Tuesday, November 17, 2009

NGHỊ QUYẾT 36 THẮNG LỚN - Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

(Lời nói đầu: Tiêu đề của bài viết là một câu nói khó nghe, nhưng chân thật. Nếu người Việt tỵ nạn chúng ta không thừa nhận sự thật, chúng ta lại sẽ mất trắng về tay bọn VGCS như chúng ta đã mất miền Nam . Chuyện này sẽ xẩy đến có lẽ chẳng bao lâu nữa. Thắng lợi Cờ Vàng lúc đó chẳng giúp ích gì cho chúng ta. Bởi vì thắng lợi đó chẳng qua chỉ là những quyết định hành chánh, chứ không phải là luật của nước Mỹ. Nó chỉ có tính chính trị mà không có tính cưỡng hành, và nhất là nó không đủ sức mạnh để ngăn chận những đợt sóng trở cờ đón gió xô tới. Vụ đài VNHN nên coi là một tiếng chuông cảnh báo, được coi là cuối cùng thì tốt nhất. Sau đây chúng tôi xin đi vào bài viết.)
------------ --------- --------- --------- --------- -

Bà Bút Vàng ngôn: tên Nguyễn Phương Hùng nói xấu giáo sư Vinh: ergo hắn là cộng sản. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh phán: Tôi không nói anh (Nguyễn Phương Hùng) là CS, nhưng anh có những bài viết chứng tỏ anh là Việt gian. Còn nhà văn Chu Tất Tiến điểm mặt: Nam Nhân, Việt Thường luôn luôn đánh phá tất cả mọi người chống cộng, sure bọn này là CS. Đấy là vài ba điển hình tố cộng mà chúng tôi đọc được trên internet gần đây. Cả ba là những người có máu mặt trên báo chí, các diễn đàn, và trong cộng đồng. Những nhà chống cộng khác trong đám dân trên không chằng, dưới không rễ thì loạn trên các diễn đàn, không sao kể cho xiết. Thế nhưng, chuyện ông bà Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc, giám đốc của đài VNHN mời cán bộ tòa đại sứ VGCS tại Washington tới nhà ăn nhậu với cả đám nhân viên, bạn bè thì lại là chuyện bìn h thường, chả có con ma nào théc méc. May mà hai năm sau nhà báo Hồng Phúc mới khui ra. Giả như ông Hồng Phúc không ngứa miệng phun ra thì chuyện đã đi vào quên lãng. Các ông bà Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc vẫn nghiễm nhiên là các nhà chống cộng đầy thành tích. Chứ có ai rỗi hơi mà bới móc ra làm chi cho mệt xác, biết đâu còn mang họa vào thân. CS đặt tòa lãnh sự tại Houston , ai ai cũng nhoi nhoi phản đối. Các ông lãnh đạo chống cộng tại địa phương kêu gọi dân biểu tình trước một cái chợ. Đại thành công! Nghe đâu những 5 ngàn người. Biểu tình xong, ai về nhà nấy, thỏa mãn. Tự ái của đồng bào đã được vuốt ve: biểu tình những 5 ngàn người lận. Các nhà chống cộng lại ghi thêm được một thành tích hiển hách giữ làm credit để dùng cho sau này. Thằng CS vẫn cứ đặt tòa lãnh sự của chúng để tiện cấp chiếu khán cho đồng bào về nạp mãi lộ và du hí. Có sao đâu. Sự việc ồn lên một dạo, nhưng êm rồi. Lại đâu vào đấy: đường ta ta cứ đi, đường nó (VGCS) nó vẫn phăng phăng bước tới. Làm gì nhau đây! Chẳng lẽ đường lối hợp tác giai đoạn của nhà chống cộng Al. Hoàng với Việt Tân ép phê (effet) lẹ thế?

Hoạt cảnh chống cộng của chúng ta hiện nay đại khái là như vậy. Trước đây không có thế. Bây giờ thay đổi rồi. Người ta cho rằng đó là kết quả của Nghị Quyết 36 của VGCS. Ai tin cứ tin. Ai không tin thây kệ. Tự do mà! Dưới con mắt loạn thị của người viết thì quả thật nghị quyết 36 có vẻ đang thắng lớn. Nó thắng thế nào, thắng làm sao, và tại sao thắng, đó là những vấn đề chúng tôi muốn đem bàn đến ở đây.

