Saturday, May 30, 2009

Nhớ lại cuộc thảm sát Thanh Bồ - Đức Lợi, Đà Nẵng - Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Nhớ lại cuộc thảm sát Thanh Bồ - Đức Lợi, Đà Nẵng

24-8-1964


Hàn Giang Trần Lệ Tuyền


Xin Bấm PLAY để nghe âm thanh


Cuộc Thảm Sát Bắt Đầu:

Khi nói đến Thanh Bồ, thì nhiều người đều có kèm theo Đức Lợi. Vì phường Thanh Bồ nằm phía mặt tiền, cổng quay mặt ra đường Đống Đa, còn phường Đức Lợi lại nằm phía sau Thanh Bồ sát bờ biển. Ngoài chiếc cổng nhỏ ở góc đường Bạch Đằng, người dân Đức Lợi và Thanh Bồ thường ra vào thành phố cùng một cánh cổng chính dẫn ra đường Đống Đa. Ngoài ra, hai khu này đa số là đồng bào miền Bắc di cư. Bởi thế, mọi người đều gọi chung là Thanh Bồ-Đức Lợi.

Sau khi đốt cháy tòa Thị Chính Đà Nẵng, các thầy chùa như: Thích Minh Chiếu, Thích Như Huệ, Thích Hạnh Đạo ... và những hạ bộ như : Phan Xuân Huy, La Thành Tỵ ... là đám cầm đầu ra lệnh cho đoàn biểu tình đi thẳng xuống Thanh Bồ- Đức Lợi.

Lúc Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc đến trước một cao ốc cho Mỹ thuê, phía trái cánh cổng Thanh Bồ, quay mặt ra đường Đống Đa. Đám này đã kiếm chuyện gây hấn với các nữ công nhân tại cao ốc này, chúng hét to bằng những lời lẽ hạ cấp, tục tỉu, vô giáo dục nhưng tôi chỉ ghi lại một câu thôi, nguyên văn như sau :

“Ê ! Mấy con đĩ Mỹ ... Mấy con đĩ Mỹ ...”

Lúc đó, các nữ công nhân đang lau nhà ở lầu 01. Bỗng nghe những lời lẽ ấy. Tự ái và danh dự bị tổn thương. Nên trong số người đó, có chị Phạm Thị Liễu quê ở xã Kỳ Hà, Quảng Tín, ra Đà Nẵng làm công. Vì uất ức nên chị Liễu đã bưng nguyên xô nước bẩn đang lau nhà đem tạt thẳng xuống đầu đám “Phật giáo Cứu quốc”.

Việc làm này của chị Liễu, nếu bình tâm mà suy xét, thì không thể trách chị được. Bởi các chị ấy, là những người dân từ các làng quê đã bị Việt cộng đánh chiếm, hoặc đã mất an ninh vì sợ bị VC bắt đưa lên rừng núi làm du kích, nên họ đã chạy về thành phố, nhưng chính quyền lại vô trách nhiệm, chẳng hề giúp đỡ một chút gì cả. Nên họ phải tự tìm cách để mưu sinh. Họ là những phụ nữ thật đáng thương. Ngược lại, “Phật giáo cứu quốc” chẳng những không hề thương xót mà lại còn buông những lời hạ nhục họ nữa ? !!!

Nhưng, mọi chuyện chưa kết thúc ở đó. Vì sau khi bị tạt nước lau nhà, Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc đã dùng gạch, đá ném lên tòa cao ốc này, làm mấy cánh cửa kiếng vỡ tan. Thấy vậy, một người Hoa Kỳ mới dọa bằng cách lấy súng tùy thân bắn mấy phát chỉ thiên. Rồi bảo công nhân vào nhà đóng cửa lại.

Không làm gì được chị Liễu. “Lực lượng Phật giáo Cứu quốc” bèn kéo nhau tới trước cổng Thanh Bồ. Tay múa gậy, mồm la hét :

“Cần Lao ác ôn ! Chúng mầy ở trong nầy ! Chúng mầy ra đây ! Chúng mầy không ra, thì chúng tao cũng vô lôi cổ chúng mầy ra mà đánh cho chết hết.”

Tiếp theo là những tiếng hét to hơn:

“Bọn Cần Lao ác ôn, chúng nó ở trong nầy ! Vô đi ! Vô đi ! Giết sạch hết đi !”

Nghe những tiếng la hét như thế, đồng bào có mặt ở đó cứ tưởng là chúng la cho đỡ tức, vì bị tạt nước bẩn. Không ai ngờ là chúng giết người thật.

Thanh Bồ-Đức Lợi Máu Lửa:

Khi nghe những tiếng la hét vang dậy của lũ lục lâm. Và thấy đồng bào hoảng hốt. Vì Thanh Bồ-Đức Lợi cũng là khu Tổng kho, trong đó gồm có: Kho gạo, kho lương thực … Nên các chủ kho là những người đã có sáng kiến xây dựng lên chiếc cổng, mục đích để bảo vệ an ninh và tài sản của các kho. Họ thấy lo sợ nên đã bảo hai thiếu niên Phòng Vệ Dân Sự (PVDS) ra đóng cổng lại.

Thấy vậy, “Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc” liền xúm nhau xông vào phá cổng và túm lấy hai thiếu niên, rồi dùng gậy gộc, gạch., đá, nắm đấm, chân giày. Chúng cũng đã xúm nhau vào đấm, đá, đánh, đạp vào tấm thân gầy yếu của hai em, cho đến khi cả hai đếu gục chết.

Thương xót hai em, một Hạ sĩ quan Không quân không biết từ đâu chạy ra tìm lời phân giải. Thì lập tức lũ côn đồ này liền vồ lấy vị quân nhân, rồi cũng dùng gậy gộc, gạch, đá, đánh anh cho đến khi chết hẳn.

Nhưng “Phật Giáo Cứu Quốc” cũng chưa chịu buông tha. Mà chúng cùng nhau bẻ dây kẽm gai ở bờ tường rào, đem cột vào cổ hai thiếu niên và vị quân nhân. Rồi chúng xúm nhau đem treo cả ba cái xác chết này lên cổng Thanh Bồ mới hả dạ.

Trước mắt mọi người lúc ấy. Xác chết của hai em bé, bị treo lơ lửng trên cổng Thanh Bồ. Hai cái cổ của hai em bị gãy nơi bị cột dây thép, máu ứa ra từ những chổ có mắt kẽm gai đâm vào. Đầu ngã sang một bên. Áo quần đẫm máu. Cả khuôn mặt đã biến dạng, sưng vù. Bốn dòng máu đỏ sẫm ứa ra từ hai chiếc miệng của hai em dù đã chết. Nhưng bốn con mắt ngây thơ của hai em đều mở to nhìn xuống đám “người” đã nhân danh là “Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc”!!!

Nhưng chưa hết đâu. Bởi trong cơn say máu người “Phật Giáo Cứu Quốc” đã ồ ạt xông vào khu dân cư Thanh Bồ-Đức Lợi. Tay vung gậy gộc, gạch, đá mồm la hét :

“Cần lao ác ôn đâu ! … Giết hết …!”

Rồi có những tiêng la to :

“Hãy đốt nhà chúng nó ! Đốt hết ! Đốt sạch đi !”

Chúng cũng đã dùng loa phóng thanh kêu gọi:

“Yêu cầu đồng bào Quảng Nam, hãy mau mau tách rời khỏi dân Bắc cầy, và gia nhập vào Lực lượng Phật giáo Cứu quốc, thì nhà sẽ được chừa ra không bị đốt.”

Nhưng đồng bào Quảng Nam chẳng có một người nào chịu nghe lời của chúng cả. Vì chỉ có người ngu tới tin là “Gia nhập LLPGCQ, thì nhà sẽ được chừa ra không bị đốt”. Vì lửa đâu có biết phân biệt cái nhà nào là của người Quảng hay người Bắc. Bởi nhà cửa liền nhau, hễ đốt một cái là nó sẽ lan ra cháy sạch hết cả Thanh Bồ-Đức Lợi.

Vả lại, qua những năm dài chung sống với người Bắc di cư, người Quảng Nam đâu có thấy “Cần Lao ác ôn” ở chổ nào, mà họ chỉ thấy đồng bào miền Bắc với những tấm lòng đầy nhân ái. Vì thế, máu của đồng bào Quảng Nam đã hòa lẫn với máu của đồng bào miền Bắc trong cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi !

Sau một hồi la hét, chẳng thấy bóng dáng ai cả. Chúng đã dùng xăng tưới vào mấy căn nhà nhà của đồng bào ở đầu con đường chính dẫn vào Thanh Bồ-Đức Lợi và châm lửa đốt.

Lúc này, dân Thanh Bồ-Đức Lợi đa số là ngư dân nên đàn ông đã ra biển. Chỉ còn đa số là phụ nữ và trẻ em.

Khi ngọn lửa bốc cháy, thì những người không ra biển hôm ấy đã kêu gọi mọi người chạy ra phường Đức Lợi ở ven biển phía sau Thanh Bồ. Rồi tất cả đồng bào Thanh Bồ- Đức Lợi đều bồng bế nhau lên thuyền cùng chạy ra khơi để tỵ nạn Phật giáo.

Trừ bốn nạn nhân đã bị chết thảm trước mắt đồng bào, đó là: Ông Trần Sô sau khi bị đánh chết, đã bị dập đầu, hai em bé và vị Hạ sĩ quan Không quân sau khi bị đánh chết đã bị treo cổ trên cổng Thanh Bồ bằng dây kẽm gai. Ngoài ra, không ai biết chính xác được về con số thương vong, trong cuộc thảm sát này. Vì ngay cả chính quyền lúc ấy đã làm ngơ, không hề để tâm đến, không hề giúp đỡ đồng bào lâm nạn. Nhưng người ta đều biết đã có những cụ già, em bé, phụ nữ mang thai không chạy kịp, nên sau đó người thân chỉ còn tìm lại được nắm xương khô trong đống lửa đã tàn, vì cả hai phường Thanh Bồ-Đức Lợi đã bị cháy sạch.

