Saturday, December 5, 2009

Chuyện tiếu lâm XHCN - Nguyễn Thanh Ty

Nguyễn Thanh Ty

Nước An Nam ta từ xưa đến giờ chưa có khi nào chuyện tiếu lâm trong dân gian lại được mùa nở rộ, nở toè loe toét loét, nở đại trà như nấm dại sau những cơn mưa dông tháng năm, tháng sáu Âm lịch, ở vào thời kỳ sau năm 1975, lúc đám cán ngố, cả đực lẫn cái, từ rừng sâu, núi cao kéo về thành, ăn mặc lôi thôi nhếch nhác, quần nhăn nhúm, ống xắn lên quá gối, cổ vắt khăn lau mặt cáu bẩn, áo màu cứt ngựa rộng thùng thình bỏ ra ngoài, ngồi chồm hổm co chân trên ghế, đầy hè phố, miệng nhồm nhoàm vừa hả hê gặm xoài chín, vừa “nổ” chuyện trời ơi đất hỡi, khoác lác về những “ưu việt tưởng tượng” của miền Bắc, cái gọi là thiên đường Xã hội Chủ nghĩa.

Nếu có ai chịu khó góp nhặt, gom hết lại những chuyện cười “tức như bò đá” do các cán ngố này gây ra hàng ngày để in thành sách, chắc phải dùng tới hàng trăm xe trâu hay xe bò mới chở hết.

Và nếu so với chuyện tiếu lâm cũ xì, cũ xịt như truyện Ba Giai Tú Xuất, Trạng Quỳnh, Lý Toét Xã Xệ hoặc gần gần đây chừng nửa thế kỷ trở lại, chuyện do ông Đặng Trần Huân sưu tầm v.v… thì “chất lượng” chuyện của đám cán ngố này vừa ngớ ngẫn vừa ngốc nghếch, buồn cười hơn bội phần.

Bây giờ đang là giai đoạn “đổi mới” (nghĩa là đang trở lại y như cũ, thời “phồn vinh giả tạo” của Việt Nam Cộng Hòa – Mỹ Thiệu) nên những chuyện “cái nồi ngồi trên cái cốc”, “kem ba màu ăn không hết phải phơi khô để dành”, “ti vi ngoài Bắc chạy đầy đường”, “ngoài Bắc trái cà chớn to như cái thau”, “máy chém của Mỹ Diệm ở miền Nam nhà nào cũng có” … hồi mới “phỏng giái” đã “quá đát” không còn gây cười được nữa.

Mười năm sau cái ngày toàn dân cả nước bị “phỏng giái” tức năm 1986, đảng và Nhà nước ta đành phải vẫy tay giã từ “cơ chế kinh tế bao cấp” để “hồ hỡi phấn khởi” chạy theo vết xe “bóc lột” của bọn đế quốc tư bản làm “kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cán bộ ta, từ ông chủ tịch nước đến ông chủ tịch ấp, thảy thảy đều quăng bỏ dép râu, nón cối, xắc cốt, áo bốn túi kiểu Mao, xe đạp Phượng Hoàng, xe hơi “Môtôlốpcốp” vào thùng rác và thay vào đó áo sơ mi cổ cứng ủi ngay nếp, còm lê vét tông, thắt mực khô tòng teng trước cổ, (để dành lau nước mũi) giày da Tây bóng lộn, cặp “xăm xô nai” le lói, xe hơi Mẹc xê đì” của Mỹ “hoành tráng”. Nhưng dù có thay đổi gì đi nữa cán bộ ta vẫn không cách nào giấu được cái đuôi, (thằng người có đuôi) y như con khỉ Tề Thiên Đại Thánh dù có 72 phép thần thông biến hoá ra đủ thứ hình dạng vẫn không dấu được cái đuôi khỉ phía sau đít với pháp nhãn của Phật Bà Quan Âm.

Thời đại mới, cái ngớ ngẫn, ngờ nghệch lúc ở trên núi xuống như nuôi cá trong bồn cầu, xây chuồng heo trên lầu thượng… không còn nữa nhưng chuyện tiếu lâm của Xã hội Chủ nghĩa “đổi đời” cũng “ấp đét” theo, có “chất lượng cao”, có “quan hệ hữu cơ” ở mức độ mạnh do sự lòi ra cái đuôi ngu dốt nhưng cứ vênh mặt ta đây là “đỉnh cao trí tuệ” càng gây cho dân cười thỏa thích cũng nhiều mà bực mình chửi cũng lắm.

Những Tiến sĩ, Phó Giáo sư lý luận gia của Viện Mác Lê và Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Hà Nội giải thích rằng đó là hiện tượng tất yếu của thời kỳ quá độ của Xã hội Chủ Nghĩa, để đi lên Chủ nghĩa tư bản. Cho nên từ trình độ nhận thức ấu trĩ của xã hội cộng sản miền Bắc ở thời đại bán khai còn săn bắn hái lượm chuyển sang xã hội tư bản, một xã hội công nghiệp hóa hiện đại, văn minh của miền Nam thì những “sự cố” xãy ra “hàng ngày ở huyện” được liệt vào kho tàng “tiếu lâm thời đại” ắt-có-và-đủ-điều-kiện-để-phải-xãy-ra là chuyện đương nhiên. Một hiện tượng rất khoa học và rất “logic”.

Và nó cũng đeo theo nòng súng A.K, dao găm, mã tấu xồng xộc dẫm những bước chân dép râu thô bạo đi vào lịch sử văn học nước nhà bằng cái tên nghe rất rổn rảng gọi là “nền văn hóa mới Xã hội Chủ nghĩa”.

Còn chất tiếu lâm cười đến mức độ nào như trắng, xám, đen để cười mĩm, cười mĩa, cười chua, cười mũi, cười hì, cười hà thì còn phải xem xem chuyện do cán bộ cấp nào như huyện, tỉnh hay trung ương gây ra, tạo nên. Dĩ nhiên cấp cán bộ càng cao thì chuyện tiếu lâm do họ sáng tác và trình diễn phải có chất hài hơn, giễu hay hơn và cười nôn ruột hơn.