Vài nét về Nghị Quyết 36

Phần lớn chúng ta có lẽ chỉ nghe nói Nghị Quyết 36 nhưng chưa thấy cái đồ quỉ này nó mặt ngang mũi dọc ra sao. Vâng, chính xác cái văn kiện này được gọi là Nghị Quyết 36/NQ-TW (Xin vắn tắt là NQ36) được Bộ CT đảng VGCS ban hành ngày 26-3-2004. Trước khi có NQ36, VGCS đã thử thời vận nhiều cách để nhử mồi người tỵ nạn ở nước ngoài. Nhiều tên trí thức ăn cơn quốc gia thờ ma CS như BS Bùi Kiện Tín ở Pháp, TS Phó Bá Long ở Canada (?) v.v. đã ra công khuyển mã giúp cho bọn VGCS, nhưng đều mang thất bại. Năm 1993, VGCS đã thử mở ra một cái gọi là Đại Hội Việt Kiều, Phó Bá Long xun xoe về tham dự có gởi kiến nghị xin VGCS bỏ chiếu khán cho Việt kiều về thăm nhà, dễ dãi việc mua nhà đất, và nhất là Long còn đề nghị VGCS ban lệnh đại xá cho tất cả mọi người bỏ nước ra đi tỵ nạn CS. Tội vạ gì mà đại xá đây, GS Long?

Cha đẻ của NQ36 là Phan Diễn. Phan Diễn đứng hàng thứ 15 trong Bộ CT đảng CS, bí thư thành ủy Đà Nẵng, một tên tham nhũng có hạng. Diễn là con Phan Thanh, cháu nội Phan Khôi. Cụ Phan Khôi là một nhà văn hóa lớn chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm chống đảng nên bị thanh trừng và bị cô lập cho đến chết. Nếu Trường Chinh đấu tố bố mẹ đẻ ra hắn không làm chúng ta ngạc nhiên, thì chúng ta cũng chẳng nên lấy làm lạ chuyện Phan Diễn hoàn toàn vô cảm đối với việc người ông của hắn bị bạc đãi và bị đầy ải cho đến khi xuống lỗ. Đó là kết quả trăm năm trồng người của tên cáo già Hồ Chí Minh. Phan Diễn không những đã dửng dưng trước việc đảng đầy đọa ông nội hắn mà còn cúc cung tận tụy phục vụ CS bằng cách cuối đời đẻ ra cái NQ36 bất nhân mà chúng tôi đang nói đây.

NQ36 gồm có 4 phần. Phần cuối cùng phân công các cơ quan có trách nhiệm thì hành nghị quyết. Các phần 1 và 2 dành tâng bốc, vuốt ve, khuyến dụ, và hứa hẹn đủ điều với cộng đồng người tỵ nạn. Qua nghị quyết, VGCS công nhận người tỵ nạn, mà chúng đổi danh xưng gọi là người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, thành công về nhiều mặt, có tiềm lực kinh tế lớn, có tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương. Chúng xác nhận có một số đã trở về đầu hàng VGCS và đóng góp cho chúng. Nhưng đồng thời chúng cũng không quên cảnh cáo rằng nhiều người vẫn còn ra sức chống phá CS. Tuy thế chúng lại nói đảng và Nhà nước luôn luôn coi cộng đồng người tỵ nạn là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nên cần phải được săn sóc và giứp đỡ, nhất là trong các lãnh vực phát thanh, truyền hình và các nhu cầu về văn hóa. Chúng kêu gọi xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp tạo ra, xây dựng tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Chúng hứa hẹn nhà nước sẽ thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng ngưới tỵ nạn theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Chúng khuyến khích người tỵ nạn mau chóng hội nhập để làm ăn, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết, đùm bọc, thương yêu nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa bà con sinh sống với trong nước, tùy theo khả năng và điều kiện của mỗi người, góp phần xây dựng quê hương đất nước, đặc biệt nhấn mạnh là chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung cuả dân tộc, nghĩa đúng của lối nói này là chống lại VGCS.

