tiên được chia ở vĩ tuyến 38: phía Bắc do Liên Xô tạm chiếm và phía Nam do Hoa Kỳ tạm chiếm. Tại miền Nam, năm 1948 quốc hội được bầu ra và soạn thảo hiến pháp, công bố thành lập Cộng Hòa Triều Tiên (Republic of Korea), thủ đô là Hán Thành (Seoul). Tại miền Bắc, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (Democratic People’s Republic of Korea) được thành lập ngày 9-9-1949, thủ đô là Bình Nhưỡng (Pyong-yang). Với sự hỗ trợ của Liên Xô, Trung Quốc giúp Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên ngày 25-6-1950. Nam Triều Tiên được Hoa Kỳ giúp đỡ, vận động đưa quân Liên Hiệp Quốc (LHQ) chống Bắc Triều Tiên. Sau thời gian đánh qua, đánh lại, ngày 27-7-1953, hai bên Nam và Bắc Triều Tiên đình chiến và trở lại vị trí trước chiến tranh ở vĩ tuyến 38 Bắc.

Tại Việt Nam, nhờ sự giúp đỡ của Anh, quân Pháp chiếm Nam Kỳ, rồi tiến ra Trung và Bắc Kỳ, đe dọa chính phủ VNDCCH. Hồ Chí Minh nhượng bộ, ký thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946, sẵn sàng tiếp đón quân Pháp đến thay thế quân Trung Quốc để giải giáp quân Nhật (điều 2), trái với lời Hồ Chí Minh thề khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2-9-1945: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.) Hồ Chí Minh còn ký Tạm ước (Modus Vivendi) tại Paris tối 14-9-1946 với Marius Moutet, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, gồm 14 điều khoản, một lần nữa nhượng bộ để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam.

Sau hai hiệp ước nầy, quân Pháp đến Bắc Kỳ càng ngày càng đông. Tại Hà Nội, tự vệ VM dựng nhiều rào cản, gây trở ngại. Quân Pháp gởi tối hậu thư cho VM ngày 18-12-1946, báo rằng nếu VM không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ phụ trách an ninh kể từ 20-12-1946. Nếu quân Pháp giữ gìn an ninh Hà Nội, thì toàn bộ lãnh đạo VM, đảng CSĐD và cả Hồ Chí Minh ở Hà Nội, đều nằm trong tay Pháp. Không thể để bị Pháp bắt và cũng không thể tự nhiên bỏ trốn khỏi Hà Nội, Hồ Chí Minh liền hô hào toàn dân kháng chiến chống Pháp tối 19-12-1946, nhằm tạo cơ hội cho Hồ Chí Minh và lãnh đạo CS thoát thân khỏi Hà Nội mà không bị tai tiếng chạy trốn. Từ đó bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp.

Vì không biết bị Hồ Chí Minh phỉnh gạt, lúc đầu toàn dân Việt Nam hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng càng ngày Hồ Chí Minh và mặt trận VM càng để lộ chân tướng cộng sản, nên các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại. Bảo Đại thương thuyết với Pháp, đưa đến kết quả là cựu hoàng Bảo Đại ký kết với tổng thống Pháp Vincent Auriol hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN), chống lại VNDCCH. Từ nay, cuộc kháng chiến chống Pháp biến thành của chiến tranh Quốc Cộng.

Sau sự kiện trên, chiến tranh Việt Nam bước vào một giai đoạn mới khi Trung Quốc (ngày 18-1-1950), rồi Liên Xô (ngày 30-1-1950) thừa nhận VNDCCH; trong khi Hoa Kỳ (ngày 4-2-1950), rồi Anh Quốc (ngày 7-2-1950) thừa nhận QGVN. Các cường quốc càng ngày càng góp lửa vào chiến tranh Việt Nam. Nhờ sự viện trợ về mọi mặt của Liên Xô và nhất là Trung Quốc (nước láng giềng phía bắc), Hồ Chí Minh và đảng CSVN thắng thế, cao điểm là trận Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954.

Trước tình hình mới, các cường quốc lại họp nhau tại Genève từ ngày 8-5-1954, tìm giải pháp cho chiến tranh Việt Nam. Theo giải pháp chia hai Triều Tiên, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết ngày 20-7-1954 tại Genève, chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam do Bảo Đại làm quốc trưởng. Một lần nữa, số phận Việt Nam do các cường quốc sắp đặt với nhau, và buộc hai phe Việt Nam chấp hành.