Riêng số đồng bào chạy thoát được lên thuyền, cũng lâm vào cảnh rất thương tâm:

Bởi, khi cố chạy từ trong đám cháy để thoát thân, nên rất nhiều người lớn, bé đã bị bỏng, bị thương, mà họ không hề mang theo được một thứ gì để cứu thương cả. Vì thế, có những phụ nữ mang thai đã sinh non trên thuyền, đã chết cả mẹ lẫn con. Đến lúc các thuyền tìm cách đưa những người bị thương đến các bệnh viện, thì có người đã chết. Còn các bệnh viện lúc ấy đã chứa đầy bệnh nhân và cũng là nạn nhân của Phật giáo tại Thanh Bồ-Đức Lợi.

Cũng trong “Mùa Biển Động- tập 1” Nhà văn Nguyễn Mộng Giác có viết về cuộc thảm sát này như sau:

“Cháy, cháy. Chúa ơi ! Chúng nó đốt nhà. Cứu tôi với ! ... Khói ngùn ngụt bốc lên, cùng với tiếng nổ gỗ và tre nổ lốp bốp ... Thanh niên cầm sẵn Garant vẫn được phát cho Nhân dân tự vệ khu từ trước. Toán thanh niên ô hợp cầm biểu ngữ truy lùng Cần Lao vừa hiện ra thì tất cả chuông nhà thờ đều rung lên liên hồi. Cuộc thánh chiến bắt đầu.”

Những điều nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã viết ở trên. Tôi chắc chắn chỉ đúng với chuyện đốt nhà, và cái đám “truy lùng Cần Lao”. Nhưng “Thánh chiến” thì KHÔNG. Vì “Phật giáo Cứu quốc” đánh, giết người, đốt nhà, còn đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi chỉ biết bồng bế nhau chạy lên thuyền ra khơi để trốn. Chứ không có vũ khí, không chống trả lại PGCQ, nên không có thánh chiến. Và tôi cũng khẳng định là dân Thanh Bồ-Đức Lợi không có “cầm sẵn Garant” không có nhân dân tự vệ, mà chỉ có Phòng Vệ Dân Sự (PVDS). Lúc đó, chỉ được phát gậy để phòng gian. Mà PVDS cũng chỉ toàn là thiếu niên vì các thanh niên từ 18 tuổi trở lên đều đã lên đường nhập ngũ.

Về Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ, (LLNDTV) thì ai cũng biết là sau tết Mậu Thân 1968, chính phủ mới cho thành lập lực lượng NDTV có vũ trang. Nhưng đa số là nữ và những người ngoài hạn tuổi quân dịch. Đều được phát súng Carbine M.1 hoặc M. 2. Còn súng Garant thì có phát nhưng vì NDTV đa số là thiếu nữ, nên nhiều người khi bắn không kềm giữ súng được nên lúc bắn thường hay bị giật mạnh, khiến báng súng dộng vào ngực rất đau. Một điều khó nữa là súng Garant lúc đó khó tìm được đạn, vì loại súng nầy vốn là của lực lượng Dân Vệ rồi chuyển sang cho Nghĩa Quân để lại, khi họ đem giao nộp để nhận súng R.15. Thêm nữa là súng Garant cồng kềnh, và nặng các thiếu nữ và những người già thuộc LLNDTV không chịu nhận. Tôi dám chắc là nhà văn Nguyễn Mộng Giác không rành về các loại súng và bắn súng như tôi đâu, dù tôi là phái yếu.

Tuy nhiên, tôi cảm thông được là nhà văn Nguyễn Mộng Giác, vừa viết vừa run. Vừa sợ không bán được sách. Bởi mười năm trước đây. Chính ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, Chủ nhiệm Bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong và tôi cũng từng bị lũ lục lâm hăm dọa, khi ông chấp nhận đăng những bài viết của tôi trên báo. Ông đã hỏi tôi: “Có dám bất chấp mọi thứ hay không ?“. Và tôi đã trả lời với ông rằng tôi đã sẵn sàng trước khi viết. Dù bây giờ ông đã ra đi, nhưng cho đến giờ nầy và mãi mãi tôi vẫn giữ bút hiệu Hàn Giang kèm theo tên thật để nhớ về ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng.

Vậy, từ nay nếu có viết về các biến cố “Tranh Đấu” của các thầy chùa tôi dám mong nhà văn Nguyễn Mộng Giác hãy viết những gì thật trung thực và đầy đủ. Đó là điều mà những người cầm bút phải luôn luôn tâm niệm.

Trở lại với cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi. Tôi muốn nhắc đến một người dù đã chết. Đó là tướng Nguyễn Chánh Thi.

Ấy là, sau khi nhà cửa của đồng bào bị “Phật giáo Cứu quốc” đốt cháy sạch sẽ, Thanh Bồ-Đức Lợi chỉ còn một bãi cháy, với từng đống cột, kèo và từng vật dụng đã trở thành những đống than, tro. Thì không biết tại sao tướng Nguyễn Chánh Thi lại ngồi trên một chiếc xe tăng thiết giáp. Chỉ huy một đoàn thiết kỵ, trang bị vũ khí đủ loại ầm ầm tiến về phía Thanh Bồ-Đức Lợi.

Khi đến trước cổng Thanh Bồ, tướng Thi đã dùng loa phóng thanh kêu gọi như sau:

“Yêu cầu tất cả Cần Lao hãy mau mau ra đầu hàng trong vòng bốn tiếng. Nếu sau bốn tiếng đồng hồ mà không ra đầu hàng tôi sẽ cho san bằng tất cả “.

Sau bốn tiếng đồng hồ, không thấy động tĩnh. Tướng Thi đã ra lệnh cho đoàn xe tăng thiết giáp tiến sâu vào Thanh Bồ-Đức Lợi. Lúc đó, tướng Thi thấy được toàn cảnh chỉ là một bãi cháy. Ông bèn dùng loa phóng thanh hỏi có ai trong khu này không , Thì bỗng có mấy cụ bà xuất hiện. Hỏi ra, các cụ vừa khóc vừa cho biết là con cháu chưa đứa nào dám trở về cả. Nên các cụ liều thân về trước xem thử tình hình ra sao, không ngờ tất cả đều cháy sạch sẽ.

Nguyễn Chánh Thi .
Người ta thấy khuôn mặt tướng Thi lúc ấy có vẻ như đang suy nghĩ điều gì ? Rồi ông buột miệng nói:

“Đ. M. Cái thằng Minh Chiếu nó bịp tao mà. Chỉ có mấy bà già. Cần Lao đâu ?“

Sau đó, tướng Thi đã ra lệnh cho “Lực lượng Phật Giáo Cứu Quốc” phải rút khỏi các khu của đồng bào miền Bắc di cư.

Qua những sự kiện đã kể ở trên, tướng Thi bây giờ đã chết. Nhưng Hòa thượng Thích Minh Chiếu, Hòa thượng Thích Như Huệ, Hòa thượng Thích Hạnh Đạo, Hòa thượng Thích Minh Tuấn ... hiện còn sống, đang có mặt tại Hoa Kỳ và Úc Châu. Ngày 01/10/2003, đã được đại hội Phật giáo Suy cử” vào “Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất”. Tất nhiên, phải biết rõ hết tất cả mọi căn nguyên.

Thích Như Huệ

HT Thích Hạnh Đạo

Đại đức Thích Minh Tuấn

TT Thích Minh Chiếu Trưởng Ban HDPT tỉnh phát biểu khai mạc

Cảnh Ngộ Của Đồng Bào Thanh Bồ- Đức Lợi Sau Cuộc Thảm Sát.

Sau cơn máu lửa, quay thuyền trở lại, thì đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi đã bàng hoàng trước một bãi than, tro tàn rộng lớn, trãi dài theo ven biển. Những tiếng khóc ngất, kẻ lịm đi trước nắm xương tàn khô của người thân vừa tìm được trong sân nhà cũ !!!

Nhưng cái khó khăn nhất trước mắt. Là mọi người phải đối diện với cảnh màn Trời chiếu đất! Tất cả đều bị cháy sạch. Không có bộ áo quần thứ hai, không còn một chiếc đũa ăn cơm!

Trước cảnh Trời sầu đất thảm ấy. Các vị đã chứng kiến cuộc thảm sát. Trước hết là các vị Linh Mục của các giáo xứ như: Linh Mục Nguyễn Quang Xuyên, Quản nhiệm Nhà thờ Chính Tòa, Linh Mục Nguyễn Văn Phương, Linh Mục Hoàng Hồ, Linh Mục Đinh Văn Lợi, Linh Mục Lê Như Hảo, Linh Mục Lê Như Hào ...

Kế đến là các tôn giáo như: Mục Sư Minh (xin lỗi tôi quên họ). Mục Sư Dương Thạnh, và các tín hữu Hội Thánh Tin Lành ĐN. Mục Sư Dương Thạnh hiện nay là Chủ tịch Tổng Liên Hội Tin Lành Viêt Nam. Quản nhiệm ngôi nhà thờ Tiên khởi của Hội Thánh TLVN tại số 164, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng.