Phần 3 mới là chủ yếu của nghị quyết, gồm có các điểm sau đây:

1. VGCS sẽ tiến hành đàm phán và ký kết các thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lãnh sự, hiệp định tư pháp, bảo vệ lợi ích của người tỵ nạn, giải quyết các yêu cầu của người tỵ nạn liên quan đến vấn đề quốc tịch. Hứa tạo điều kiện để đồng bào tỵ nạn về thăm quê hương, thân nhân. Cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở trong nước của người tỵ nạn, thông thoáng và đơn giản hóa các thủ tục. Giải quyết nhanh chóng thủ tục cho người tỵ nạn hồi hương hoặc về làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước. Tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi ... liên quan đến người tỵ nạn. Dành cho người tỵ nạn giá dịch vụ như công dân trong nước

2. Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức hải ngoại vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với chuyên gia, trí thức hải ngoại có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật trong nước. Mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức hải ngoại tham gia các công việc ở trong nước, làm việc cho các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương của Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài.

3. Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người tỵ nạn hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người tỵ nạn làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng phong trào tiêu thụ hàng hóa của VN.

4. Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập hợp với mục đích khuyến khích những hoạt động hướng về quê hương của người tỵ nạn, nhất là của thế hệ trẻ. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người tỵ nạn, kể cả với những người mà VGCS coi là còn có định kiến, mặc cảm với chúng.

5. Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người tỵ nạn, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho người tỵ nạn, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên tỵ nạn. Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ tỵ nạn về nước biểu diễn và tham gia các đoàn VN đi biểu diễn quốc tế. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật, triển lãm, hội thảo, du lịch về cội nguồn, tức là về phục vụ cho VGCS.

6. Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền để bịt mắt người tỵ nạn về tình hình đất nước và chính sách của đảng CS. Đầu tư cho các chương trình dành cho người tỵ nạn của các đài phát thanh, truyền hình và Internet. Chú trọng đổi mới nội dung, hình thức. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ người tỵ nạn. Hỗ trợ tiền bạc để vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra hải ngoại để phục vụ cộng đồng tỵ nạn.

7. Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người tỵ nạn có công đối với CS. Đồng thời có biện pháp đấu tranh phù hợp (tức là tiêu diệt) với những người có biểu hiện cố tình đi ngược lại với VGCS.

8. Củng cố và phát triển các tổ chức xã hội làm công tác vận động người tỵ nạn. Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài có trách nhiệm coi công tác đối với người tỵ nạn là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Chủ động tăng cường tiếp xúc, vận động, truyền bá và phổ biến chủ trương, chính sách của đảng VGCS.

9. Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người tỵ nạn tại cơ quan đại diện ngoại giao của VGCS ở những nơi có đông người tỵ nạn sinh sống. Một số bộ, ngành và một số tỉnh, thành phố có quan hệ nhiều với người tỵ nạn cần có bộ phận giúp cơ quan lãnh đạo trong công tác đối với người tỵ nạn. Bổ sung kinh phí cho công tác này.