Bởi các quan trong Bộ Chính trị của đảng CSVN chịu qui luật “cha truyền con nối” bất khả đổi là “ấu bất học bất tri lý – nhỏ không học lớn làm chính ủy”, chức vụ tỷ lệ nghịch với sự hiểu biết. Ghế càng cao chất xám trong não càng ít. Đít ngồi lâu phình to ra phía dưới thì óc ở phía trên càng bé lại.

Vì thế các lãnh đạo chóp bu của Bắc Bộ phủ chuyên đi tấu hài ở khắp nơi trên thế giới để kiếm “đô” thì nhất định là phải “thọc cù léc” cho khán giả cười bằng thích, cười bể bụng luôn.

Sau đây là một số “sự kiện” còn nóng hôi hổi đã được (bị) các lãnh đạo ta biến thành “sự cố” tiếu lâm, người viết xin ghi lại vài chuyện điển hình để hải nội chư quân đọc chơi giải trí nhưng cấm có cười, vì những chuyện này đều thuộc loại “bí mật quốc gia”, khi cười hở mười cái răng tức là lộ bí mật rất nguy hại đến “an ninh quốc phòng”.

Nhưng cũng có chuyện muốn cười một chút để an ủi cũng cười hổng nổi.

Chuyện tiếu lâm Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nói riêng và khối cộng sản nói chung, thời lên voi nhuộm đỏ nửa địa cầu, cũng như thời xuống chó chỉ còn có 4 ngoe Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam đang ngáp ngáp chờ chết, nhiều muôn trùng, bằng con số bậc cấp của con đường vô tận đi lên thiên đường cộng sản.

Nhân đây cũng xin lướt qua một chút chuyện tiếu lâm “Con đường lên thiên đàng cộng sản” trước khi vào “dòng chính” của các lãnh đạo ta.

Năm 1968, Tết Mậu Thân, sau khi Boác Hù thất bại trong tham vọng đánh chiếm miền Nam, uất ức quá nên không chịu sống nữa bèn “chuyển sang từ trần”. Hồn vừa lìa khỏi xác, Boác hối hả chạy đi kiếm các bác Lê, Các, Xít, Mao để bái kiến tương ngộ. Trước đó, Boác nghe nói bọn họ đã tìm ra “thiên đàng cộng sản” và đang hưởng phước ở trển.

Bốn mươi năm sau, thời điểm 2009, Boác Hù đang thở phì phò, hì hà hì hục bò lên các bậc cấp dẫn lên thiên đàng, đầu óc còn đang hoang mang và thắc mắc không hiểu ai đã dùng phấn vạch lên các bậc cấp, mỗi bậc một vạch để làm chi thì thấy Bác Mao hấp tấp đi xuống.

Boác Hù mừng quá, vội đứng thẳng người lên, tay trái xuội xuống đùi, tay phải nắm lại, giơ cao ngang trán chào kính và hỏi:

- Chào đồng chí Mao Xếnh Xáng vĩ đại! Đồng chí đã lên tới thiên đàng cộng sản chưa??
- Chưa! Đường còn xa lắm! Ngộ đang dùng phấn đánh dấu bậc cấp để đếm xem phải đi bao nhiêu bậc mới tới thiên đàng.
- Thế đồng chí đi ngược xuống làm chi?
- Ngộ vừa đi vừa đánh dấu đã hơn 60 năm rồi, đã dùng hết mấy ngàn thùng phấn mà vẫn chưa thấy cổng thiên đàng, lại hết phấn. Ngộ phải xuống để lấy thêm phấn đây!
Boác Hù nghe xong, quá thất vọng, thở hắc ra cái phì, té phịch xuống đất, chết thẳng cẳng thêm lần nữa.

Chuyện Ông Chủ tịch Huyện Hoàng Sa

Tháng 12 năm 2007, bọn bành trướng Bắc Kinh ngang nhiên sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào đảo Tam Sa của chúng, biến thành huyện Tam Sa, lập cơ quan hành chính, đem quân lính và dân thường lên đóng chốt, lập đồn, xây dựng nhà cửa tạo cuộc sống lâu dài, xem hai đảo đó đương nhiên là của chúng từ khuya.

Để phản đối bọn Tàu bá quyền cướp nước, thanh niên, sinh viên học sinh, nhà văn Việt Nam, mấy trăm người xuống đường, kéo nhau đến trước Tòa Đại sứ và Tổng lãnh sự quán của Bắc kinh tại Hà Nội và Sài Gòn để biểu tình đòi lại hải đảo. Đoàn biểu tình hai nơi đều “được” công an Nhà nước ta đánh cho te tua, tơi tả, nhiều người còn bị bỏ tù vì cái tội như Nhà nước cho biết: Nào là: Biểu tình mà không làm đơn xin phép trước – Cầm đèn chạy trước ô tô, vượt mặt đảng và Nhà nước, gây khó khăn trong vấn đề ngoại giao “nhạy cảm”, làm xấu đi tình hữu nghị 16 chữ vàng giữa hai nước Việt Trung v.v… Chuyện tưởng chừng chìm trong sự nhục nhã.

Bẵng đi hơn nửa năm, đầu tháng 5/2008, thành phố Đà Nẵng bỗng tổ chức linh đình lễ trao quyết định bổ nhiệm lần đầu tiên chức danh chủ tịch ủy ban nhân dân quận, huyện trực thuộc thành phố. Người dân Đà Nẵng bật ngữa ra rất bất ngờ khi thấy ngoài số 6 ông quận, ông huyện thuộc thành phố Đà Nẵng còn có thêm một ông huyện mới là ông huyện Hoàng Sa, cai quản cái đảo Hoàng Sa mà chỉ có toàn dân Tàu cư ngụ.

Người dân Đà Nẵng ôm bụng cười ngất khi đọc cái quyết định có đoạn nói rằng nhiệm vụ chính yếu của ông Huyện Hoàng Sa trong giai đoạn hiện nay là “thu thập chứng cứ, tài liệu lịch sử về chủ quyền của ta về Hoàng Sa”.