Giáo Sĩ Trần Văn Quế, Chánh Phối Sư Cao Đài Miền Trung, Giáo sĩ Trần Thanh Thuyền, Phụ tá Chánh phối sư, Đặc trách ngoại giao Cao Đài Miền Trung và Hội Thánh Cao Đài thuộc “Trung Hưng Bửu Tòa Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài Miền Trung” ở số 35, đường Nguyễn Hoàng, Đà Nẵng. Tôi xin nói thêm là Cao Đài Miền Trung không trực thuộc Cao Đài Tây Ninh.

Và các vị nhân sĩ tại Đà Nẵng đã kêu gọi đồng bào đóng góp giúp đỡ như: Bác sĩ Trần Đình Nam, Bác sĩ Thái Cang, Bác sĩ Huỳnh Tấn Đối, Bác sĩ Lê Nguyên Các, Giáo sư Trịnh Thể, Giáo sư Nguyễn Văn Xuân, Luật Sư Vũ Đăng Dung, Luật Sư Đặng Vũ Niết, Luật Sư Trương Thị Thúy và các Đoàn thể chính trị tại ĐN ...

Sau khi được sự giúp đỡ. Đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi đã tự dựng lên những chiếc lều bằng vải bạt, hoặc bằng lá. Rồi họ phải làm lại từ đầu như mười năm trước. Khi phải đứt ruột để rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn nơi cố lý của miền Bắc thân yêu, để vào miền Nam chạy trốn cộng sản.

Về phía chính quyền. Cũng có một số người muốn giúp đỡ, nhưng họ nói họ rất sợ tướng Nguyễn Chánh Thi. Bởi lúc ấy, sau khi tướng Tôn Thất Xứng vì sợ Phật giáo nên đã vào Sài Gòn tránh mặt. Vì vậy, tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Tiền Phương đã xử lý Thường vụ Tư lệnh Quân Đoàn 1, kiêm Tư lệnh Quân khu 1, kiêm xử lý Đại Biểu Chính Phủ tại Vùng 1 Chiến Thuật. Mà ác hại thay, tướng Thi lại có vai trò quan trọng trong cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi. Vì thế, như đã nói là các viên chức chính quyền tại ĐN, rất sợ tướng Thi và thầy chùa. Mà trước mắt là cái chết thảm khốc của ông Trần Sô và hai em bé và vị quân nhân Không quân đã làm mọi người khiếp đảm, nên không có ai dám ra mặt giúp đỡ đồng bào. Ngay khi Phật giáo tưới xăng và đốt nhà của đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi mà sở cứu hỏa cũng đành ngồi nhìn ngọn lửa đốt sống đồng bào, trong đó có những cụ già, em bé, những phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, cùng lúc với nhà cửa và tài sản do mồ hôi nước mắt của họ đã bao năm gầy dựng bởi “Ăn dè hà tiện”.

Và cũng chính vì những điều đã nói ở trên. Bởi, những kẻ cầm đầu của cuộc thảm sát này, không hề bị xét xử theo luật pháp nghiêm minh. Nên nó đã di hại cho đến các cuộc Bạo loạn miền Trung: Mùa hè 1966- Cuộc thảm sát Mậu Thân 1968- và 30/4/1975: Ngày nước Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay cộng sản. Và không biết nó sẽ còn di họa cho đến bao giờ --? !!!

Thay Cho Lời Kết.

Như cả nước Việt Nam đều biết. Mấy chục năm qua Phật giáo đã từng đẻ ra rất nhiều những tổ chức ngoại vi. Từ danh xưng “Gia đình Phật tử” do Bác sĩ Lê Đình Thám, một đảng viên cộng sản kỳ cựu thành lập. Thực ra, cũng là một cách “Đoàn ngũ hóa nhân dân”.

.

Cho đến những tổ chức sau này. Nhưng có những tổ chức đã gây ra máu lửa nhiều nhất mà ai cũng biết, nó được dán lên những nhãn hiệu khác nhau như sau:

* - Lực lượng Phật giáo cứu quốc, Lực lượng Thanh niên Phật tử cứu quốc: Cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi: 24/08/1964.

* - Phật Giáo Xã Hội Đảng, Quân đoàn Vạn Hạnh, Lực lượng Tranh thủ Cách mạng, Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử: Cuộc bạo loạn miền Trung: Mùa hè 1966. Và Cuộc thảm sát Tết Mậu Thân: 1968.

* - Lực lượng Phật giáo Hòa hợp, Hòa giải: 30/4/1975, Đưa xe ra tận núi rừng để rước bộ đội cộng sản Bắc Việt vào các thành phố, trên khắp lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.

Nhưng lịch sử đã chứng minh. Trên mặt địa cầu này. Tất cả những cuộc chiến chinh, đều có căn nguyên, có mục đích. Riêng những cuộc “Đấu tranh” của Phật giáo tại Việt Nam với những lý do mà họ đã nêu ra đều không phải là thật.

Theo tôi, với khối óc và cặp mắt bình thường. Tôi khẳng định rằng: Sở dĩ bao nhiêu năm qua, Phật giáo cứ liên tục gây ra không biết bao nhiêu máu lửa. Không biết bao nhiêu người đã chết thảm dưới bàn tay của những tên Tăng Phỉ và lũ Hạ Bộ. Ấy chính bởi cái cuồng vọng là muốn tái lập triều Lý. Phật giáo luôn luôn mơ màng về một triều đại Phật giáo là quốc giáo, và chỉ còn có Phật giáo.

Chính vì vậy, để đạt được cái cuồng vọng ấy. Phật giáo đã chủ trương phải tiêu trừ, tận diệt hết tất cả các tôn giáo khác. Đồng thời, cũng phải tận diệt hết tất cả các đảng phái chính trị Để cuối cùng, chỉ còn duy nhất Phật giáo là tôn giáo và cũng là Phật đảng. Tất cả phải thần phục Phật giáo.

Tôi nghĩ rằng, trong tương lai, dù không còn cộng sản. Dù bất cứ một đảng phái nào, một vị nào dù tài cao đức trọng có đứng ra lãnh đạo đất nước. Thì Phật giáo cũng cứ ca những bài: Độc tài, Gia Đình trị, Pháp nạn ... Rồi cũng lại, Tranh đấu, Biểu tình, Xúi dục người khờ dại tự thiêu, nếu không có ai chịu tự thiêu, thì bức tử, rồi đem ra đốt, có khi đem xác chết ra để đốt, rồi hô hoán là họ “tự thiêu”. Tôi sẽ chứng minh những điều đã nói, bằng những tài liệu và hình ảnh làm giặc của thầy chùa thật chính xác trong thời gian tới.

Nghĩa là, ngày nào chưa thành lập được một Việt Nam Phật Quốc. Thì ngày đó, Phật giáo còn “tranh đấu”.

Nhưng ở đời “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại Thiên“. Theo tôi, Phật giáo nên theo lời Đức Phật đã dạy mà hãy “Tự đốt đuốc tìm đường mà đi”. Bởi PG qua bao nhiêu năm vẫn còn ngủ mê trong đêm dài tăm tối.

Tuy nhiên, nếu vẫn cứ ôm hoài cái cuồng vọng tái lập Lý triều. Thì hãy cứ mơ, cứ tưởng, cứ phiêu lưu mãi trên con đường đầy chông gai và đầy bất trắc. Nhưng cũng phải nên nhớ kỹ rằng :

“Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”.

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
_____________________
PHỤ CHÚ:

Chú ý: Phần tài liệu dưới đây để nhìn rõ bộ mặt của Nguyễn Đắc Xuân và những tên Cộng Sản phật giáo, trí thức dính máu đồng bào vô tội. Xin đừng quên những nạn nhân vô tội đã chết oan ức.


Ai gây ra vụ đốt phá Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng 45 năm trước ?

Năm Tháng Dâng Người (Nxb Phụ Nữ, 2006) kể lại rằng:

“Tiếp sức với Huế (đấu tranh chống Nguyễn Khánh với Hiến Chương Vũng Tàu do Khánh nặn ra), lực lượng của ta tại Đà Nẵng đã chủ động tổ chức bãi khóa và xuống đường. Hàng vạn học sinh Đà Nẵng giương cao biểu ngữ:

- Đả đảo Hiến chương Vũng Tàu !
- Đả đảo Nguyễn Khánh!
[...]

Dòng biểu tình cứ kéo qua các phố chính tại Đà Nẵng không dứt, càng về trưa dòng người càng đông nghịt, ngăn tất cả các lối đi trong thành phố. Sơn Hải và Cẩm Nhung cùng một số cốt cán của ta dẫn đòan biểu tình đến thẳng khách sạn Đà Nẵng, nơi mà các gia đình cố vấn Mỹ ở.

Đoàn biểu tình vừa đến thì một số lính Mỹ đứng trên tầng cao khách sạn ném chai lọ xuống và to mồm chửi tục. Lập tức, dòng người biểu tình ào vào xông lên khách sạn, lính Mỹ nổ súng, cuộc ẩu đả xảy ra mỗi lúc một ác liệt. Cuộc biểu tình lui về phía Thanh Bồ Đức Lợi để tránh đạn, thì từ phía sau nhiều tóan thanh niên được trang bị gậy gộc xông vào đánh túi bụi đám đông đang cố thủ dọc đường rầy xe lửa. Thế là một cuộc đánh nhau đã diễn ra giữa đoàn biểu tình với khu Thanh Bồ Đức Lội, cho mãi tới xế chiều đòan người được tăng viện mỗi lúc một đông hơn và cơn giận đã biến thành ngọn lửa đốt rụi nhiều nhà tại đây.

Tôi đến tận nơi lúc trời gần tối, gặp Sơn Hải và anh Đồng đang gào thét: “đả đảo Mỹ” với hàng ngàn người biểu tình. Tôi kéo anh Đồng lại và nói ngay:

- Hãy hướng dẫn đoàn biểu tình về ngay Tòa Thị chính Đà Nẵng bên bờ sông Hàn.