Trước khi ký kết hiệp định Genève, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc mời Hồ Chí Minh sang Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây, họp từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954. Tại đây, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai nước Việt Nam do các cường quốc đưa ra, đồng thời Chu Ân Lai đưa kế hoạch cho Hồ Chí Minh rằng trước khi rút ra Bắc, Hồ Chí Minh nên gài cán bộ ở lại miền Nam, đồng thời phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến tranh.

Sau hội nghị Liễu Châu, và trước khi ký hiệp định Genève, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động ngày 15-7-1954, trình bày mục tiêu chiến đấu mới của CSVN. Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Miên Lào… Mũi nhọn của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ…” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7: 1953-1955, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 314-315.) Lúc đó Hoa Kỳ chưa chính thức can thiệp vào Việt Nam, mà Hồ Chí Minh đã chỉa mũi nhọn vào Hoa Kỳ, chẳng qua chỉ vì Hồ Chí Minh theo chân Liên Xô và Trung Quốc, tấn công Hoa Kỳ nhằm lập công với hai nước nầy.

Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Phía bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Phía nam là Quốc Gia Việt Nam và đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1955. Khi Hoa Kỳ viện trợ cho miền Nam Việt Nam tái thiết đất nước, chưa đem quân vào Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Xô), số đặc biệt về nước VNDCCH, rằng VNDCCH là tiền đồn của QTCS. “Như vậy là ở Đông Nam Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hòa bình toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, 1958-1959, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 309.)

Phát động chiến tranh tấn công miền Nam Việt Nam sau nghị quyết của Hội nghị Trung ương đảng Lao Động ngày 13-5-1959 và sau Đại hội III đảng Lao Động từ ngày 5 đến 10-9-1960, CSVN đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”. Thực chất, Lê Duẫn, bí thư thứ nhất đảng LĐ cho biết: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, tr. 422.)

Trong khi đó, Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị cộng sản chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay cộng sản, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ. Vận dụng thuyết địa lý chính trị nầy, Hoa Kỳ can thiệp vào các nước Đông Nam Á, hầu ngăn chận sự bành trướng của cộng sản.

Trước sự bành trướng của CS tại Á Châu, đại diện ba nước Australia (Úc), New Zealand (Tân Tây Lan), United States of America (USA) (Hoa Kỳ) họp tại San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực. Khối ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu vì an ninh bị đe dọa.

Sau hiệp định Genève (20-7-1954), Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization, SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC) Australia, France, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thailand, United Kingdom (Anh), và United States of America. Trong phụ bản của hiệp ước, ba nước Cambodia, Laos và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào phụ bản hiệp ước nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á.

3. CHIẾN TRANH GIỚI HẠN TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được khối CSQT hậu thuẫn, quyết định tấn công VNCH năm 1960. Việt Nam Cộng Hòa ở thế tự vệ, phải nhờ đến sự giúp sức của Hoa Kỳ và đồng minh chống lại cuộc tấn công của cộng sản. Khi can thiệp vào Việt Nam, Hoa Kỳ nhắm mục đích chính là ngăn chận sự bành trướng của CS, nhất là của CS Trung Quốc, nhằm phòng thủ từ xa để chủ nghĩa CS không thâm nhập vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các chính phủ Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên, nên chủ trương “chiến tranh giới hạn”. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.)

Nguyên trong chiến tranh Triều Tiên, ngày 25-6-1950, Bắc Tiều Tiên (BTT) xâm lăng Nam Triều Tiên (NTT), chiếm Hán Thành. Ngày 12-9-1950, đại tướng Douglas MacArthur cầm đầu quân đội Liên Hiệp Quốc (LHQ), đẩy lui Bắc quân, tái chiếm Hán Thành. Ông tiếp tục truy đuổi Bắc quân, vượt vĩ tuyến 38, chiếm Bình Nhưỡng và tiến đến sông Áp Lục (Yalu River), vùng biên giới Trung Quốc. Lấy cớ quân LHQ đe dọa biên giới, khoảng 250,000 chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, giúp BTT ngày 26-11-1950. Trung Quốc dùng chiến thuật biển người, đẩy lui quân LHQ, chiếm Hán Thành. Matthew Ridgway thay thế tướng MacArthur, cầm quân LHQ, đuổi cộng quân khỏi vĩ tuyến 38 tháng 1-1951, chứ không tiến xa lên phía bắc.