Xét về mặt thực hành, các chính sách nêu trên có tác dụng hai mặt. Một là nó tạo ra con đường cho CS xâm nhập và trà trộn vào cộng đồng hầu lũng đoạn, chinh phục, và nhuộm đỏ khối người tỵ nạn chúng ta. Và hai là nó cung cấp cho người tỵ nạn một thứ vũ khí rất lợi hại để chúng ta tự đánh đấm, chém giết nhau không cần đến bàn tay của bọn VGCS. Tác dụng gây lũng đoạn này báo chí quen gọi là “chụp mũ” hay là “đội nón cối”. Sống trong một cộng đồng chống cộng mạnh, kẻ bị đội nón cối rất khó được tín cẩn. Hậu quả thê thảm của việc đội nón cối lên đầu nhau là người ta coi nhau là kẻ thù cần phải tiêu diệt còn hơn là CS. Rất nhiều người nhân danh chống cộng để đội nón cối lên đầu người khác, mặc dầu thời đại này đối với VGCS, dép râu, nón cối là thứ trang bị cá nhân cho các cán bộ CS đã hoàn toàn lỗi thời rồi. Có thể nói đa số những người tố cáo và chụp mũ kẻ khác đều mang tinh thần phe phái và định kiến: kẻ không theo chúng tôi và hành động khác chúng tôi tất nhiên là CS. Hà mỗ này cũng đã từng là nạn nhân của việc bị úp chụp cái nón cối lên đầu, nên bây giờ cứ như con chim bị ná vậy. Ngay cái tựa đề của bài viết này chưa biết chừng cũng có thể có kẻ vin vào đó la toáng lên rằng chúng tôi ca tụng CS hoặc làm lợi cho CS. Nhưng bất chấp, chúng tôi viết trong tinh thần tự kiểm để biết mình, biết người. Thế thôi. Chúng tôi không viết theo lối xảo ngôn của một số nhà chống cộng hiện nay để lừa bịp và ru ngủ quần chúng. Có kẻ viết rằng CS đang dẫy chết. Người khác lại bảo Hànội đang hoảng lên vì đảng đang tan rã. Chừng nào thì VGCS mới dẫy chết? Nó dẫy chết nhưng nó đang sắp nuốt sống cộng đồng tỵ nạn rồi đấy. Mở banh mắt ra mà nhìn. Nó tan rã ư? Một năm có được mấy đứa phải trả thẻ đảng vì bị đào thải, so với hàng ngàn hàng vạn đứa khác đạp lên nhau để mong được vào đảng. Đó là sự thực. Hãy lương thiện với đồng bào. Hãy nói lên sự thật cho đồng bào nghe. Đừng phỉnh gạt, dấu giếm, lừa bịp, tội nghiệp đồng bào. Với một cái nhìn lương thiện thì NQ36 đang thành công lớn cả về hậu quả xâm nhập lẫn tác dụng gây phân hóa trong cộng đồng.

Hậu quả của xâm nhập

Có ai trong chúng ta còn nghi ngờ việc VGCS len lỏi xâm nhập vào hàng ngũ người tỵ nạn không? Chắc chắn là không, mặc dầu chúng ta chưa bao giờ bắt được tại trận một tên VGCS nào hết. Nhưng chúng ta tin và điều tin tưởng của chúng ta là thật, chỉ đơn giản dựa trên sự thật lịch sử là ngày xưa chúng ta có cả một chế độ vững chắc, một quân đội hùng mạnh, cùng với nhiều cơ quan an ninh dầy đặc mà còn có những tên VGCS trà trộn vào ở hẳn trong dinh Độc Lập được, thì bây giờ trong một cộng đồng phân hóa như hiện nay, VGCS đi vào sống giữa chúng ta là chuyện quá dễ dàng. Chúng có thể là du học sinh, là cán bộ đi tu nghiệp, là thương gia đi khảo sát thị trường, là người di tản buồn, là thuyền nhân, là diện ODP, diện con lai, diện bảo lãnh, thậm chí cả diện HO (lao) nữa. Nói tắt một câu, cán bộ CS len lỏi vào sống trong cộng đồng là điều không còn gì phải thắc mắc. Chúng ta không căn cứ vào đâu được để xác định tên A, tên B là VGCS. Nhưng nhìn vào một số lãnh vực sinh hoạt hàng ngày trong cộng đồng thì thấy rõ là có VGCS hiện diện giữa chúng ta thật, và ảnh hưởng của chúng đang mỗi ngày mỗi lớn dần. Sau đây chúng tôi xin nêu lên một số hiện tương trong các lãnh vực sinh hoạt trong cộng đồng tỵ nạn chúng ta để mọi người thấy rằng VGCS đã xâm nhập vào trong cộng đồng đến mức nào rồi.