Hàng vạn người tràn qua đường Bạch Đằng nối theo không dứt và tràn vào chiếm tòa Thị chính”. (tr. 208-209).

Qua đoạn trích trên chứng tỏ ông Lê Công Cơ (CS) đã lãnh đạo các cơ sở Giải phóng ở Đà Nẵng mà chủ chốt là Sơn Hải, Cẩm Nhung và sau đó có thêm anh Đồng hô hào quần chúng Đà Nẵng chủ động đến khách sạn Đà Nẵng chống Mỹ, chủ động chống lại thanh niên Thanh Bồ Đức Lợi và cũng chủ động gây lên cuộc đốt phá khu Thanh Bồ Đức Lợi và chủ động hô hào đồng bào rút khỏi Thanh Bồ Đức Lợi để về chiếm tòa thị chính Đà Nẵng.

Có đúng như vậy không ?

Trong lúc đó, Phạm Văn Liễu, trước năm 1966, từng đứng đầu ngành công an cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa, trong hồi ký Trả Ta Sông Núi lại cho rằng cuộc bạo động ở Thanh Bồ Đức Lợi do sự hiềm khích giữa Phật tử và thanh niên Thiên chúa giáo Đà Nẵng gây ra:

“Ngày 25-8, bạo động đổ máu ở xã Thanh Bồ, Đà Nẵng. Khi một đòan biểu tình đi ngang qua trạm tự vệ của xã Thanh Bồ, một số tự vệ có thái độ khiêu khích. Những người đi biểu tình bèn tấn công trạm tự vệ trên. Tự vệ Thiên chúa giáo nổ súng khiến 11 người chết, 42 người khác bị thương. Hàng ngàn Phật tử bèn tràn vào đốt phá xã Thiên chúa giáo nầy. Khỏang 500 căn nhà trong xã chỉ còn ít chục căn nguyên vẹn”. (Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi tập 2, Nxb Văn Hóa tại Hoa Kỳ, 2003, tr.143).

Cái dư luận “Phật tử gây ra vụ đốt phá khu Thanh Bồ Đức Lợi” đã quy trách nhiệm cho ông Hoàng Văn Giàu - người đứng đầu đòan Sinh viên Phật tử Huế lúc ấy. Nhiều người hỏi tôi (một Sinh viên Phật tử của Hoàng Văn Giàu những năm 1963-1964) dư luận ấy có đúng không ? Tôi đã kể lại rằng:

- Lần đầu tôi nghe chuyện Thanh Bồ Đức Lợi bị đốt phá ở phòng riêng ông Hòang Văn Giàu (Đoàn trưởng đòan SVPT Huế), trên dãy lầu sau Morin. Hôm ấy ông tiếp sinh viên ban sử địa Đại học Văn khoa Lê Đình Cai. Không biết hai người đã trao đổi với nhau trước đó những gì, tôi đến sau chỉ nghe ông Giàu phê bình Lê Đình Cai đã gây ra vụ đốt phá Thanh Bồ Đức Lợi trái với đường lối bất bạo động của Phật giáo. Lê Đình Cai ngồi chống cằm nghe rất buồn. Lê Đình Cai vốn có hoạt động với Đoàn SVPT nhưng từ sau ngày bị ông Giàu phê bình như thế Lê Đình Cai xa dần chúng tôi. Có người giải thích rằng Lê Đình Cai bị SVPT bỏ rơi nên mới chuyển qua hoạt động cho đảng Đại Việt. Người khác lại bảo Lê Đình Cai đã là đảng viên Đại Việt trà trộn vào hoạt động với Phật tử sau khi bị khuyết điểm với Phật giáo Lê Đình Cai ra mặt hoạt động cho Đại Việt thế thôi. Lê Đình Cai có thời là bạn học sử với tôi nhưng chưa bao giờ tôi hỏi chuyện ấy thực hư như thế nào.

Biết chắc Phật tử không gây ra vụ Thanh Bồ Đức Lợi cho nên trong Nhật ký của tôi viết ngày 25-8-1964, (do Nhận Thức xuất bản tháng 11-1964), có đoạn:

“Ngày hôm qua đã nói hình như có đến ba bốn người chết và mấy người bị thương. Máu đã chảy thì không có nước sông biển nào rửa sạch. Máu của những người yêu nước chỉ có lịch sử mới đánh giá được. Người ta đã tự tạo ra những đối lực dùng người VN trị người VN những người VN ở Đà Nẵng và ở Thanh Bồ ơi, ai là người VN của người VN ai là người VN không phải của người VN?

Dù sao mình cũng phải nhận rằng: đó là một bài học của những người thiếu kỹ thuật và ít sành tâm lý. Con người vốn có mặc cảm có tội dù cái mặc cảm không phải do con người thời đại đã tạo nên mà do khúc quanh của lịch sử.

Chúng ta phải đổ máu để tranh đấu cho nước VN nhưng chúng ta đừng làm vấy máu của người VN”. (Nguyễn Đắc Xuân, Chứng Nhân Của Miền Trung Tranh Đấu, Nxb Nhận Thức, Huế 11-1964, tr. 38 và 39)

Mới đây trên Website tại địa chỉ “www.giaodiemonline.com/thuvien/mluc/ mluc_II06/606_khaiphong- hvg.htm-63k”. Thêm một nạn nhân của nạn lộng quyền ở trại tỵ nạn Songkhla: Hoàng Văn Giàu” của Trường Giang đăng lại tờ Khai Phóng - một tạp chí của cư sĩ Phật giáo đầu tiên trên đất Mỹ, xuất bản năm 1981, mở đường cho tiếng nói giải hoặc lịch sử, trong số 4, tháng 6/81 có đề cập đến tai ương chính trị mà ông Hòang Văn Giàu đã gặp phải trên bước đường “lưu đày” trong bài mang tựa đề:

Trong bài viết ấy có một đọan đề cập đến vụ Thanh Bồ Đức Lợi như sau:

“Biến cố này xảy ra năm 1964, và khởi sự từ một cuộc biểu tình do Đảng Đại Việt Cách Mạng tổ chức để phản đối Thủ tướng Nguyễn Khánh trong việc tranh chấp quyền lực giữa lãnh tụ đảng này với Thủ tướng Nguyễn Khánh.

Kẻ tổ chức cuộc biểu tình này là Lê Đình Cai, đặc trách Thanh niên, Sinh viên Học sinh của Đảng này tại miền Trung vì thiếu tổ chức và lãnh đạo cho nên sự việc đã xảy ra như sau: Đám biểu tình được hướng dẫn qua một khu dân cư, một bên kia là khu các bar, các room-for-rent cho lính Mỹ thuê ở. Đám biểu tình bị các cô bán bar trêu ghẹo diễu cợt. Một số người biểu tình phản đối, đấu khẩu, một số lấy đá ném các cô. Các cô ấy hoảng hốt kêu cứu các ông bạn Mỹ. Những người Mỹ này tưởng lầm bị biểu tình tấn công, lấy súng bắn. Dân biểu tình hoảng hốt dạt về phía bên làng Công giáo. Vốn sẵn mặc cảm bị đàn áp sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ, nhưng người dân nơi đây tưởng là đám biểu tình tấn công, nên họ đã nổ súng vào đám biểu tình khiến có người chết và người bị thương. Quân đội và Cảnh sát phải đến can thiệp và đòi giải giới dân Thanh Bồ Đức Lợi. Họ không chịu. Quân đội phải nổ súng thị uy và tiến vào. Trong lúc đó, một số nhà bị cháy, một số do chính dân trong khu đốt để vu cáo cho quân đội theo phe biểu tình đàn áp họ. Tướng Nguyễn Chánh Thi là người biết rõ vụ này. Ngoài ra, một nạn nhân khác của vụ Thanh Bồ Đức Lợi đã viết sách có nói đến vụ này, đó là nhà văn Lệ Hằng và quyển “Bản Tango Cuối Cùng”, sách đã được tái bản ở Hoa Kỳ. Tác giả là người Công giáo và ở Thanh Bồ Đức Lợi. Phật tử Huế cũng như Hoàng Văn Giàu không dính líu gì đến vụ này”.

Tiến sĩ Quán Như Phạm Văn Minh tại Úc châu, trực tiếp hỏi chuyện lịch sử Hòang Nguyên Nhuận (tức Hòang Văn Giàu), còn lưu lại trên Website tại địa chỉ: www.giaodiem.com/doithoai/phongvanhvg.htm
    Phỏng vấn Hoàng Nguyên Nhuận

    Quán Như thực hiện

    H. Tại sao anh chọn Phật Giáo làm điểm hoạt động? Tại sao không chọn một đảng phái nào khác như Quốc Dân Đảng hay Đại Việt?

    Đ. Và cả Đảng Cộng Sản cũng như Đảng Cần Lao Nhân Vị nữa chứ. Tôi có thể trả lời anh ngay là tôi không tiên quyết chống đảng nào nhưng tôi cũng không theo đảng nào vì tôi nghĩ đạo Phật cũng đủ là khởi điểm dấn thân.

    Tín ngưỡng là lựa chọn và là điểm tựa tối hậu cho tôi. Đã hẳn, không phải hành động hay quyết định nào của chúng ta cũng có thể giải thích trọn vẹn như giải một bài toán. Vì nói theo chữ nhà Phật thì bất cứ chọn lựa nào cũng do trùng trùng duyên khởi. Tuy nhiên, cụ thể tôi phải nhận là trực giác tín ngưỡng, hoàn cảnh, giáo dục thường đóng một vai trò quan trọng đối với quyết tâm dấn thân của tôi.