Lần nầy ở Đông Dương, tuy Hoa Kỳ giúp VNCH chống lại CSBV, nhưng vẫn lo lắng Trung Quốc có thể dựa vào lý do Hoa Kỳ hăm dọa vùng biên giới phía nam Trung Quốc để tung quân vào Việt Nam như đã từng làm ở Triều Tiên. Lúc đó, dân số Trung Quốc đông gấp bốn lần dân số Hoa Kỳ. Để tránh trường hợp Trung Quốc can thiệp, Hoa Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn” (limited war), tức giới hạn mục tiêu tấn công, không đánh ra Bắc, như trước đây Mac Arthur đã từng đánh ra Bắc Triều Tiên, nhất là tránh khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc.

Trong cuộc chiến từ 1960 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam, CSVN vừa dùng khủng bố, vừa dùng chiến thuật du kích, rồi tiến lên chiến tranh quy ước. Du kích là rình mò tấn công lẻ tẻ, làm tiêu hao lực lượng đối phương. Khủng bố nguy hiểm hơn, chẳng những là tấn công hủy diệt, mà khủng bố còn là đòn chiến tranh tâm lý cân não, uy hiếp làm cho dân chúng kinh hoàng và khiếp sợ suốt đời. Quân đội Hoa Kỳ cũng như quân đội VNCH (khi còn được trang bị đầy đủ), đánh trả hữu hiệu những cuộc tấn công lớn của CS, nhưng không có đối sách nào có thể dẹp yên hoàn toàn được khủng bố và du kích CS.

Ai cũng biết khủng bố, du kích và cả chiến tranh quy ước luôn luôn phải có hậu phương yểm trợ. Khủng bố, du kích CS phát xuất từ Bắc Việt Nam. Bắc Việt Nam hay VNDCCH chính là kẻ chủ trương, nuôi dưỡng khủng bố và du kích ở Nam Việt Nam, là hang ổ của khủng bố, du kích và quân đội chính quy CS ở miền Nam, là nguồn tiếp liệu to lớn về tất cả các mặt cho CS miền Nam. Đánh rắn phải đánh đầu. Bứng cây phải đào tận gốc. Muốn dẹp khủng bố, du kích CS tại miền Nam Việt Nam, thì phải tấn công sào huyệt của khủng bố và du kích ở Bắc Việt Nam, chận đứng hậu phương của CS, chận đứng nguồn tiếp liệu liên tục của CS, và buộc Bắc Việt Nam từ bỏ cuộc tấn công Nam Việt Nam. Nếu không đánh Bắc Việt Nam, CS Nam Việt Nam cứ tiếp tục khủng bố và du kích không ngừng nghỉ.

Các tướng lãnh VNCH thấy rõ điều nầy và nhiều lần đề nghị Bắc tiến, đánh ra phía bắc vĩ tuyến 17, lấy thế công làm thế thủ, buộc CSVN phải lui về phòng ngự đất Bắc, ngưng hoặc giảm tiếp liệu cho du kích miền Nam, hoặc dựa vào đó để thương thuyết với CS, buộc CS Bắc Việt chấm dứt tiếp tế du kích miền Nam, như liên quân Liên Hiệp Quốc đã làm ở Triều Tiên.

Tuy nhiên Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không chấp nhận kế hoạch Bắc tiến, không viện trợ phương tiện cho các kế hoạch Bắc tiến và chận đứng ngay các kế hoạch Bắc tiến của quân đội VNCH.

Có thể kể các ví dụ: Ngày 4-5-1964, trung tướng Nguyễn Khánh đề nghị với đại sứ Cabot Lodge mở rộng chiến tranh ra Bắc. (Vietnam Task Force – Office of the Secretary of Defence, United States – Vietnam Relations 1945-1967, Washington D.C.: 2011. Part IV. C. 1., p. a-7.) Trong cuộc mít-tinh ngày 19-7-1964, thủ tướng Nguyễn Khánh công khai hô hào Bắc tiến. (John S. Bowman, The Vietnam War: Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tt. 42.) Kết quả, Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ đẩy ra nước ngoài làm đại sứ. Không biết Hoa Kỳ có nhúng tay vào vụ nầy hay không?

Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật kiêm tư lệnh Quân đoàn I viết thư cho chính phủ, đưa ra đề nghị Bắc tiến. Tướng Thi cũng công khai đề nghị với người Mỹ. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.) Tướng Thi sau đó bị cách chức vào tháng 3-1966, đưa đến vụ Biến động miền Trung.

Khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, tấn công qua Hạ Lào tháng 1-1971, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị với Hoa Kỳ là VNCH đưa một sư đoàn tiến qua phía bắc vĩ tuyến 17 như một chiến thuật đánh lạc hướng CSVN, nhưng Hoa Kỳ không chấp thuận. (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., không đề năm xuất bản, tr. 75 và tr. 116.)

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, Bắc Việt tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH. Viện dẫn lý do nầy, Quân đoàn I đưa ra đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhằm đe dọa hậu cứ địch, nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý. Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý tiến quân ra Bắc, các cố vấn Mỹ giới hạn việc cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.) Cuối năm 1972, Hoa Kỳ rút hết quân khỏi Việt Nam.

Về Không quân, ban đầu Hoa Kỳ chỉ cung cấp các chiến đấu cơ loại cánh quạt cho Không quân VNCH. Trong năm 1965, khi mở màn tấn công Bắc Việt, các phi công VNCH lái các loại máy bay AD5 (2 chỗ ngồi) và AD6 (một chỗ ngồi) tức khu trục cơ cánh quạt Skyraider (Thiên kích), bay xa nhất đến Hà Tĩnh lại phải quay về liền. Sau năm 1965, Không quân VNCH không còn bay ra Bắc nữa. Khi cung cấp phản lực cơ chiến đấu cho Không quân VNCH, Hoa Kỳ chỉ cung cấp loại phản lực F-5 và A-37, chứa nhiên liệu ít, nên không ở lâu trên không trung và không bay xa được để khỏi tấn công đất Bắc.

Theo hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, nguyên là tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH, thì vào năm 1966, ông đưa ra một chiến lược 7 điểm, trong đó điểm thứ 6 là đổ bộ lên Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng Bình), tuy nhiên kế hoạch nầy không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, tr. 288.)

Cũng trong năm 1966, nhận thấy quân Bắc Việt qua vùng phi quân sự, xâm nhập tỉnh Quảng Trị, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland đề nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ dùng lực lượng quốc tế lập phòng tuyến KANZUS, chận ngang qua khu phi quân sự, chống sự xâm nhập và bảo vệ miền Nam Việt Nam. KANZUS viết tắt của các chữ Korea, Australia, New Zealand và United States. Đại sứ các nước nầy tại Sài Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng kế hoạch KANZUS bị Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports, New York: Da Capo Press, 1989, tr. 197.) Westmoreland không giải thích vì sao chính phủ Hoa Kỳ từ chối. Phải chăng Hoa Kỳ không muốn gây sự hiểu lầm về sự hiện diện của một lực lượng đa quốc tại vùng phi quân sự.

Rõ ràng vì chủ trương “chiến tranh giới hạn”, Hoa Kỳ không chấp nhận tất cả những kế hoạch tấn công Bắc Việt bằng bộ binh như ở Triều Tiên. Nếu không tấn công hậu cứ CSVN ở Bắc Việt Nam để CSVN lui về thế thủ, chấm dứt tiếp liệu cho CS miền Nam, thì không có cách gì có thể chận đứng nạn khủng bố, nạn du kích ở miền Nam và cũng không thể chận đứng nguồn tiếp liệu của CSVN, để CSVN có thể mở những trận đánh lớn trên khắp miền Nam Việt Nam. Các tướng lãnh cầm quân Hoa Kỳ, dù thay đổi chiến thuật, chiến lược, dù được tăng cường tối đa và được trang bị tối tân, có thể thắng chiến tranh quy ước, nhưng cũng không thể chận đứng thủ đoạn khủng bố và chiến tranh du kích của CSVN.