Một cư dân thành phố Đà Nẵng, ông Nguyễn Vọng, kể chuyện tiếu lâm này như sau:

“Cái ông Huyện này mới nhậm chức được có mấy bữa, chưa có tai tiếng gì so với mấy ông bạn đồng liêu kia, nhưng so với mấy ông huyện kia thì ông huyện này có vài đặc điểm có thể gọi là đặc thù mà những ông huyện kia không có được. Ông cũng có trụ sở, thậm chí còn có cả ô tô con, nhưng cái phần lãnh thổ mà ông được phân công cai quản thì chắc chắn ông chưa từng được trông thấy một lần trong đời, thậm chí cả chuyện trông thấy trên truyền hình. Có người bảo ông xui hay bị đì nên mới được (bị) trên cho đi làm cái chức trời ơi đất hỡi như vậy, không có lấy một tên dân đen nào để cai quản thì biết lấy ai ra mà hoạnh hoẹ mà hạch xách đây hở trời! Lại còn chưa biết cái huyện của mình nó rộng, dài, tròn, méo ra sao thì làm sao mà “dự án” với “quy hoạch”, thôi phen này thua là cái chắc. Có người lại bảo là ông sướng, chẳng làm gì cả mà tháng nào cũng lãnh lương đủ, nhưng nói như mấy người trên kia là chưa hiểu đầy đủ về ông rồi, không có tiền trước mắt thật đấy nhưng rồi các anh ở trên cũng sẽ chiếu cố vào nhiệm kỳ sau thôi, chỉ sợ không có sức mà ăn. Điều làm ông huyện Hoàng Sa bận tâm là chuyện này cơ. Số là trong cái quyết định có đoạn nói rằng cái nhiệm vụ chính yếu của ông huyện Hoàng Sa trong giai đoạn hiện nay là “thu thập chứng cứ, tài liệu lịch sử về chủ quyền của ta về Hoàng Sa”. Cái này mới gay đây vì người ta quá biết những cái liên quan đến tài liệu, lịch sử, chữ nghĩa đều không phải là sở trường của các anh Huyện thời nay” (Ngưng trích)

Ông Nguyễn Vọng Đà Nẵng kể chuyện tiếu lâm mà cứ như Thánh nói, không sai trật đi đâu được. Kể từ lúc ông huyên này ngồi lên ghế chủ tịch huyện Hoàng Sa thì ngư dân của tỉnh Quảng Đà ra khơi hành nghề bị bọn tàu ô Trung Quốc đánh, giết, cướp tàu, đâm tàu bể nát, bắt giam người đòi tiền chuộc con số lên đến cả trăm vụ, nhân mạng thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Thế mà không thấy mặt mũi ông huyện đâu, kể cả tiếng nói của ông cũng chẳng nghe được lời nào. Không biết ông lặn đi đâu mất tiêu.

Không những ông Huyện Hoàng Sa trốn mà luôn ông Chủ tịch thành phố Đà Nẵng, ông Tổng bí thư Mạnh, ông Chủ tịch nước Triết, ông thủ tướng Dũng cũng trốn biệt dạng. Không thấy một ai trong cái đảng cộng sản Việt Nam, cái Nhà nước đương quyền nói lên một lời bênh vực chứ đừng nói là có “động thái” bảo vệ cho dân.

Chỉ tội cho ngư dân nghèo khổ Lý Sơn thân cô, thế yếu đành giơ đầu chịu báng, giơ lưng chịu đòn hành hạ tàn nhẫn, hiếp đáp dã man của bọn Tàu ô cướp biển một cách đau đớn nhục nhã mà thôi.

Nhưng mới đây, người dân trong nước giật mình ngơ ngác không hiểu đảng ta và Nhà nước ta đang bí mật thi hành một âm mưu gì mà không chịu đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhân cơ hội Việt Nam được giữ chức Chủ tịch luân phiên mà lại có ý định đưa vũ khí cho ngư dân để họ tự vệ và đánh nhau với lực lượng hùng hậu của hải quân Tàu.

Ngư dân Quảng Đà mới nghe nói vội vừa xua tay, lắc đầu ngoày ngoạy, vừa mếu máo:

- Đảng và Nhà nước các ông có quân đội, công an rần rần, rộ rộ súng ống, dùi cui trong tay mà không dám ra mặt đánh nhau với bọn Tàu thì thôi, chớ sao lại đẩy chúng tôi vào chổ chết như thế. Chúng tôi tay không thì còn có cơ may chúng nó tha chết cho, chứ có cái súng trong ghe lại là cái cớ chúng giết cho lẹ. Các ông khéo nói giễu thì thôi.

Chuyện ông Đào Duy Quát

Quát vô tài bất tướng, ngày ngày theo bọn du thủ, du thực ăn chơi đàng điếm nhưng lại có bố là Đào Duy Tùng, Ủy viên Trung ương đảng đỡ đầu nên lọt vào cơ quan đầu nậu của đảng và cứ thế tà tà leo cao, chui sâu tót lên đến chức vụ Viện phó Viện nghiên cứu Mác Lê và Tư tưởng Hồ chí Minh. Vì thành tích đồi trụy, sa đọa trong lối ăn chơi nên bị mất chức. Tưởng đâu là phải về vườn “học cày, chăn trâu” trở lại như thuở khố rách áo ôm, ngờ đâu bố Tùng lại đỡ thằng con quí tử lên chức khác ngon ăn hơn: Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương kiêm luôn chức Tổng biên tập báo điện tử của đảng. Quát ngồi ở vị trí này suốt 12 năm mà không biết một chút gì về cái gọi là Văn hóa hay Tư tưởng sất. Ngay cả việc điều hành tờ báo điện tử cũng ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, chẳng hề biết trên báo đăng cái gì, suốt ngày chỉ la cà ở mấy chổ ăn chơi trụy lạc, dâm ô. Ông Vũ minh Ngọc, một cán bộ, đảng viên lão thành ở Hà Nội nhận xét: “Nếu để cho tên Quát này ngồi ở ghế Tư tưởng Văn hóa thì chẳng mấy chốc cái đất nước này trở thành nhà thổ”.