1. Làm ăn thương mại

Trước kia không người tỵ nạn nào dám hở miệng nói ra là họ có dính líu làm ăn buôn bán với CS. Nhưng bây giờ, nhiều con buôn tỵ nạn công khai giao dịch với cán bộ CS không cần giấu diếm. Chúng ngang nhiên đến dự tiệc chiêu đãi của Nguyễn Minh Triết, của Nguyễn Tấn Dũng. Chúng mời cán bộ CS về nhà ăn nhậu mà chẳng thèm sợ ai đàm tiếu. Còn hơn thế nữa, bọn cán bộ trong nước dám công khai tạo mãi các khu thương mại trên đất Mỹ ngay tại khu vực đông người tỵ nạn để chúng ta làm giầu cho chúng. Chẳng còn ai nghi ngờ về chuyện bọn mafia CS mua những cơ sở thương mại và dịch vụ tại hải ngoại để kinh doanh, hoặc do con cái của chúng đang ở ngoại quốc đứng tên, hoặc do người tỵ nạn là bà con đứng tên dùm. Có trường hợp được đươc nhận diên, nhưng nhiều trường hợp khác còn được giấu kín. Người tỵ nạn đem tiền về VN tiêu xài hay gởi tiền về trong nước dưới nhiều hình thức. Tiền này chui vào túi các cán bộ CS. Đồng tiền đó lại được bọn tư bản đỏ đem ra nước ngoài kinh doanh buôn bán. Đây là một chuyến đi khứ hồi của đồng dollar Mỹ. Thử hỏi xem có ai trong chúng ta coi đó là một thách đố không? VGCS kêu gọi người tỵ nạn đem tiền về đầu tư, nhưng chính chúng lại đi đầu tư ở ngước ngoài. Sự thể cho thấy là một mặt bọn VGCS không còn tin tưởng vào tương lai của chế độ, nhưng mặt khác chúng đạt được thành công trong việc biến khối người tỵ nạn thành những kẻ làm giầu cho chúng. Người tỵ nạn tự nhiên trở thành những con bò cho bọn mafia CS vắt sữa ngay trong những cái chuồng mà đồng bào tạo dựng nên. Lợi nhuận do việc đầu tư này VGCS dùng để tài trợ cho các hoạt động đánh phá người tỵ nạn, một phần chúng nuôi bọn chống cộng cò mồi ở hải ngoại. Mối nhục lớn cho cộng đồng là các nhà chống cộng của chúng ta cứ mỗi khi hoạt động lại phải ngửa tay xin tiền từ các tên VGCS hoặc những kẻ làm ăn với chúng. Nếu bỏ chút ít tiền bạc ra mướn lũ cò mồi chống cộng cho vui thì tại sao chúng không làm. Chúng có thiệt hại gì đâu. Cuộc đấu tranh chống cộng vì có lũ cò mồi đã trở thành trò hề lố bịch. Lãnh tiền của CS để chống cộng. Tiếu lâm thật, nhưng lại là thực tại muôn thuở.

2. Văn hóa, văn học

Sách báo tuyên truyền của VGCS bầy công khai trong các tiệm sách, thư viện, những nơi có đông người tỵ nạn. Các cuộc trao đổi giáo sự, sinh viên diễn ra hầu như thường xuyên giữa các đại học trong và ngoài nước. Con em người tỵ nạn về trong nước học hỏi được cái gì từ đỉnh cao trí tuệ VGCS? Hiện tượng giao lưu văn hóa qua cái gọi là hội thảo chuyên đề của các nhà trí thức trong và ngoài nước cũng đã thấy lai rai xẩy ra. Điều đáng ngạc nhiên là các nhà trí thức tại hải ngoại lại không hề nghĩ là mình đang tự chui vào cái tròng hoà hợp hòa giải của VGCS. Bằng cấp cao nhưng trí đoản của bọn school smart (mọt sách) là như thế. Thực tế đang diễn ra, đám khoa bảng thường lại là những kẻ có tinh thần chủ bại và đầu hàng trước nhất. Người bình dân về VN thăm nhà nhưng tinh thần chống cộng vẫn quyết liệt. Trái lại bọn trí thức sẵn sàng HHHG với VGCS dưới các chiêu bài mầu mè. Ai là người chịu trách nhiệm để cho các loại văn hóa phẩm và tài liệu tuyên truyền xâm nhập. Người bình dân bận làm ăn rất ít đọc sách. Tuổi trẻ trình độ Việt ngữ đủ đâu vào đâu mà đọc tiếng Việt. Vậy thì ai vào đây, ai thích đọc và ai cần đọc sách của CS?