Một ví dụ cụ thể là sau biến cố ngày 11-9-2001 (Tòa Tháp đôi ở New York bị đánh sập, chết 3,000 người), chính phủ Hoa Kỳ với phương tiện lớn lao, hùng hậu, với sự tiếp tay của nhiều nước trên thế giới, mở chiến dịch truy lùng khủng bố ở Hoa Kỳ và khắp toàn cầu, tấn công hậu cứ của khủng bố ở Trung đông, Pakistan, Afghanistan, mà cuối cùng cũng chẳng diệt hết được khủng bố.

Với kinh nghiệm về việc truy diệt khủng bố rất khó khăn sau biến cố 11-9-2001, ngày nay chúng ta mới dễ hiểu được trước năm 1975, Hoa Kỳ và VNCH chỉ hành quân bên trong lãnh thổ Nam Việt Nam, thì làm thế nào có thể tiêu diệt được khủng bố và du kích CS ở miền Nam Việt Nam mà cái đầu vốn ở miền Bắc Việt Nam? Loại khủng bố và du kích nầy còn được sự tiếp tay của toàn khối CS trên thế giới.

Vì chủ trương chiến tranh giới hạn, Hoa Kỳ không thành công về quân sự tại Việt Nam, lại bị phong trào phản chiến trong nước chống đối mạnh mẽ, nên Hoa Kỳ tìm cách ra khỏi chiến tranh Việt Nam và cứu tù binh Hoa Kỳ về nước. Đặc tính nổi bật của nền ngoại giao Hoa Kỳ là rất thực tế và linh hoạt, sẵn sàng thay đổi hay điều chỉnh chính sách để phù hợp với tình hình và quyền lợi của người Hoa Kỳ. Vì vậy, Hoa Kỳ chuyển qua thế cờ mới trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

4. THẾ CỜ MỚI TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Trong chiến tranh Triều Tiên từ năm 1951, hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc trực tiếp đánh nhau. Liên Xô đứng ngoài, bảo toàn lực lượng, quan sát hai địch thủ lâm chiến tiêu diệt nhau. Lần nầy, ở Việt Nam, Hoa Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn”, không tấn công Bắc Việt Nam bằng bộ binh, không tiến đến biên giới Việt-Trung, không thách thức và không trực tiếp đụng độ với Trung Quốc.

Về phía Trung Quốc, ngoài nguồn viện trợ cho Bắc Việt Nam, Trung Quốc chỉ gởi quân qua bảo vệ phía Bắc Việt Nam, chứ không tham gia chiến đấu ở miền Nam. Quân Trung Quốc không đụng độ trực tiếp với quân Hoa Kỳ tại Việt Nam. Vì vậy, về chính trị, lần nầy hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc chẳng trực tiếp thù oán nhau. Hai bên có thể nói chuyện với nhau khi có cơ hội thuận tiện, nhất là từ khi Stalin qua đời năm 1953, những tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên Xô càng ngày càng trở nên căng thẳng.

Về địa lý chính trị đối với Trung Quốc, Liên Xô có bom nguyên tử (năm 1949) như Hoa Kỳ, nhưng nguy hiểm hơn Hoa Kỳ vì Liên Xô ở sát biên giới Trung Quốc, và bao vây Trung Quốc dọc theo biên giới dài giữa hai bên. Quân đội Liên Xô có thể tràn qua biên giới Trung Quốc bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Thực tế Trung Quốc và Liên Xô đã đánh nhau trên vùng sông biên giới Ussouri năm 1969. Còn Hoa Kỳ ở xa, bên kia bờ biển Thái Bình, muốn đổ bộ vào Trung Quốc cũng khó khăn.

Về phía Hoa Kỳ, từ thập niên 60, những nhà nghiên cứu chiến lược Hoa Kỳ cho rằng: “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.” (Roger Warner, Shooting at the Moon, Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334.) Vì vậy, Hoa Kỳ bắt đầu chuyển hướng, mở những cuộc vận động ngoại giao thẳng với Trung Quốc.