    Ước vọng giải nghiệp và chủ hòa của tôi đã khiến tôi không có duyên nợ với những đảng phái hữu danh đương thời, chứ không phải vì định kiến chủ thuyết hay ý thức hệ. Tôi có cảm tưởng Hồ chí Minh và Ngô đình Diệm đã gài nhau vào thế một còn một mất, không bên nào có một dấu hiệu khoan hòa thiết thực cụ thể nào cả. Họ bị Chiến Tranh Lạnh lợi dụng hơn là lợi dụng Chiến Tranh Lạnh để làm lợi cho Việt Nam.

    Tôi có dịp giao tiếp với một số đồ đệ của Nguyễn thái Học còn sống sót qua các trận càn quét của Pháp, của Hồ chí Minh và của Ngô đình Diệm. Họ họ không có một đường lối nào khả dĩ thoát khỏi cái gọng kìm oan nghiệt của ông Hồ, ông Ngô tạo ra cho họ và cũng không có một chủ trương chính sách nào thiết thực để lôi dân tộc khỏi vũng lầy Quốc-Cộng do Chiến Tranh Lạnh đào sâu thế nhưng vẫn bị cả ông Hồ lẫn ông Ngô xem như kẻ thù. Tôi có cảm tưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Đại Việt chỉ còn là đảng của những thánh tử đạo chính trị chứ không phải là đảng của hiện tại hướng về tương lai.

    Về phương diện lịch sử, Phật giáo hấp dẫn tôi vì Phật giáo tự lập, không vọng ngoại, không nhuốm màu sắc ý thức hệ, có truyền thống gắn bó với đất nước, được đa số quần chúng theo, và được thiện cảm của những quốc gia và thành phần chủ hòa, không liên kết trên thế giới.

    Lại nữa, nói đến duyên nghiệp trùng trùng và những liên hệ gắn bó giữa đời mình với Phật giáo thì biết đâu chỉ vì kiếp trước tôi đã vào chùa chọc phá các nhà sư, ăn cắp bánh chuối, phá hoại cây cảnh trong chùa nên kiếp này phải làm Ông Ác đứng ngoài cổng chùa để sám hối? Vâng, biết đâu...

    H. Ý thức chính trị nhen nhúm thế nào trong anh?

    Đ. Tôi mới một tuổi thì thế chiến thứ hai bùng nổ. Rồi lần lược với tuổi đời, tôi thấy Nhật đến bắt Pháp, rồi Tàu đến đuổi Nhật, rồi Việt Minh, rồi Pháp trở lại đi lùng Việt Minh và hành hạ bắn giết người Việt. Chiến tranh Cao Ly và sản phẩm thời thượng của Chiến Tranh Lạnh là những chế độ độc tài ở Nam Mỹ, Phi châu và Á châu cũng là những băn khoăn chính trị đối với tôi. Hoàn cảnh đã dạy cho tôi mang máng không thích ba chuyện: chiến tranh, bị trị và độc tài.

    Rồi chiến tranh chấm dứt, đất nước chia đôi. Dĩ nhiên ở Miền Nam, không phải chỉ mình tôi mang máng không thích ba chuyện đó và âm thầm cầu mong người Việt đừng đối xử với nhau như kẻ thù. Mới đầu, tôi nghĩ Ngô đình Diệm muốn làm chuyện đó trên căn bản một chính quyền tự chủ và cởi mở. Nhưng đến khi ông đơn phương chấm dứt hiệp thương Nam Bắc theo Hiệp Định Genève và lạm dụng hai chữ Việt Cộng để ồ ạt phát động chiến dịch Tố Cộng mà phần lớn là nhắm đánh các giáo phái và thành phần cựu kháng chiến không chịu theo ông Hồ ra Bắc thì tôi thấy không còn hy vọng gì nữa.

    Thất vọng đó còn tăng dần khi tôi nghĩ rằng ông Diệm muốn Ky-tô giáo hóa Miền Nam thành một nước như Phi Luật Tân và dùng Miền Nam như một tiền đồn chống Qủy Đỏ theo chính sách đương thời của Giáo Hoàng Pius XII. Tôi còn nhớ cái cảnh năm 1959, Hồng Y Agagianian - Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền của Vatican sang Việt Nam năm 1959 để chủ tọa Đại Hội Thánh Mẫu kỷ niệm 300 năm Ky-tô giáo đến Việt Nam, vinh thăng nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn lên hàng Vương Cung Thánh Đường và chứng giám cho anh em ông Diệm đem nước Việt Nam dâng cho Bà Maria. Thời này, Vatican vẫn chưa cho Ky-tô giáo ở Việt Nam hưởng quy chế giáo hội, nghĩa là vẫn còn là một bộ phận trực thuộc khối Thừa Sai hải ngoại của Vatican. Nói thế khác, quyết định dâng Việt Nam cho Đức Mẹ là một quyết định của Vatican chứ không phải của người Ky-tô Việt thông qua giáo hội bản địa.

    Một điểm duyên nghiệp khác tưởng cũng nên nhắc lại ở đây. Năm 1954, khi hòa bình Genève đến thì tôi mới 16 tuổi. Đầu năm đó, gia đình hứa đến hè sẽ cho tôi đi Hà Nội thăm 36 phố phường tôi hằng mơ ước qua sách vở. Hòa bình Genève đập tan dự định đó và Miền Bắc trở thành một thứ đất hứa lãng mạn xa vời của tôi. Đây là một trong những lý do tại sao mười năm sau tôi chống oanh tạc Bắc Việt, tại sao tôi âm thầm dai dẳng ôm ấp ước vọng tái thống nhất đất nước. Tội nghiệp tôi là giấc mơ Hà Nội đến nay vẫn còn là cơn mộng dài ngót nửa thế kỷ. Hòa bình thống nhất xong, tôi lại đi ở tù, tù ra thì vượt biên. Hai mươi năm rồi tôi chưa về thăm nhà, nói chi chuyện thăm Hà Nội.

    H. Anh thường nhắc đến mấy chữ trả nợ đời và giải nghiệp? Về tín ngưỡng, anh nguyện giải nghiệp; về tư tưởng, anh hô hào giải hoặc; về lịch sử, anh chủ trương giải thực. Có phải ba điều nầy bao giờ cũng ăn khớp với nhau không, và đâu là thứ tự ưu tiên của ba điều ấy?

    Đ. Người ta khác nhau không phải vì chạy theo hạnh phúc, người ta chỉ khác nhau về cách hiểu hạnh phúc là gì và làm thế nào để đạt hạnh phúc đó. Hạnh phúc của người Phật tử là tu hành để giác ngộ giải thoát. Truyền thống tu hành của người Phật tử Việt Nam là tự giác nhi giác tha và Phật pháp không rời thế gian, nghĩa là cùng tu và cùng giải thoát với đồng bào đồng loại. Phật tại tâm nên có người là có Phật, và có người Việt Nam là có tổ quốc Việt Nam. Đạo pháp và dân tộc là hai điều không thể tách rời. Truyền thống tự giác nhi giác tha của người Phật tử Việt Nam khởi từ thời đấu tranh tự chủ Trưng Vương qua Tiền Lý, Ngô, Đinh, Tiền Lê đến thời cũng cố tự chủ Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn Tây Sơn, rồi thời chống Pháp với Văn Thân, Cần Vương. Thời hiện đại là phong trào hiện đại hóa Phật giáo Việt Nam khởi từ thập niên 20 mà điểm cao là phong trào vận động tự do tín ngưỡng và bình đẳng xã hội soi sáng bởi ngọn đuốc Quảng Đức năm 1963.

    Ít nữa là cho đến thời chúng tôi thì nghiệp báo hay nợ nần lịch sử mà Việt Nam phải gánh chịu là thực dân và những tư tưởng huyễn hoặc bản địa hay ngoại nhập. Do đó, giải nghiệp trước tiên là chống những tư tưởng huyễn hoặc hay giải hoặc, và chống thực dân hay giải thực. Khổ đế hiện đại của người Việt không chỉ là cảnh kẻ ăn không hết kẻ mần không ra, cá lớn nuốt cá bé, con vua thì lại làm vua mà còn là mất tự chủ, và kình chống nhau vì uống lầm những thuốc độc ý thức hệ nhập cảng. Cho nên, giải thực và giải hoặc cũng chính là góp phần thực hiện độc lập quốc gia, hòa bình dân tộc và cách mạng xã hội. Tôi trộm nghĩ đó là con đường tự giác nhi giác tha của người Phật tử trong hoàn cảnh và thân phận của thế hệ chúng tôi.

    H. Đem mục tiêu tín ngưỡng là giải nghiệp buộc vào những mục tiêu chính trị như vận động hòa bình, độc lập và cách mạng xã hội có phải là đã sa vào cái hố tôn giáo hóa chính trị, nhập nhằng quốc gia và giáo hội, sa vào cái bẫy độc tôn độc thiện của Âu Châu thời Trung Cổ không?