Mới đây, trên báo điện tử do Quát làm Tổng biên tập cho đăng một bài báo tường thuật hải quân Trung Quốc tập trận trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được dịch nguyên con từ báo Tàu, xem như gián tiếp khẳng định hai đảo này là thuộc quyền của Tàu. Quát bị dư luận trong nước lên tiếng chống đối dữ dội, kết án là phản bội, phản quốc, tay sai của Tàu. Nhưng với cái thói ngu dốt của cường quyền, Quát vẫn cứ phớt lờ dư luận và trả lời xấc xược với báo chí rằng: “Chỉ là lỗi kỹ thuật thôi! Chả có gì! Nhá!”.

Cuối cùng, bị búa rìu dư luận càng lúc càng dữ dội, đảng ta đành phải đem Quát ra, giơ cao đánh khẻ, phạt vạ 30 triệu đồng tiền Hồ để gọi là xử lý việc làm sai trái. Đối với bản án đầu voi đuội chuột này, Quát nhe răng ra cười hì hì vì vẫn được tiếp tục giữ y chức cũ. Vã lại, tiền phạt do đảng trả tức là tiền đóng thuế của dân chứ chẳng phải tiền ông, tiền cha gì của Quát đưa ra mà xót. Và số tiền phạt 30 triệu chưa bằng Quát đi chơi gái một bữa, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ.

Mấy hôm sau, Quát lại áo mão cân đai, thay mặt đảng và Nhà nước long trọng trong vai tuồng Trưởng ban Tổ chức lên sân khấu phát giải thưởng cho cuộc thi viết về Biển-Đảo.

Câu chuyện tiếu lâm trên làm cho người dân cười gần chết. Nhưng họ cười vì cái chế độ Xã hội Chủ nghĩa phường tuồng, giễu hề trên sân khấu đời nhiều hơn chứ chẳng phải vì cái án phạt ấm ớ hội tề có tính cách Ngao, Sò, Ốc, Hến giá trị chưa bằng tờ giấy dùng ở nhà xí.

Chuyện ông Tổng trấn Hà thành Phạm Quang Nghị

Từ khi leo lên được chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư thành ủy Hà Nội, Phạm Quang Nghị luôn mồm lầm bầm, lẩm bẩm chửi rũa tên Minh râu tàn mạt. Hắn ta chửi Minh râu là vì lão già này rất khéo đóng kịch. Lão đã làm một cuộc cào bằng long trời lỡ đất khiến hàng trăm ngàn con người bị chết oan, chết tức tửi, đau đớn. Lão đưa đất nước đi đến chỗ tan hoang, nghèo đói, thụt lùi trở về thời lạc hậu gần như ăn lông ở lỗ. Vậy mà cho đến nay, lão vẫn cứ được xưng tụng như bậc thần thánh, được đặt tượng ở chùa chiền, ở khắp các trụ sở ủy ban để khói hương nghi ngút, hoa quả nhang đèn cúng lạy ngày đêm.

Nhưng cái mà quan Tổng trấn Phạm Quang Nghị ấm ức nhất là phải luôn xưng “đày tớ” mỗi khi làm việc với dân. Giả dối đến thế là cùng! Quan phải là phụ mẫu của dân chứ! Đúng đứt đuôi con nòng nọc đi rồi! Sao lại phải cứ luôn mồm hô khẩu hiệu “cán bộ là đày tớ của dân”? Thế là nghĩa lý chó gì? Phải làm một cú cải cách chính danh mới được. Ông Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư thành ủy Hà Nội hạ quyết tâm!

Dịp may, thời cơ đã đến!

Cuối tháng 10 đầu tháng 11, cả Hà Nội chìm sâu trong biển nước với cây mưa lịch sử kéo dài dầm dề ba ngày đêm. Sinh hoạt thành phố hoàn toàn tê liệt. Hàng trăm xe máy, xe hơi, xe tải, xe buýt chết máy nằm ngổn ngang. Không ai mò ra đâu là lòng lề đường. Người dân không điện, không dầu, không thuốc men, không nước sạch để uống, không cơm gạo dự phòng để ăn nhưng cùng nhau cố kết bè để di chuyển, chạy lũ tìm chổ cao an toàn cho người già, trẻ em.

Trong lúc đó chính quyền Hà Nội khoanh tay im ắng. Các ban ngành, các lực lượng cảnh sát, an ninh,… đều mất tăm, biệt dạng. Không một bản hướng dẫn tránh lũ. Không một lệnh điều động lực lượng cứu hộ. Không một lời kêu gọi. Không một tiếng hỗ trợ. Tuyệt nhiên không.

Vậy lãnh đạo đi đâu hết cả rồi? Hóa ra, ngay thời điểm người dân khốn đốn, vật vã giữa biển nước để kiếm thân nhân hay thoát thân thì lãnh đạo thành phố đang bận họp tổng kết chiến dịch “bình định giáo dân” và gấp rút xây công viên ở Thái Hà và Toà Khâm sứ.

Nước vừa rút xuống mức an toàn, Phạm Quang Nghị ngồi ô tô vi hành đường phố thấy dân chúng nhếch nhác, cảnh quang hoang tàn, bừa bộn cây ngã, cột xiêu bèn than phiền với ViệtNamNet rằng: “Nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại Nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chứ không đem hết sức ra tự làm”. Nhưng quan Tổng trấn Hà thành cũng “hồ hỡi phấn khởi” rút ra được kinh nghiệm quí báu, ngài tuyên bố lần nữa trong bữa họp tổng kết: “Trận mưa lụt là cuộc tổng diễn tập lớn cho tương lai.”

Trước những lời lẽ vô trách nhiệm và tàn nhẫn như trên chỉ có thể xuất phát từ cửa miệng của một kẻ không có trái tim (trái tim bị chó ăn) nhưng nó lại do một quan lớn trong cái đảng luôn vỗ ngực xưng danh “vì dân, cho dân, phục vụ dân” mửa ra, nhân dân cả nước đã phản ứng mãnh liệt bằng những lời nguyền rũa thậm tệ và bắt phải xin lỗi ngay.