Sau nhiều cuộc thăm dò và đàm phán bí mật, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều tỏ thiện chí nhằm xích lại gần nhau. Tháng 12-1969, Trung Quốc trả tự do cho hai người Mỹ bị bắt vì vi phạm hải phận Trung Quốc trên một du thuyền. Ngày 20-1-1970, Lei Yang [Lôi Dương], một nhà thương thuyết Trung Quốc báo cho Walter Stoessel, đại sứ Hoa Kỳ tại Varsaw (Ba Lan), biết rằng Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ gởi một nhà ngoại giao đến Bắc Kinh để bàn luận về những vấn đề liên hệ song phương. Ngày 10-7-1970, Trung Quốc thả giám mục Ky-Tô giáo La Mã, James Walsh, người Hoa Kỳ, thuộc dòng Marydnoll (Hoa Kỳ). Ông bị bắt năm 1958 và bị kêu án 20 năm cấm cố từ năm 1960. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 182.)

Trong cuộc phỏng vấn trên tạp chí Time ngày 5- 10-1970, tổng thống Nixon tuyên bố: “Nếu có điều gì tôi muốn thực hiện trước khi từ trần, thì đó là đi thăm Trung Quốc.” Mao Trạch Đông đáp ứng ngay. Qua cuộc phỏng vấn của Edgar Snow ngày 18-12-1970, Mao Trạch Đông hoan nghênh việc Nixon thăm Trung Quốc dù với tư cách là một tổng thống hay một du khách.

Ngày 14-4-1971, tại Đại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy.

Ngày 9-7-1971, trong một chuyến công du Pakistan, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngoài những vấn đề song phương và thế giới, Kissinger còn thảo luận với Chu Ân Lai về vấn đề Việt Nam và cho Chu Ân Lai biết: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông báo với Thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi. Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình người Việt.” (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư tổng thống Thiệu, California: Cơ sở Hứa Chấn Minh, 2010, tr. 617.) Trong cuộc họp hôm sau (10-7-1971), Kissinger nói thêm: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị. Không phải là để chúng tôi có thể trở vào lại [Việt Nam], nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ… Hôm qua, tôi đã thưa với Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 624.)

Lót đường cho cuộc bang giao với Trung Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan, không phủ quyết cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25-10-1971 theo đó CHNDTQ được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay Đài Loan. Sau đó, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm CHNDTH một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới”. Trong cuộc họp đầu tiên với Chu Ân Lai ngày hôm sau 22-2-1972, tổng thống Nixon đề cập ngay đến vấn đề Việt Nam: “Nếu tôi ngồi vào bàn với bất cứ nhà lãnh đạo nào của Bắc Việt Nam, và cùng nhau bàn bạc về việc đình chiến và nhận lại tù binh của chúng tôi, tất cả người Hoa Kỳ sẽ được rút ra khỏi Việt Nam trong sáu tháng kể từ ngày đó… Chúng tôi đã đề nghị rút hết người Hoa Kỳ, mà không để cái “đuôi” đàng sau – như cách nói của Thủ tướng – và ngưng bắn trên toàn Đông Dương, miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh. Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự quyết định.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 627.)

Thế là xong, số phận Việt Nam lại do Hoa Kỳ và Trung Quốc quyết định và trao đổi với nhau. Dĩ nhiên hai nước nầy quyết định theo quyền lợi của nước họ và bất cần quyền lợi của các đồng minh. Những diễn tiến sau đó thì mọi người đều biết. Hoa Kỳ ngưng cung cấp đạn dược, nhiên liệu cho quân đội VNCH. Thế là VNCH hết phương tiện chiến đấu, phải buông súng.

5. PHE NÀO THẮNG NHÂN DÂN ĐỀU THẤT BẠI

Trong cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam, nếu nhìn cục bộ và ngắn hạn vấn đề Việt Nam, thì rõ ràng Bắc Việt Nam tức VNDCCH hay CSVN thắng lớn; Nam Việt Nam tức VNCH thất bại hoàn toàn và Hoa Kỳ kể như thua vì không thành công trong việc giúp VNCH chống CSVN ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, nếu nhìn toàn diện cuộc chiến từ năm 1945 cho đến năm 1975 và đặt cuộc chiến Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới cho đến ngày nay, thì lẽ thắng thua có phần khác.