    Đ. Tình trạng nhập nhằng đạo và đời, thế quyền và thần quyền đó là điều người Phật tử phải hết sức đề cao cảnh giác. Tình trạng nhập nhằng đó là nguyên nhân sa đọa tâm linh. Giúp cả nhân loại mà đánh mất chính mình thì có ích gì? Lằn mức phân định giữa minh quân và bạo chúa, giữa hạnh nguyện và cuồng vọng, giữa thiện chí và ác tâm, giữa bố thí và tham lam là một lằn mức mong manh gang tấc. Tham vọng thần quyền cũng rất dễ đưa con người phản lại nhu cầu thế trị là dân chủ tự do. Chủ trương dĩ ngoại trị ngoại có thể đúng nhưng dĩ độc trị độc vẫn có thể khiến người ta vô tình bị ngộ độc chí tử. Hội chứng không đội trời chung giữa cộng sản - tư bản, giữa quốc - cộng ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là bằng chứng. Chủ nghĩa xã hội nguyên là một chủ trương bài trừ ma tuý có lúc đã trở thành ma túy. Chủ nghĩa quốc gia là một thứ giả dược do thực dân Pháp sáng chế và đã được Vatican ban phép lành trở thành một thứ linh dược chống cộng. Chống cộng sản là chống quỷ đỏ, theo cộng sản là lạc đường xuống hỏa ngục, ngay cả với những kẻ không hề chịu phép rữa tội, không hề chấp nhận hỏa ngục thiên đàng.

    Để khỏi đánh mất chính mình trên đường dấn thân thế trị, người Phật tử phải nhớ hai điều. Thứ nhất, Phật Thích Ca đã bỏ thế quyền để làm thầy, chứ không để làm vua. Thứ hai, ý thức hệ và các định chế chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp chỉ có tác dụng ngăn con người lún sâu vào đường ác chứ không làm cho con người trở nên tốt lành thánh thiện. Giác ngộ tâm linh mới làm cho con người trở nên tốt lành thánh thiện. Giác ngộ là thành quả của tâm linh tự do, tự lực, biết tự thắp đuốc lên mà đi, biết bỏ thuyền bè khi đã đến bờ bên kia. Tâm linh chứ không phải tín lý tín điều, tín ngưỡng chứ không phải tôn giáo. Tín lý tín điều là sự sa đọa của tâm linh, cũng như tôn giáo là sự sa đọa của tín ngưỡng.

    H. Khi theo đuổi mục tiêu Độc Lập Quốc Gia - Hòa Bình Dân Tộc - Cách Mạng Xã Hội, người Phật tử thế nào cũng phải đối đầu với những thế lực cản đường, làm sao để vượt được trở ngại đó?

    Đ. Thực tế, Độc Lập, Hòa Bình và Cách Mạng là những mục tiêu thế trị trường cửu cho mọi quốc gia muốn thống nhất tự chủ, không riêng gì Việt Nam.

    Thời của tôi thì ba mục tiêu đó trở thành mục tiêu ngắn hạn cho Miền Nam. Một Miền Nam no ấm, tự chủ, đủ khả năng phát khởi tiến trình hòa hợp dân tộc và vãn hồi hòa bình giữa hai miền, tạo điều kiện thống nhất đất nước về sau.

    Có người dựa vào mấy chữ Việt Nam Quốc Tự để nói rằng người Phật tử chủ trương độc quyền tôn chính. Người Phật tử chẳng cần nuôi tham vọng đó. Nếu nền tảng của dân chủ là đa số thì quần chúng Phật tử - chưa kể những thành phần dân tộc chủ hòa tiến bộ khác, luôn chiếm đa số. Ý nguyện của họ là ý nguyện đa số. Chính quyền dân chủ đích thực là một chính quyền biết phát hiện rồi bám sát ý nguyện đó và tạo điều kiện cho ý nguyện đó thể hiện và tác động. Điều này giải thích tại sao chúng tôi luôn luôn chống độc tôn, độc thiện, độc tài, và luôn luôn đòi hỏi dân chủ, tự do chính trị, mỗi người một phiếu, luôn luôn vận động Quốc Dân Đại Hội, Quốc Hội Lập Hiến, Hiến Pháp...

    Trên đường tranh đấu, có khi chúng tôi cũng gặp những phản ứng mãnh liệt tàn tệ, và có thể đẩy chúng tôi đến chỗ phản ứng quyết liệt tàn tệ. Điều nguy cho người Phật tử là hận thù và bạo lực luôn luôn quyến rũ hấp dẫn nhất là khi người ta có thể lầm hiếu sát với sát nhất miêu cứu vạn thử. Nhưng vũ khí và mục tiêu thế trị của chúng tôi là tự giác, bất bạo động, hòa hợp và dân chủ. Nhờ vậy mà chúng tôi đã tránh được những hành động cũng như ý tưởng cực đoan sắt máu, ngay cả những khi thời cơ đã sẵn trong tay, như hoàn cảnh Miền Nam năm 1963, 1964, 1966 chẳng hạn. Sát nhân không phải là hành động chiến thắng. Sát nhân là một thất bại, thất bại trước những hận thù, sợ hãi của chính mình.

    H. Phong trào đấu tranh 1963 và phong trào 1966 là một diễn biến tự nhiên hay chỉ là một phong trào bột phát tự vệ?

    Đ. Thế quyền không phải là mục tiêu của Phật giáo và dấn thân chính trị chỉ là một cách giải nghiệp nên có thể nói các phong trào đấu tranh của Phật giáo đều chỉ là bột phát, nghĩa là bất đắc dĩ, nghĩa là chẳng đặng đừng.

    Các phong trào Phật giáo khác nhau về duyên khởi nhưng cứu cánh thì chỉ là một, đó là thành đạt một căn bản thế trị để giải quyết chiến tranh Việt Nam.

    Tôi không nghĩ ước vọng chấm dứt nồi da xáo thịt, chấm dứt lệ thuộc ngoại bang, hòa hợp hòa giải dân tộc là ước vọng riêng của anh chị em chúng tôi. Đa số người Việt chẳng muốn lệ thuộc ngoại nhân, chẳng ai muốn chia cắt đất nước trong một tình trạng Trịnh Nguyễn Nam Bắc phân tranh mới. Đa số cũng chỉ mong hai miền tạm thời chung sống hoà bình và hợp nhau tạo ra - hay chờ đợi, những thời cơ thuận tiện để thống nhất đất nước trong hòa bình và độc lập. Một Quốc Hội dân cử thực sự dân chủ sẽ nói lên ước vọng đó và yêu cầu cả Miền Bắc và Hoa Kỳ tôn trọng ước vọng đó. Bằng vào kết quả vận động quần chúng qua phong trào đấu tranh năm 1963, 1964 cũng như kết quả của cuộc bầu cử các Hội Đồng Tỉnh Thị năm 1965, bằng vào kết quả mặc nhiên của cuộc bầu cử Tổng Thống và Quốc Hội năm 1967, tôi nghĩ điều đó có thể làm được.

    H. Cuộc vận động 1963. Ai quyết định phát động?

    Đ. Quyết định phát động đấu tranh là một quyết định nhất trí của Phật giáo Huế, đầu não của Phật giáo Trung Phần cũng như Phật giáo toàn quốc dưới danh nghĩa Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.

    Người gánh nhiều trọng trách thực hiện quyết định nầy là Thượng Tọa Thích Thiện Minh mà chúng tôi thường thân mật gọi là Thầy Thiện Minh. Thầy là kẻ chủ động hoàn thành hồ sơ về tình trạng Phật giáo bị đàn áp khắp Miền Nam từ năm 1959 đến 1962 tại miền Trung và cao nguyên. Hồ sơ nầy là một tối hậu thư gởi chính quyền Ngô đình Diệm ngày 20.2.1962. Đáng tiếc là chính quyền đã không quan tâm giải quyết. Thứ hai, Thầy là người chủ động phát họa các mục tiêu chiến lược cho cuộc đấu tranh năm 1963 như các biểu ngữ ỏtự độngõ xuất hiện trong cuộc rước Phật sáng ngày Phật Đản 1963, và các văn kiện kế tiếp như Bản Tuyên Ngôn 5 Nguyện Vọng của Tăng Tín Đồ PGVN ngày 10.5.1963, Bản Phụ Đính "Bản Tuyên Ngôn" ngày 15.5.1963, Phụ Trương Bản Phụ Đính ngày 25.5.1963. Thứ ba, thành phần chủ lực trong cuộc đấu tranh năm 1963 là tầng lớp trẻ, như Gia Đình Phật Tử, Thanh Niên, Sinh Viên, Học Sinh, Hướng Đạo dưới sự lãnh đạo của Thầy trong chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên của Tổng Hội Phật Giáo thời gian đó. Thứ tư, Thầy Thiện Minh là trưởng phái đoàn Phật giáo trong cuộc thương thuyết với chính quyền để giải quyết các yêu sách của Phật giáo. Và sau hết, Thầy là nhân vật Phật giáo cao cấp nhất đã bị Pháp, rồi Diệm, Thiệu-Kỳ-Hương và chính quyền Hoa Kỳ dĩ nhiên, và cuối cùng là Lê Duẫn cho đứng đầu sổ đen và chết trong tù. Nỗi khổ nhục và cái chết của Thầy là dấu ấn về vị thế của Thầy trong các phong trào đấu tranh của Phật giáo hiện đại.

    H. Anh có thể nói qua những kinh nghiệm bản thân của anh về cuộc tranh đấu 1963?

    Đ. Tôi tham gia phong trào tranh đấu 1963 trong hàng ngũ Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế mà tôi đã vận động thành lập hai năm trước đó. Thực tế, phong trào Phật giáo năm 1963 chỉ kéo dài từ ngày Phật Đản tức ngày 8 tháng 5 đến ngày 20 tháng 8 là ngày chính quyền đồng loạt tấn công chùa chiền khắp nước và hốt hết những thành phần tích cực hoạt động của phong trào.

    Ngoài Đoàn SVPT Huế, chúng tôi cũng đã vận động thành lập những tổ chức khác như Học Sinh Phật Tử, Thanh Niên Phật Tử và các tổ chức Giáo Chức Phật Tử Tiểu, Trung và Đại Học. Các đoàn thể nầy tuy đã hình thành nhưng chưa có danh nghĩa chính thức, vì chúng tôi không muốn cuộc đấu tranh chỉ giới hạn trong vòng ỏPhật giáoõ. Nhờ vậy mà sau 20.8 phong trào vẫn còn sống được cho đến ngày binh biến 1.11. 1963.