3. Tổ chức, đoàn thể

Cán bộ CS xâm nhập để lũng đoạn, làm ung thối, và phân hóa các đoàn thể, tổ chức của người quốc gia là chuyện xưa như trái đất rồi. Trước năm 1975, CS len lỏi trà trộn vào quân đội, cảnh sát, đảng phái, báo chí, cả đến các tôn giáo bằng đủ mọi hình thức. Ngày nay cũng sách đó thôi. Không đoàn thể nào, tổ chức nào, cộng đồng nào không bị chia năm sẻ bẩy do CS và tay sai xâm nhập phá hoại. Lạ lùng thay, nhóm nào cũng có người theo, người ủng hộ. Rõ ràng là đồng bào không có khả năng phân biệt được ai là CS, ai quốc gia, ai chống cộng thiệt, ai chống cộng cuội, mà chỉ a dua theo cảm tính. Ai là kẻ đứng sau lưng để phá nát các công đồng, đoàn thể? Không ai cả, mà chỉ toàn thấy rặt là những nhà chống cộng rất hăng say và to tiếng. Nếu cứ tính công sức những nhà chống cộng này đổ ra cho công cuộc chống cộng thì chắc chắn bọn CS nằm vùng đã không còn đất sống, thậm chí cái chế độ của chúng ở trong nước cũng đã bị tiêu ma lâu rồi. Nhưng kết quả ngược lại, CS càng ngày càng xâm nhập sâu hơn vào các cộng đồng đủ mọi ngành nghề, mọi sinh hoạt, và càng ngày chúng càng tung hoành trắng trợn hơn, mọi người đều thấy nhưng không làm gì được, bởi vì có nhiều người theo chúng. Người nặng đầu óc mê tín thì cho rằng NQ36 là một thứ bùa ngải rất linh. Nó có sức trấn áp mọi phương pháp chống lại nó. Nhưng người không tin vào bùa ngải quyết đoán rằng không có bùa ngải gì cả, chẳng qua là tại bọn VGCS học mót cái bí quyết quốc truyền của tổ phụ Washington của nước Mỹ thôi. Bí quyết này đã được chứng minh là cực kỳ hiệu nghiệm. Nó có thể đạp đổ những thần tượng cao ngạo nhất. Nó ngồi một chỗ mà với tay ra tận ngàn dặm giết chết lãnh tụ của một nước khác dễ như chơi. Nó còn có khả năng như một nhà ảo thuật đại tài, làm biến mất một quốc gia khỏi bản đồ thế giới. VGCS có tiền rừng bạc bể lại nắm được bí quyết này trong tay, hèn chi mà cộng đồng tỵ nạn không rã như vôi vữa gặp mưa.

4. Từ thiện, bác ái

Đây là mặt NQ36 xâm nhập mà người tỵ nạn khó đối phó nhất. Trước những thiên tai bão lụt và những khó khăn thiếu thốn của đồng bào trong nước, nếu chúng ta bỏ mặc thì chính chúng ta tự cảm thấy nhẫn tâm. Nhưng đã có quá nhiều kinh nghiệm cho thấy lòng bác ái của người tỵ nạn đã bị lợi dụng quá đáng. Có thể nói không có đồng tiền nào của chúng ta bỏ ra cứu giúp đồng bào nghèo trong nước mà không bị chia năm sẻ bẩy, đến được tay đồng bào thì ít, chui vào túi bọn cán bộ thì nhiều. Đấy là chưa kể gặp phải bọn lưu manh lấy công việc từ thiện như một nghề sinh sống. Tình trạng này vô tình biến nhiều người vốn có lòng hảo tâm trở thành ích kỷ, và bọn tay sai CS đội lốt làm từ thiện mặc sức lộng hành.