Ngày 5/11/2008, Phạm Quang Nghị đành phải nói trên ViệtNamNet điện tử: “Tôi thực sự lấy làm tiếc và muốn chân thành xin lỗi bạn đọc, xin lỗi mọi người về những lời gây nên bức xúc và bị phê phán.”

Buộc lòng phải nói như vậy, nhưng trong thâm tâm Phạm Quang Nghị đã rất hả hê vì trút được lên đầu dân chúng Hà Nội cái ấm ức bấy lâu nay nặng như đá tảng trong bụng, cứ phải đóng kịch, sống giả dối theo gương lão Minh râu.

Phạm Quang Nghị tuy bị dân phê phán nặng nề (Chó đâu từng đẻ ra quan! Dân đó chứ! Thế mà sao giờ này vẫn còn cái văn hóa đấu tố của hạng đầy tớ chỉ mặt chủ nhân mà te tái mắng mỏ thế này thế khác? Hay vẫn còn đó cái văn hóa nô lệ trên dưới, xin/cho?… Đinh tấn Lực) nhưng vẫn sướng khoái tỉ, hài lòng và chửi thầm trong bụng: “Bọn dân đen chúng mày vẫn còn mê muội lắm. Tao nói thật lòng mà chúng mày không chấp nhận sự thật, lại đi ca ngợi, tôn thờ những điều giả trá của lão Minh râu suốt đời chuyên đóng kịch, đạo đức giả, luôn dùng nước mắt cá sấu và khẩu hiệu để lường gạt chúng mày. Vậy thì chúng mày cứ ráng mà sống trong “thiên đường mù” này vài ba mươi năm nữa nhá!”

Nhưng không phải người dân nào cũng đều mê muội như quan Tổng trấn Hà thành nghĩ theo cái não trạng tiến sĩ giấy bé hạt tiêu của mình. Ít ra, cũng có một cư dân Hà Nội, ông Hoàng Cúc, nhìn thấy rõ ruột gan của quan, đã hạ bút: “Hình như trong một lúc tỉnh táo hiếm hoi, ông Phạm Quang Nghị đã chợt nhớ tới vở tuồng cũ của vị cha già, nên diễn lại tí chút. Riêng cái món nước mắt sướt mướt dành cho trên hai chục mạng chết đuối giữa thủ đô thì ông Nghị chưa diễn nổi. Hoặc giả số người thiệt mạng còn ít quá, chưa đủ mức để ông diễn lại nguyên vẹn vở tuồng của vị cha già. Dù sao, có lẽ ông sẽ còn phải học tập dài dài tư tưởng và đạo đức của lãnh tụ nọ, may ra mới có ngày chạm tay vào cái dép râu của người mà đám thanh niên gọi là Minh râu.”

Chuyện như thế, hải nội chư quân có cười nổi không?

Chuyện ông Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu suốt một đời vì đảng, vì nước noi gương đạo đức của bác Hồ giữ mình “công minh liêm chính”, tích cực chống tham nhũng. Mỗi dịp lễ lạc, kẻ cầu cạnh đem hối lộ cho ngài 5 – 10 ngàn đô xanh, ngài nhất định không nhận, sai người đem trả lại. Nài nĩ lắm, ngài mới lấy nhưng kèm theo lời trách mắng. Khi về nghĩ hưu, sống đời sống thanh đạm, rau muối qua ngày. Nhưng để có rau sạch để ăn, ngài tự tay trồng lấy. Vườn rau trên lầu trị giá 20 ngàn đô. Trang trí bàn thờ sống của ngài bằng cặp ngà voi giá trị sơ sơ 50 ngàn đô. Trống đồng, đồ bảo vật của quốc gia, không dám để ở Viện bảo tàng sợ trộm, ngài tình nguyện đem về nhà để ngày đêm canh giữ. Vân vân và vân vân. Nhưng tài sản đơn sơ của nhà ngài so với nhà của Lê Đức Anh, nghe nói còn thua xa tới mười lần.

Khi ngài thất chức, người dân Hà thành kháo nhau: ”ông Phiêu ra đi thì kể cũng đáng tiếc lắm ! Tiếc vì sẽ mất đi một nguồn giải trí to lớn. Bởi sân khấu chính trị ở đây thường là quá tẻ nhạt. Cần có tiếng cười cho đời lên hương chứ !…” vì lúc đương quyền ngài được người dân ưa thích bởi những lời tuyên bố rất hề, rất tếu. Chẳng hạn như cảnh ngài thăm đồng bào đang khốn khổ trong vùng lũ lụt, rồi hình như ông nhập bà nhập, bỗng phát đùa với các trẻ em bằng một câu cà chớn: “Thích hè !… Tha hồ bơi lội, các cháu có vui không ?” nghe lảng nhách! Hoặc Tết Trung Thu, ngài vừa ăn nhồm nhoàm một chiếc bánh lớn vừa nói: “Tôi phá cỗ cùng các cháu có mặt ở đây và với cả các cháu không có mặt ở đây nữa”. Nghe thật là vô duyên, ngớ ngẩn. Hề bóng Hoài Linh chắc phải lạy mà chào thua. Nhưng câu nói để đời của ngài được in thành sách, âm thanh, hình ảnh vẫn còn lưu lại trong đài phát thanh, đài truyền hình Hà Nội, để nhân viên ở đây mỗi lúc thấy buồn thì giở ra coi lại cho đời bớt … chó.

Số là trong bài phát biểu về công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, ngài Phiêu nói: “Trong thế kỷ 20, nét nổi bật là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật của thời đại đã sinh ra giai cấp vô sản…” Giời ạ! Giai cấp vô sản đã có từ đời ông Bành tổ chứ có phải do hay nhờ cái cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật của thời đại duy vật biện chứng khỉ tiến hóa lên làm người đâu.

Thế là 120.000 cuốn sách có in bài phát biểu ấy của ngài đã bị hủy bỏ để khỏi lộ cái dốt của ông Tổng Phiêu, “đỉnh cao trí tệ của đảng”. Đáng tiếc! Đáng tiếc!