    Tôi bị bắt cùng nhiều anh chị em sinh viên tại chùa Từ Đàm trong đêm Nước Lũ 20.8 và ra tù sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa cáo chung.

    H. Phong trào đấu tranh năm 1964 nhằm mục đích gì? Tại sao lại lấy tên là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc gây e ngại nghi ngờ vì chữ Cứu Quốc đã được Việt Minh dùng từ năm 1945. Tại sao không dùng chữ như phong trào đấu tranh dân chủ hay vận động Quốc Hội Lập Hiến hay Hiến Pháp?

    Đ. Phong trào 1964 phản đối Hiến Chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh. Ngoài mục tiêu chính trị là chống độc tài quân phiệt và vận động dân chủ tự do, phong trào nầy còn có một ẩn số quan trọng đó là chống đối chủ trương biến chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh của Mỹ sau khi Mỹ công khai oanh tạc Bắc Việt mà không tuyên chiến.

    Phong trào này phát khởi vào đêm 20.8.1964 là đêm thanh niên sinh viên học sinh Huế tổ chức đêm không ngủ để tưởng niệm cuộc tấn công chùa chiền của chính quyền Ngô đình Diệm cùng đêm năm trước. Bài diễn văn của Vĩnh Kha, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Huế hôm đó có đoạn đòi hỏi Miền Nam phải chủ động chiến tranh cũng như hòa bình. Đại đa số thanh niên sinh viên học sinh không ai ủng hộ cuộc oanh tạc Miền Bắc cả. Phong trào lan nhanh đến các tỉnh, vào tận Sài Gòn buộc Nguyễn Khánh hủy bỏ Hiến Chương Vũng Tàu và hứa hẹn thực hiện dân chủ. Tội cho Nguyễn Khánh là khi ông từ bỏ tham vọng độc tài quân phiệt thì Mỹ cũng quyết định từ bỏ ông luôn vì ông đã hết là cái bình phong cho dự tính Mỹ hóa chiến tranh.

    Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là một biến tướng chính trị khởi phát từ phong trào chống Hiến Chương Vũng Tàu của thanh niên sinh viên học sinh, do những thành phần cao niên, những bậc đàn anh của chúng tôi lập ra. Thanh niên sinh viên học sinh chúng tôi mặc nhiên chấp nhận vai trò chính trị của phong trào nầy như là một chuẩn bị để đáp ứng những diễn biến chính trị khả hữu khi Nguyễn Khánh nhượng bộ hay rút lui. Chúng tôi không có tham vọng và cũng không có khả năng kiểm soát hay gây ảnh hưởng đối với phong trào HĐNDCQ dù cá nhân tôi không phải là không có lúc băn khoăn về mấy chữ Nhân Dân Cứu Quốc. Tôi tự trấn an rằng có lẽ các bậc đàn anh đã chọn cụm từ ấy vì hoài niệm lịch sử hay ao ước lấy lịch sử làm vật xúc tác để tìm ra một giải pháp cho cuộc chiến Việt Nam? Đã hẳn, nếu có cơ duyên tham dự việc chọn lựa tên gọi thì tôi sẽ đề nghị tên khác, thay vì mon men lại gần cái tabou lịch sử đó.

    Nhưng điều tôi quan tâm khôn phải là danh nghĩa. Vấn đề là ở Mỹ và Bắc Việt. Điều quan trọng là thuyết phục Mỹ và Bắc Việt chấp nhận một giải pháp ít tốn kém xương máu và tâm sức cho vấn đề Việt Nam. Cách thuyết phục thiết thực nhất là cho họ thấy rõ nguyện vọng của dân chúng Miền Nam mà tôi nghĩ rằng đa số đang chia sẽ những tâm niệm như chúng tôi là hoà bình, tự chủ và dân chủ. Phật giáo đủ tư cách để làm chuyện đó.

    Những bậc cao niên đã không hoàn thành được chuyện đó nên năm 1965 rồi 1966 bọn trẻ chúng tôi lại phải làm nữa. Bài học mà tôi rút tĩa được là phong trào HĐNDCQ lan khắp Miền Nam một cách nhanh chóng - ít nữa cũng vào tận Sài Gòn và lên tận cao nguyên, cho phép tôi nghĩ rằng nếu có mục tiêu chính đáng thì chúng tôi có thể tạo hiện tượng vết dầu loang một cách dễ dàng để theo đuổi mục tiêu đó. Đây cũng là một nỗi ám ảnh nặng nề với bất cứ Phật tử hữu tâm nào khi họ thấy rằng Phật giáo thực sự thiếu cán bộ để chu toàn những mục tiêu thế trị khả hữu khi có cơ duyên. Cũng cố và phát triển hệ thống Trung Học Bồ Đề, Đại Học Phật giáo, kế hoạch đào tạo tăng tài trẻ, đào tạo cán bộ chính trị, hành chánh quản trị là những dự án được thai nghén thiết thực phát xuất từ lo âu đó.

    H. Phong trào năm 1965 nhằm mục đích gì?

    Đ. Phong trào 1965 lấy dân chủ chính trị để ngăn độc tài quân phiệt. Không dùng được Nguyễn Khánh nầy, người Mỹ sẽ tìm Nguyễn Khánh khác để vác cờ tiên phong hô hào Mỹ hóa chiến tranh và chiến thắng quân sự. Phong trào 1965 là phong trào chống lại mưu định đó bằng cách yêu cầu quân đội hãy lo đánh giặc và trả chính trị lại cho dân sự. Phong trào nầy dừng lại khi Bác Sĩ Phan huy Quát lên làm Thủ Tướng.

    Lần nầy chúng tôi không phó mặc cho các bậc cao niên nữa. Chúng tôi trực tiếp đón Thủ Tướng Phan huy Quát về Huế bằng cuộc biểu tình vĩ đại và yêu cầu ông mấy điều. Thứ nhất, làm bất cứ điều gì có thể làm để chấm dứt chiến tranh; thứ hai tái lập Hiến Pháp và Quốc Hội để ngăn chận cái tệ nạn làm chính trị bằng súng đạn như hai năm qua. Chúng tôi hứa là sẽ ủng hộ ông trong chức vụ Thủ Tướng cũng như nếu ông có quyết định ra ứng cử Tổng Thống sau nầy. Chúng tôi cũng lưu ý ông một chuyện là Bùi Diễm, đang làm Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng cho ông. Chúng tôi gọi thẳng Bùi Diễm là một playboy Mỹ con, nếu cần sẽ phản ông như Brutus phản Ceasar. Ông bảo ông coi Bùi Diễm như con cháu trong nhà và được ủy thác của những người đã khuất phải bảo bọc nâng đỡ Bùi Diễm. Nghe ông nhắc đến chuyện tình cảm, chúng tôi không nói nữa dù trong bụng vẫn lo. Thủ Tướng Quát định triệu tập quốc hội lập hiến dưới danh nghĩa quốc dân đại hội đặt nền tảng cho một chính quyền dân sự dân chủ. Nhưng ông đã gặp ba trở lực chí tử. Thứ nhất, đa số chính quyền Hoa Kỳ ở Washington cũng như Sài Gòn đều tin vào chiến thắng quân sự nên họ không hài lòng vì thấy ông không hăng hái leo thang chiến tranh. Thứ hai, đa số tướng lãnh người Việt chỉ thích quyền lực dù phải bán linh hồn cho Mỹ và sợ rằng Thủ Tướng Quát muốn loại ảnh hưởng chính trị của họ. Thứ ba, thành phần chủ lực của chế độ cũ cho là ông quá thân Phật giáo và sau hai năm yên bụng vì thấy thiên hạ đã phần nào bỏ qua chuyện "chế độ cũ", những thành phần nầy đã bám vào thế lực chủ chiến trong chính quyền Mỹ và các tướng lãnh Việt Nam để ngoi lên lại. Trước những áp lực và phá hoại ngầm đó, Thủ Tướng Quát đã lùi một bước hoãn bầu cử quốc hội lập hiến và chỉ bầu cử Hội Đồng Tỉnh Thị toàn quốc. Chúng tôi đồng ý với Thủ Tướng Quát là thực hiện việc bầu cử Hội Đồng Tình Thị toàn quốc làm bước đầu tiến lên Quốc Hội Lập Hiến. Đây là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên sau khi Ngô đình Diệm đổ và là cuộc bầu cử tự do duy nhất ở Miền Nam cho đến ngày Việt Nam Cộng Hòa tiêu vong. Những liên danh Hoa Sen và những thành phần thân Phật giáo đã thắng khắp nơi.

    Thủ Tướng Quát cuối cùng đã ngã quỵ vì ba thế lực - chủ chiến Mỹ, tướng lãnh tham quyền và tàn dư chế độ cũ, hùa nhau khai thác những mâu thuẩn giữa ông và Quốc Trưởng Phan khắc Sửu. Thành phần nòng cốt của chế độ cũ là lực lượng Hố Nai của Linh Mục Hoàng Quỳnh nhảy vào gây hỗn loạn, tạo cơ hội cho Bùi Diễm hiến kế ve sầu thoát xác bằng cách xúi dục Thủ Tướng Quát tạm thời rút lui nhường quyền cho các tướng lãnh dẹp loạn xong thì trao quyền lại ông. Thủ Tướng Quát nghe lời Diễm vô tình để cho Hội Đồng Quân Lực của Thiệu-Kỳ cướp quyền một cách danh chính ngôn thuận. Thầy Thiện Minh đã cố gắng vào phút chót khi Hội Đồng Quân Lực họp để chấp nhận sự từ chức của Thủ Tướng Quát nhưng đã muộn. Trên danh nghĩa, Diễm mất chức Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng trong chính phủ Quát nhưng bù lại đã được thưởng công bằng chức Đại Sứ tại Mỹ trong nội các của Nguyễn cao Kỳ. Thất bại của Thủ Tướng Phan Huy Quát đã làm kiên định thêm ý nghĩ của tôi rằng Quốc Dân Đảng hậu Nguyễn Thái Học chỉ là đảng của những thánh tử đạo mà thôi.