Trước hết, để đi đến chiến thắng, CSVN phải cầu viện Liên Xô và Trung Quốc về mọi mặt. Vay thì phải trả. Không có gì để trả, CSVN lấy tài sản, đất đai tổ tiên để trả nợ. Đây là tội phản quốc không thể tha thứ, nặng nề hơn và tệ hại hơn bất cứ tội phản quốc nào đã qua trong lịch sử Việt Nam. Chiến thắng rồi rước tên ăn cướp vào phá nhà, để nó cướp mất đất của tổ tiên thì có phải là chiến thắng không?

Trung Quốc vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu sau khi nội chiến Quốc Cộng chấm dứt năm 1949. Do chiến tranh Việt Nam, khi ngồi vào bàn Hội nghị Genève năm 1954, Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành ngang hàng với các cường quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô. Vào đầu hội nghị Genève 1954, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles không thèm bắt tay xã giao với Châu Ân Lai, thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trung Quốc. (Henry Kissinger, White House Years, Toronto: Little, Brown and Company, 1979, p. 1054.) Thế mà gần 20 năm sau, do chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Quốc và mở cửa cho Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc giữ ghế đại diện tại LHQ, thay thế Đài Loan năm 1971. Trong cuộc gặp gỡ năm 1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã tặng cho Trung Quốc một món quà lớn: Hai bên ký bản thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972, theo đó, Hoa Kỳ xác nhận trong điều thứ 12 của thông cáo chung, rằng chỉ có một nước Trung Quốc, và Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.

Chẳng những hưởng lợi về ngoại giao và lãnh thổ, Trung Quốc còn nghiễm nhiên trở thành chủ nợ của CSVN và xem CSVN như là chư hầu, buộc CSVN chạy theo chính sách của Trung Quốc, ép Việt Nam phải ký hiệp ước nhượng ải Nam Quan (1999) và nhượng 10,000 Km2 mặt biển vịnh Bắc Việt (2000).

Cộng sản VN khoe rằng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Hoa Kỳ không chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, được kể là thua trận. Hoa Kỳ mất 58,000 quân ở Việt Nam, nhưng khi quay lưng rời khỏi Việt Nam, Hoa Kỳ chẳng mất một tấc đất nào của Hoa Kỳ, mà cũng chẳng một tấc đất nào của Hoa Kỳ bị bom đạn quấy rầy. Chính sách của Hoa Kỳ từ trước đến nay là phòng thủ từ xa.

Mục đích ban đầu của Hoa Kỳ là đến Việt Nam để ngăn chận làn sóng CS, nhất là Trung Quốc, phòng thủ từ xa chống lại sự thâm nhập của CS vào Hoa kỳ. Do chiến tranh Việt Nam, các nước Đông Nam Á có thời giờ xây dựng và củng cố vòng đai phòng tuyến chống cộng, từ Thái Lan, Mã Lai đến Phi Luật Tân, Indonesia. Cũng từ chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Quốc, tách Trung Quốc ra khỏi liên minh với Liên Xô. Như thế Hoa Kỳ cũng đã đạt được mục tiêu ban đầu đã đề ra. Sau năm 1975, CSVN trải thảm đỏ rước Hoa Kỳ trở lại Việt Nam. Rõ ràng Hoa Kỳ không “cút”, mà còn mạnh hơn trước.

Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn thất bại, bị CS gọi là “ngụy”. Quân đội VNCH đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ nền dân chủ tự do son trẻ của miền Nam Việt Nam. Sau thời kỳ quân chủ và thực dân đô hộ Việt Nam, sự hiện diện chuyển tiếp trong 21 năm của QGVN rồi VNCH ở miền Nam Việt Nam, tuy ngắn ngủi nhưng là bước mở đầu cho con đường dân chủ hóa Việt Nam. Chính thể VNCH đã gieo mầm tự do, dân chủ, dân quyền, nhân quyền, cho người Việt Nam. Ngược lại, trong chừng đó năm ở Bắc Việt Nam và cả cho đến bây giờ, người dân dưới chế độ CS chưa bao giờ được nghe nhắc đến “Bản tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền” ngày 10-12-1948 của LHQ, chứ đừng nói gì chuyện thực thi dân quyền và nhân quyền. Sau năm 1975, người miền Bắc dưới chế độ CSVN bỏ nón cối, bỏ dép râu, bỏ đại cán và ăn bận theo người miền Nam. Dân chúng Việt Nam hiện nay đang ước mong bài học dân chủ VNCH trở lại. Còn nhà nước CSVN thì kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” quay về giúp nước. Như thế sao có thể gọi VNCH là “ngụy”? Có thể nói VNCH không “ngụy”, không “nhào”, mà vẫn hiện diện ở Việt Nam.