5. Văn nghệ và truyền thông

Phải nói tác hại lớn nhất mà NQ36 đưa đến là việc san bằng lằn ranh quốc cộng trong lãnh vực văn nghệ và truyền thông. Về văn nghệ, như chúng ta thấy hiện nay, ca sĩ trong nưóc hoàn toàn thoải mái khi ra hát tại hải ngoại, nếu không mốn nói là còn được nâng niu chiều chuộng rất mực nữa là khác. Đổi lại, ca sĩ hải ngoại về trình diễn trong nước cũng được đón tiếp niềm nở. Sự khác biệt ở chỗ là ca sĩ hải ngoại trở về hầu như không em nào không nói vài cầu bợ đỡ CS để lấy lòng. Hèn và đê tiện. Xướng ca vô loài, người xưa đánh gia không sai. Trong khi đó bọn con hát trong nước ra lại thường kênh kiệu lên mặt. Có đứa còn lớn lối đe dọa chôn sống cộng đồng tỵ nạn. Vô giáo dục. Cũng lại là xướng ca vô loài nữa. Một đứa hèn vì sợ bóng sợ gió, một đứa mất dậy với tâm lý đắc thắng cho thấy sự hiệu lực của tác dụng đồng hóa trong lãnh vực ca nhạc tới mức nào.

Đồng hóa là bước kế tiếp chủ yếu sau bước xâm nhập. Đồng hóa cũng có nghĩa là hòa hợp hòa giải (HHHG), nhưng nó gỡ bỏ được cái rào cản ý thức thệ của người Việt hải ngoại một cách tự nhiên và êm thấm hơn. Ban đầu người tỵ nạn còn chống các con hát từ trong nước ra, nhưng dần dần nhiều người đã không còn muốn chống vì ghiền giọng rên của bọn con hát trong nước đến nỗi không nghe nhớ chịu không nổi. Các trung tâm băng nhạc và các tay cai thầu văn nghệ biết rất rõ tâm lý đó nên đã mặc tình thao túng.Bọn này rất hăng hái vinh danh QLVNCH nhưng lại âm thầm làm công cụ của NQ36. VGCS không đứng ra làm công việc hòa hợp này mà để cho người tỵ nạn tự làm lấy qua trung gian các trung tâm băng nhạc và bọn cai thầu văn nghệ. Chính sách dùng người của địch để thôn tính và cai trị địch đã có từ thời Triệu Đà xâm lăng Âu Lạc của Thục An Dương Vương, được gọi là “Dĩ di công di”. Hiện nay bọn Tầu cộng cũng áp dụng chính sách Dĩ di công di để xâm lăng nước ta.