Chuyện ông Tổng bí thư Phan văn Khải sang Mỹ, co ro cúm rúm trước Huê Kỳ Đại vương, nói không ra hơi, phải rút tờ giấy to bằng bàn tay trong túi áo ra, dán mắt vào đó, nhưng đọc được mỗi một câu đã được Bộ Chính trị viết sẵn: “Xin chúc sức khoẻ Ngài” rồi tịt. Sau đó ông Tổng bí Khải cùng tùy tùng kéo sang tiểu bang “Mả Cha Chú Chệt” (Massachusetts) để được chính tay mình sờ vào chiếc giầy của bức tượng ông John Harvard, người lập ra trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ, ngồi uy nghi trước khuôn viên trường. Hình ảnh này được giới truyền thông thế giới đặt chết cái tên “Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đang ôm chân đế quốc Mỹ” được chiếu đi, chiếu lại trên truyền hình để diễn thành những tiểu phẩm hài giúp vui khán giả. Vân vân và vân vân.
Thành tích diễu hề của các quan chóp bu trong đảng và Nhà nước ta như Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Bộ Trưởng Công an Lê Hồng Anh, ông Tô Huy Rứa Ủy viên BCT kiêm Bí thư TW đảng v.v… nếu theo thứ tự kê ra đây chắc phải tốn vài trăm trang giấy nữa.

Nhưng xét “quá trình” những “sự kiện” xảy ra bị sự ngu dốt, ngớ ngẩn biến thành “sự cố” lố bịch của đám lãnh đạo trong Bắc Bộ phủ thì mấy quan trên phải lấy nón cối bái mà chào thua Ngài Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết.

Vậy xin kể vài chuyện về ngài Minh Triết đi ra nước ngoài “tấu hài” để làm cái kết của bài viết này thử xem quí chư vị có cười nổi không.

Chỉ nội cái tên Minh Triết có nghĩa là thông minh, trí tuệ, người hiền… cũng đã rất mĩa mai, trái ngược với cái khuôn mặt rất “Hai Lúa” của ngài rồi. Mấy ngài “nông dân vô sản” khi đi làm “cách mạng” đều có cái tên nghe rất “ấn tượng và hoành tráng” không biết có đúng là do cha mẹ đặt cho lúc mới sinh ra hay là tự mình bắt chước “nổ” theo cách của “cha già dân tộc” tự đặt cho mình vô số tên rất kêu, nghe như tiếng chuông chùa Hàn San gióng lên lúc nửa đêm như: Chí Minh, Ái Quốc, Dân Tiên. Có lẽ muốn cho giống Tàu chệt chăng?

Những cái tên Đức Thắng, Đức Anh, Trường Chinh, Nguyên Giáp, Khả Phiêu, Đức Mạnh, Tấn Dũng xướng lên cũng nghe kêu boong boong như tiếng Đại hồng chung của Việt Nam Đại Quốc tự ở Bình Dương nhưng thực tế thì con người hoàn toàn ngược lại từ hành vi, ngôn ngữ đến đạo đức, phẩm hạnh, nhân cách ... Anh hoa không thấy phát tiết ra ngoài một chút nào đẹp đẻ coi cho được mắt mà làm toàn những chuyện quỷ khốc, thần kinh, trời không dung, đất không tha. Ở trong nước thì hung hăng con bọ xít, thẳng tay dùi cui, súng đạn đàn áp nhân dân. Ra ngoài thì khiếp nhược, hèn nhát với ngoại bang. Thậm chí còn mãi quốc cầu vinh, dâng cả giang sơn đất nước để xin được bảo kê chiếc ngai vàng.

Trở lại chuyện ngài “Hai Lúa Minh Triết”.

Ngày 27 tháng 8 năm 2007, Nguyễn Minh Triết đến công tác tại Tổng cục Chính trị quân đội. Triết nói: “Khẳng định trước sau như một là chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngã nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát, cho nên phải củng cố công tác chính trị tư tưởng, củng cố vai trò của đảng…”

Điều 4 Hiến pháp là lá bùa hộ mạng mà đảng cộng sản Việt Nam tự mình vẻ ra cho mình đeo. Dù bỏ hay không bỏ nó cũng giống như bản Hiến pháp của nước Cộng Hoà Xã nghĩa Việt Nam, có đủ cả 36 món ăn chơi, có cả “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” nhưng thực chất nó chỉ là mớ giấy lộn bôi lên đó màu sắc loè loẹt hoa hoè, hoa sói cho thế giới coi chơi chứ nó không có giá trị gì đối với đám dân đen 80 triệu người đang quằn quại dưới ách thống trị độc tài của đảng.

Bạo lực và khủng bố mới là thực chất cầm quyền của đảng. Nhà nước chỉ là công cụ.

Đảng trên tất cả. Mừng Đảng trước, mừng xuân sau. Trung với đảng trước, hiếu với dân sau. Vậy Triết nhai lại Điều 4 giống như bò nhai lại cỏ để làm gì để làm trò cười?

Bỏ Điều 4 là tự sát. Đó là chân lý, là sự thật trần trụi đang làm đảng ta lo sợ ngày đêm.

Dù có bỏ hay không bỏ Điều 4 sớm muộn gì cuộc đời đảng ta cũng sẽ cáo chung như Liên Xô tổ quốc thành đồng vĩ đại và khối Đông Âu mà thôi. Triết hớ hênh mồm miệng, nói lộ ra sự thật mà Bộ Chính trị đang tìm mọi cách để giấu kín và lo sốt vó không biết sẽ xãy ra lúc nào? Và nỗi sợ nhất là liệu lúc đó mình có còn cái chổ để đội nón cối nữa không?

Cái gương Ceaucescu, Honecker, Saddam Hussein còn đang sờ sờ trước mắt.

Ối thôi! Chỉ mới thoáng nghĩ đến mà đã tháo mồ hôi, lạnh cẳng rồi!