Người xưa viết: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (Một viên tướng thành công có hàng vạn người chết.) Ngày nay, nhà thơ Nguyễn Duy diễn đạt một cách khác nhưng không kém phần bi đát: “Xin tạc vào đá nầy lời chúc hòa bình/ Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / Phe nào thắng nhân dân đều thất bại…” (Nguyễn Duy, “Đá ơi”, Cambodia 28-8-1989.) Vâng, do CSVN gây chiến, hơn ba triệu người Việt Nam đã nằm xuống và dân tộc Việt Nam đau đớn mất đi một phần đất đai của tổ tiên vào tay Trung Quốc.

KẾT LUẬN

Từ sau thế chiến thứ hai, khi đảng CS cướp được chính quyền ở Việt Nam, Việt Nam nằm giữa hai thế lực tư bản và CS, và bị các cường quốc áp đặt những quyết định theo quyền lợi của họ.

Khi can thiệp vào Việt Nam nhằm phòng thủ và ngăn chận CS từ xa, Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không tấn công Bắc Việt để chận đứng nguồn tiếp liệu của khủng bố và du kích phát xuất từ Bắc Việt Nam. Vì vậy, CS ở miền Nam Việt Nam được Bắc Việt Nam với sự tiếp tay của CSQT, nuôi dưỡng, tiếp liệu, đã hoạt động liên tục, không nghỉ ngơi, thắng thua gì cũng cứ tiếp tục chiến đấu theo lệnh của đảng Lao Động, hết keo nầy bày keo khác trên toàn quốc. Hoa Kỳ chẳng những không thành công trong việc giúp VNCH chiến thắng CS ở miền Nam Việt Nam, mà càng ngày Hoa Kỳ càng sa lầy trong chiến tranh Việt Nam. Hoa Kỳ liền thay đổi sách lược, bắt tay với Trung Quốc, rút quân khỏi Việt Nam, bỏ rơi VNCH, theo một đường lối khác trong khi tiếp tục chống khối CS trong chiến tranh lạnh.

Sự chuyển hướng của Hoa Kỳ cho thấy rõ, trong chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản, chiến tranh Việt Nam không phải chỉ được quyết định trên chiến trường Việt Nam hay quyết định tại Sài Gòn và Hà Nội, mà chiến tranh Việt Nam còn là kết quả của những trao đổi giữa Washington DC, Moscow, Bắc Kinh, và cả Paris, London … Cần chú ý rằng không riêng gì Việt Nam, mà trên thế giới, ở Trung Đông, ở Trung và Đông Âu, ở Đông Nam Á, ở Phi Châu, ở Nam Mỹ, từ giữa thế kỷ 19, các cường quốc đều lạm quyền đối với các nước nhược tiểu, xem các nước nhược tiểu như những món hàng tồn kho, chia chác với nhau trên lưng các nước nhược tiểu.

Đặt chiến tranh Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới, trong chiến tranh lạnh toàn cầu, rõ ràng kết quả cuối cùng chỉ có lợi cho ngoại bang. Hai bên thắng thua đều bị chi phối bởi các thế lực quốc tế. Bên thắng trận chẳng có gì để hãnh diện trong vai trò con cờ của CSQT. Bên thất trận được đánh giá là chế độ tốt hơn bên thắng trận (John McCain tuyên bố tại Sài Gòn năm 2000), vì nền cai trị dựa trên nguyên tắc tự do dân chủ, là lý tưởng bất biến của dân tộc, của nhân loại. Do hoàn cảnh quốc tế, lý tưởng tự do dân chủ ở Việt Nam phải tạm thời lép vế trước bạo lực, nhưng chắn chắn tương lai đất nước sẽ tiến về phía lý tưởng tự do dân chủ, như hoa hướng dương luôn luôn quay về ánh mặt trời.

Trần Gia Phụng