Chính sách Dĩ di công di càng trở nên hiệu nghiệm khi VGCS dùng văn nghệ tỵ nạn, nói chung là nền ca nhạc thời chinh chiến để hội nhập người tỵ nạn với CS một cách rất tài tình mà ít người nhìn ra. Thật vậy, cuộc chiến đấu tự vệ của nhân dân miền Nam sở dĩ còn được lưu hương cho đến ngày nay ngoài việc nó có chính nghĩa, mà còn đặc biệt nhờ tính chất vừa bi hùng vừa lãng mạn của nó nữa. Nói chiến tranh mà lãng mạn thì có lẽ là nghịch lý. Nhưng đúng chứ không sai. Bóng dáng người lính chiến đậm nét phong sương nhưng kiêu hùng đã một thời là mơ ước của các cô gái miền Nam . Người lính chiến trở thành một thứ thần tượng trong trái tim của phần lớn thiếu nữ trẻ. Thật vậy, không có gì đẹp bằng hình ảnh một chàng trai lãng tử vừa ôm súng gác vừa làm thơ, giết địch xong là ngồi xuống viết thư tình, trong giao thông hào vẫn kể chuyện tình sử cho nhau nghe, về đến doanh trại là ba chân bốn cẳng dọt đi thăm người yêu … Trên thế gian này không có thứ lính tráng nào kiêu hùng và lãng mạn đến như thế. Và tất nhiên cũng không có cuộc chiến nào tàn khốc nhưng lại đẹp và nên thơ như thế. Nét đẹp đó chỉ tìm thấy trong cuộc chiến đấu chống CS xâm lược của nhân dân miền Nam được diễn tả qua hàng ngàn ca khúc rất mê hoặc. Những giá trị văn học nghệ thuật này đã trỏ thành bất tử, và sẽ còn tồn tại và lưu truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời nọ qua đời kia, thời gian chắc chắn không thể nào bôi xóa được. VGCS biết rất rõ điều đó. Chúng muốn xóa đi nhưng không xóa nổi nên đành phải thả lỏng cái thứ văn nghệ “phản động” này với ý đồ tương kế tựu kế để chinh phục người tỵ nạn. Đó là lý do tại sao có chuyện ca sĩ vẹm cũng hát nhạc lính trên những sân khấu hải ngoại, chỉ trừ những ca khúc mang tính chiến đấu cao và quá rõ rệt. Ngày nay, những ca khúc thời chinh chiến bị trộn lẫn với loại nhạc “mì ăn liền” đang thịnh hành tại hải ngoại và được biết trong nước cũng thế. Nó vừa trở thành cái cần câu cơm cho bọn con buôn văn nghệ (và cả cho lũ VGCS nữa), đồng thời còn là phương sách rất tự nhiên và hữu hiệu để đồng hóa người tỵ nạn. Hát nhạc lính dể vinh danh QLVNCH thì ai bắt bẻ và chống đối được. Nhưng điều trớ trêu là người ca sĩ mới về nước hát ca tụng CS, vừa trở ra lại hát vinh danh người lính VNCH. Người quân nhân QLVNCH cần bọn thợ hát vô luân này vinh danh sao? Điều bất nhân không thể tha thứ được là có trung tâm băng nhạc của người tỵ nạn hoặc cai thầu văn nghệ đã tự ý sửa lời của một số ca khúc để được VGCS chấp nhận cho hát.

Truyền thông cũng giống như văn nghệ. Có thể nói truyền thông cũng là lãnh vực xâm nhập thành công nhất của NQ36. Rất nhiều người cho rằng VGCS đã mua được hầu hết các cơ quan truyền thông của người Việt tỵ nạn. Cũng không sai lắm. Một số chương trình phát thanh và báo chí lấy lý do chống Tầu cộng, công khai kêu gọi người tỵ nạn hòa hợp hòa giải với VGCS. Điều lo ngại này có cơ sở dựa trên hai lý do. Thứ nhất là vì cái bụng. Thực tế là rất ít có tờ báo nào hoặc đài phát thanh nào tự trang trải được chi phí nhờ vào quảng cáo. Ở Mỹ, tiền mướn đài tính theo giá Mỹ, trong khi quảng cáo tính theo giá VN. Nhân viên, biên tập viên, xướng ngôn viên thường phải sinh sống bằng nghề khác. Nhiều người làm truyền thông không lương vì yêu nghề. Thực trạng đó bắt buộc người chủ đài phải nghĩ đến chuyện kiếm tiền bằng cách khác để nuôi sống đài, và nhất là nuôi sống bản thân và gia đình. Việc họ sa vào tay bọn VGCS hay những thế lực đen tối khác là điều dễ hiểu. Người Mỹ nói đúng, kẻ nắm túi tiền, người đó điều khiển. Lý tưởng này, lý tưởng nọ đành phải gác qua một bên. Thứ hai là ỷ vào cái lá chắn tự do. Ở các nước phương Tây, nhất là tại Hoa Kỳ, tự do ngôn luận và tự do thông tin thường được coi là vô giới hạn, được luật pháp bảo vệ. Sự lạm dụng tự do quá trớn là cánh cửa lớn cho CS xâm nhập và những con buôn trong ngành truyền thông ruớc CS vào. Chúng ta thấy rất rõ nhưng đành chịu bất lực, không làm gì được.

Trên đây chỉ là một số khía cạnh trong đời sống hàng ngày của người tỵ nạn mà bọn VGCS đã thọc bàn tay vào một cách rõ rệt qua NQ36. Còn rất nhiều mặt khác chưa dám quyết đoán, nhưng đã có những dấu hiệu đáng nghi ngờ. Chắc chắn thời gian sẽ trả lời.

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất


No comments:

Post a Comment