Sau ngày cái miệng Triết ăn mắm ăn muối nói ra điềm gỡ đó, dân đen khốn khổ lại được dịp xả xú báp uất ức, kháo chuyện với nhau, cười thỏa thích rằng Bộ Chính trị giận điên người, gọi Triết đến Bắc Bộ phủ “góp ý phê và tự phê” một trận cháy xém lông mày và đòi truất phế luôn cái chức Chủ tịch nước bù nhìn đó. Triết van nài, lạy như tế sao rằng là do “thần khẩu hại xác phàm”, chớ lòng thì luôn trung thành với đảng. (Nói láo chết liền!). Và xin thề với Bộ Chính trị là từ nay xin chừa. Giống như cảnh nàng Kiều mắc mưu Tú Bà và Sở Khanh bỏ trốn khỏi lầu xanh rồi bị bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn, buộc phải tiếp khách đã cất tiếng van xin: “Thân lươn bao quản lấm đầu – Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!”. Còn Hai Lúa Minh Triết thì ca cẩm bài ca con cá: “Thân lươn bao quản lấm đầu – Cái miệng bậy bạ về sau xin chừa!”

Một trường hợp khác, Triết vẫn chứng nào tật ấy, vẫn cứ nói nhăng nói cuội như cũ. Sách có câu “Giang sơn dễ đổi bản chất khó thay” thật đúng với con người miệt vườn Hai Lúa Minh Triết.
Năm 2007,Triết dẫn đám Cái bang gồm bầu đoàn thê tử với bộ hạ, thương gia trong nước đông đến vài trăm mạng sang đại quốc Huê Kỳ trình diễn màn hát xẩm để chiêu dụ đám tư bản Mỹ móc hầu bao, đổ đô la vào Việt Nam “hợp tác đầu tư”.

Chuyến đi thật bẽ bàng vì không được Tổng thống Mỹ tiếp đón theo nghi lễ quốc khách. Phần khác lại bị cả ngàn người Việt tị nạn “dàn chào” với rừng cờ vàng và nhiều biểu ngữ, bích chương tố cáo chế độ CS độc tài, bán nước. Nhiều pa nô “đẹp mặt chế độ” như hình ảnh LM Nguyễn văn Lý bị công an bịt miệng tại phiên tòa Huế, hình Hòa thượng Thích Quảng Độ, LS Lê thị Công Nhân, LS Nguyễn văn Đài bị giam cầm người biểu tình giơ cao dọc hai bên đường đoàn xe của Triết và đoàn tùy tùng. Cảnh sát Mỹ phải bảo vệ phái đoàn đi vào Tòa Bạch Ốc bằng cửa hậu mới tránh né được sự bao vây “dàn chào thăm hỏi nồng nhiệt” của “khúc ruột ngàn dặm”.

Ngày 23/6 Triết không dám về thủ đô tỵ nạn của người Việt Nam, mà phải chọn khách sạn St Regis Monarch Beach Resort ở Dana Point là một thành phố nhỏ với chừng 35 ngàn dân, cách xa Little Saigon độ nửa giờ lái xe về phía San Diego, chiêu đãi khoảng 800 doanh gia Mỹ chánh gốc và Mỹ gốc Việt để làm “mát cơ tin” chào mời họ về Việt Nam làm ăn.

Phía bên ngoài khách sạn có chừng 3000 người Việt tỵ nạn từ các thành phố lân cận đổ về với một trời cờ vàng ba sọc đỏ để tận tình “dàn chào” ông chủ tịch. Hệ thống truyền thông quốc tế và Việt Nam cũng có mặt rất đông để đưa tin.

Dịp này còn có thêm anh Phó râu kẽm, mắt ốc nhồi của nền đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa đi theo sau đít để quợi quợi phụ họa khi Triết biểu diễn màn mãi võ sơn đông, bán thuốc cao đơn hoàn tán xuyên tâm liên trị bá bệnh do Chủ nghĩa Xã hội bào chế.

Nghe hai anh hề “tấu hài” kẻ tung người hứng theo kiểu cương ẩu, không có bài bản biên soạn trước nên trật chìa bậy bạ làm mấy ngàn khán giả đứng dàn chào bên ngoài vừa cười ngặt nghẽo vừa xấu hổ đỏ mặt.

Cười là cười cái cách nói của ông chủ tịch nước giống y chang anh Hai Lúa miệt vườn, chiêu dụ tư bản Mỹ rằng Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa chúng tôi có nhiều gái đẹp lắm, quí ngài nên mau mau đổ tiền vô đầu tư để hưởng thụ kẻo trễ. Còn xấu hổ là bởi anh Phó râu kẽm nói vuốt đuôi, nâng bi anh Hai Lúa vừa trơ trẽn tệ hại vừa hèn mạt quá sức tưởng tượng.

Sau chuyến “hành hương khất thực” không mấy thành không, tưởng chừng trưởng lão Cái bang Minh Triết xách bị rách trở về, ai dè nhờ mấy lời quảng cáo bậy bạ “Việt Nam có gái đẹp” lại trúng tâm bệnh Tề Tuyên của mấy anh tư bản mũi lõ nên số vốn đầu tư của Huê Kỳ sau đó gia tẳng bất ngờ, từ vị trí thứ 8 đã nhảy vọt lên đứng hàng thứ 2 ở Việt Nam.

Nhờ vậy, cái ghế Chủ tịch nước của anh Minh Triết sắp lung lay mấy tháng trước đó lại được gia cố thêm mấy con bù loong thép “Made in USA” “đảm bảo” ngồi cho hết nhiệm kỳ.

Chuyện diễu hài ở Dana Point chưa kịp đi vào quên lãng thì chiều 25/09/2009, trong lúc chờ phát biểu trong khóa họp thường niên 64 Đại hội đồng Liên hiệp Quốc tại NewYork thì phóng viên AP, Mary Altaffer, không biết có ý chơi xỏ ngài Chủ tịch Triết hay không, đã dàn dựng ngài ngồi trên cái ghế đẩu trong tư thế ngay đơ cán cuốc, hai bàn tay đặt ngay ngắn trên đùi, mặt trông rất quỷnh, tại chân cầu thang hội trường, một vị trí rất xúc phạm đối với một vị nguyên thủ quốc gia, giống như một người đang ngồi chờ hớt tóc ở lề đường của mấy bác hớt tóc dạo, để chụp hình.

Bức ảnh của phóng viên AP Mary Altaffer đã gây sự chú ý rộng rãi và bình luận hài hước của giới truyền thông quốc tế. Riêng người Việt hải ngoại cảm thấy quá thương hại cho ông chủ tịch nước Việt Nam Xã nghĩa khi nhìn bức ảnh này.

Vẫn chưa hết, ngày 27 tháng 9 năm 2009, khi qua thăm Cuba, một nước nghèo và lạc hậu không thua gì Việt Nam, Ngài Nguyễn Minh Triết đã bằng lời của ”vợ thằng Đậu”, tuyên bố với báo chí ngay ở phi trường Havana rằng «Có người ví von, Việt Nam – Cuba như là Trời Đất sinh ra, một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ. Việt Nam gác thì Cuba nghỉ». Lời tuyên bố «hoành tráng và ấn tượng» này đã làm chấn động giới cải lương chuyên nghề “tấu hài”. Những chuyên viên giễu hề của các trung tâm băng nhạc sống bằng nghề làm hề, chọc cười thiên hạ đều phải chào thua. Cỡ Bảo Quốc, Hoài Linh, Vân Sơn, chỉ đáng xách dép. Còn Nguyễn Ngọc Ngạn chắc phải giải nghệ để đến bái sư Triết để xin làm đệ tử học thêm ngón nghề.


Chỉ có mấy mươi giây mà anh Hai Lúa Triết đã làm cho khán giả vỗ tay và cười muốn tắt thở. Nhất là cách giơ tay, ngoãnh mặt, chỉ bên này để diễn tả cảnh một anh ở phía đông, giơ tay bên kia để chỉ một anh ở phía tây và đặc biệt là nét mặt cứ ngơ ngơ ra như ngỗng ỉa, một bí quyết gây cười đặc thù của Triết, cộng thêm cách nói ngắc nga, ngắc ngứ như bị táo bón đang rặn. Mấy anh Cuba, qua lời phiên dịch, chắc không hiểu được hết cái tiếu lâm trong lời phát biểu. Những âm gác, âm cu, âm nghỉ, người Việt Nam đều nghĩ ngay đến câu tục ngữ “Trên đời có 4 cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”. Nhưng có lẽ họ nhìn nét rất hề trên mặt của ông Chủ tịch nước Xã nghĩa Việt Nam lúc đó mà ôm bụng cười ngất.

Một ông bạn già hàng xóm, khi xem xong đoạn phim ngắn 36 giây trên Youtube quay lại cảnh Triết diễu hài ở Cuba bèn kể cho nghe một chuyện tiếu lâm tương tự:

- Ngày xưa có một anh chàng ăn nói rất vô duyên. Hễ cứ mở miệng ra là bị người ta cười chế diễu có khi còn bị chửi. Vợ anh ta lấy làm xấu hổ lắm. Vì thế mỗi khi đi dự đám, tiệc trong xóm, làng người vợ đều phải canh chừng anh chồng, dặn chỉ ngồi ăn uống chứ không được lên tiếng góp chuyện để khỏi bị chê cười. Một lần, nhà hàng xóm có giỗ, hai vợ chồng được mời. Hôm đó khách khứa rất đông. Sau vài ly đế, ai nấy đều cười nói vui vẻ. Anh chồng vô duyên cứ ngứa ngáy miệng muốn góp chuyện nhưng bà vợ biết ý, tay cứ cấu vào đùi chồng để ngăn. Gần tan tiệc, hai vợ chồng xin phép gia chủ về trước. Lúc đứng lên từ giã, anh chồng vụt miệng nói, vợ ngăn không kịp:

- Sáng giờ tui chỉ có ăn chớ không có nói gì hết trơn, hết trọi nhen! Lát nữa nếu có ai bị trúng thực hay trúng gió chết là không phải lỗi tại tui đó nghe!
Kể xong, ông kết luận một câu rất “tuồng”, chắc là thuổng từ “phim bộ nhiều tập”:
- Nếu ông Triết cũng như anh chồng hay nói này hổng mở miệng thì đâu có ai biểu là mấy ổng câm há!
Chuyện tiếu lâm của mấy cha nội trong Bắc Bộ phủ, chỉ có nước khóc thét lên đau xót cho đất nước phải chịu ách nạn điêu linh dưới bàn tay của lũ đần chớ thiệt tình là cười hổng nổi.


Nguyễn Thanh Ty
    Khi Nguyễn Minh Triết kể chuyện tiếu lâm XHCN
“Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có kinh nghiệm trong quản lý. Là ở nước người ta đó, thì muốn tiêu cực muốn tham nhũng cũng khó vì cái hệ thống luật phát nó chặt chẽ. Còn ở Việt Nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham,... Cái người thủ quỹ cứ giữ tiền khư khư ở quỹ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút, (bà con bắt đầu cười, làm Triết cao hứng lên). Mượn thì hổng thấy ai đòi hết (và một tràng vỗ tay cười ồ,... nên càng kích thích riết lên tông) thấy hông,... thì em mượn thêm. Chứ hổng phải người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới đâu,... Nói một hồi thì thấy người Việt Nam tham nhũng nhất thế giới, hông phải dzậy. Cho nên tôi đề nghị quý vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này rồi nhìn về Việt Nam cũng đừng có hốt hoảng nghĩ rằng sao trong nước mình tiêu cực quá. Mà hồi xưa mấy ổng quánh giặc sao giỏi thế mà bây giờ mấy ổng tiêu cực thế (rồi cười khề khà,...). Đây là quy luật muôn đời (một tràng vỗ tay cười to). Con người ta trong mỗi người ai cũng có hỉ nộ ái ố hết trơn…. Chúng ta là con một nhà, là con Lạc cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra. Trên thế giới này ít có nơi nào có cái đó lắm á,...”.



No comments:

Post a Comment