    H. Vụ Miền Trung 1966. Có phải chỉ vì Tướng Thi hay các anh định dùng vụ này để cắt đất ly khai?

    Đ. Phong trào đấu tranh 1966 hay còn gọi là Vụ Miền Trung. Chúng tôi bị kết án là chỉ vì Tướng Nguyễn chánh Thi mà suýt gây ra nội chiến. Thực tế, Tướng Thi bị cất chức và phong trào của chúng tôi là hai điều khác biệt.

    Sau khi Thủ Tướng Phan Huy Quát bị Bùi Diễm cho leo cây, và quân nhân trở lại chính quyền với Thiệu-Kỳ, chúng tôi im lặng chờ xem và thầm lặng cũng cố và phát triển những thành quả của hệ thống Hội Đồng Tỉnh Thị dân cử với mục đích làm áp lực tân chế độ thực hiện dân chủ, tạo cơ hội tiếp tục con đường dùng cách mạng chính trị để theo đuổi tự quyết quốc gia và hòa bình dân tộc.

    Vì lo ngại Thiệu trở thành thế dựa cho tàn dư của chế độ cũ khai thác chiêu bài chủ chiến đấu thầu chống cộng để trồi lên lại nên một mặt chúng tôi tỏ cho Nguyễn cao Kỳ và Nguyễn chánh Thi là chúng tôi không có ác cảm gì với họ và cũng chẳng chống đối những vận dụng quyền lực của cả hai trong tương lai. Sau khi Kỳ được chỉ định làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tôi và anh Bùi Tường Huân đã cất công vào Tân Sơn Nhất gặp Kỳ. Qua câu chuyện, tôi có lưu ý Kỳ về âm mưu dùng người Việt làm Lê Chiêu Thống để Mỹ hóa chiến tranh của Mỹ và khổ nhục kế xấu mồi ngồi dai của Thiệu. Kỳ trả lời là không bao giờ Kỳ làm đầy tớ Mỹ, rằng Kỳ sẽ thực hiện lý tưởng cách mạng 1963 là dân chủ tự do. Kỳ quả quyết đủ sức cho Thiệu ở là ở, bảo Thiệu đi là đi vì Kỳ tự nhận mình là cái dù che chở nắng mưa cho Thiệu. Tôi nói đùa: Thiếu Tướng coi chừng, ông là cái dù nhưng Thiệu tìm cách làm cái cán thì phiền đó. Tôi nghĩ Kỳ thấy được thiện chí của chúng tôi, cho nên trước khi hoàn thành nội các chiến tranh Kỳ đã nhờ Phạm văn Liễu ra Huế bốc chúng tôi vào Sài Gòn tham khảo ý kiến. Gia chủ cho cuộc họp này là anh Ngô Trọng Anh. Anh Ngô Trọng Anh và anh Bùi Tường Huân đã đồng ý tham gia nội các của Kỳ. Phần tôi, tôi có việc làm của tôi và phải kính trọng các bậc đàn anh như tránh đường cho các con voi già nên đã cố đứng ngoài. Phạm văn Liễu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, là người giao liên giữa Kỳ với Thi, giữa Kỳ và phe tranh đấu Miền Trung trong khi anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt là người giao liên giữa phe tranh đấu Miền Trung với Thi.

    Thế đó, nhưng sau khi đi gặp Tổng Thống Johnson ở Honolulu về thì Kỳ đổi giọng không còn chuyện mỗi người một phiếu nữa mà phải giáo dục chính trị cho dân thật thấm nhuần dân chủ tự do đã rồi mới cho dân đi bầu. Bộ máy huấn luyện dân chủ cho dân của Mỹ và Thiệu-Kỳ nói đến là Xây Dựng Nông Thôn, là Dân Ý Vụ, những tấm bình phong của kế hoạch Phụng Hoàng. Số phận dân chủ ở Miền Nam ra sao, mọi người đã rõ.

    Tuy khó chịu nhưng chúng tôi không phản ứng vội. Kỳ đang như người đội nón rơm chữa lữa, chống Kỳ thì chỉ có lợi cho Thiệu và Thiệu mới là kẻ đáng ngại, bởi sau lưng Thiệu là tàn dư chế độ cũ đang tập họp lại.

    Cuộc tranh chấp quyền lực giữa Thi và Kỳ xảy ra. Lý do chính là vì Tướng Thi không được mời tham dự hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Việt ở Honolulu nên bắt đầu cay cú với Thiệu-Kỳ và cả Mỹ nữa. Phạm văn Liễu thân cả hai bên cố dàn xếp nhưng không xong. Thi được lòng quân nhân và công chức Vùng I Chiến Thuật nên khi Thi bị Kỳ cất chức Tư Lệnh Vùng thì quân nhân công chức vùng lên phản đối. Đó là phản ứng của các quân nhân công chức trong vùng, anh chị em chúng tôi không dính đến. Chúng tôi cũng đã cố cứu Tướng Thi khỏi rơi vào bẫy mà không được. Vì tình riêng, tôi đã theo lời yêu cầu của Phạm văn Liễu can thiệp với Mỹ để cứu Thi về Huế, sợ để Thi bị giam ở Sài Gòn hay Đà Lạt, Vũng Tàu... thì Thi có thể bị ám hại. Vì tội nghiệp Thi cũng như nễ lời yêu cầu của Liễu nên tôi đã nhân danh phát ngôn viên bảy Hội Đồng Tỉnh Thị dân cử Miền Trung can thiệp với Tổng Thống Johnson và Đại Sứ Mỹ. Thi được thả về Huế là xong việc. Thế thôi.

    Thi về Huế rồi nhưng phong trào phản đối việc cất chức Thi vẫn còn và có vẻ lên mạnh nữa mặc dù mục tiêu rất yếu. Chúng tôi nhảy vào chủ động biến phong trào phản đối Kỳ của quân nhân Vùng I thành phong trào vận động dân chủ, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến mà mục tiêu vẫn là dùng chính trị - nghĩa là dân chủ tự do, để vận động tự quyết quốc gia và hòa bình dân tộc. Trọng điểm đấu tranh lần nầy là chống Mỹ hóa chiến tranh và cố gắng cụ thể hóa một giải pháp chấm dứt chiến tranh, trước hết là chiến tranh ở Miền Nam .

    H. Chấm dứt chiến tranh như thế nào?

    Đ. Cuộc vận động của chúng tôi công khai thì nói chuyện hòa bình dân chủ, Hiến Pháp, nhưng thực chất là nhằm vận động dư luận cho ba điểm. Một, tạm thời Nam Bắc làm hòa để có lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam cái đã. Bằng không Mỹ quậy thì tan nát hết. Hai, Miền Nam trung lập trong vòng 20 năm để tránh hơi nóng của Chiến Tranh Lạnh, và moi viện trợ của bất cứ của ai có thể moi được. Thứ ba, Nam Bắc hiệp thương đi đến một Liên Bang Cộng Hòa Dân Tộc Dân Chủ Xã Hội gồm ba miền Bắc, Trung, Nam hoặc một Liên Bang Cộng Hòa Đông Dương gồm 3 miền Việt Nam và Cambốt, Lào như thời Pháp. Tôi muốn ỏcướpõ Quốc Hội để nói chuyện này một cách công khai dứt khoát, nghĩa là đặt viên gạch lót đường cho những người đi sau giải quyết vấn đề Việt Nam. Thí nghiệm các liên danh Hoa Sen trong cuộc bầu cử Hội Đồng Tỉnh Thị năm 1965 là một giai đoạn thao dượt để chuẩn bị cướp Quốc Hội này đó.

    Tôi nghĩ rằng nếu nhiếp hợp được Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay những thành phần có khuynh hướng tương tự - nghĩa là thuyết phục được người Nam chấp nhận một giải pháp hòa hợp hòa giải thì có thể mở đường cho Mỹ giải kết rút lui mà không bị mang tiếng thua trận, có thể chấm dứt chiến tranh, cứu vãn Miền Nam và thực hiện được hiệp thương hoà bình Nam Bắc trong khi chờ đợi thời cơ thuận tiện để tái thống nhất đất nước. Tôi nghĩ rằng, đa số những thành phần cựu kháng chiến đã ly khai Việt Minh hay đã rửa tay gát kiếm sau 1954, những thành phần cán bộ được gài lại để chuẩn bị Tổng Tuyển Cử 1956, những thành phần chủ hòa, tiến bộ hay khuynh tả không cộng sản ở Miền Nam, những thành phần Ky-tô giáo ôn hòa tiến bộ đều có ý nguyện đó. Mặt khác, thật khó mà quả quyết rằng những thành phần nầy đều bị Bắc Việt mua chuộc lợi dụng hết. Trong hoàn cảnh xa xôi vạn dặm, lại nghèo khổ, ăn bom hằng ngày như thế thì Bắc Việt lấy gì mà mua chuộc, lợi dụng những thành phần đó? Lại nữa, nếu Bắc Việt đã như thế mà làm được thì tại sao Miền Nam lại không làm được?!

    H. Có những điều không sáng tỏ và đã trở thành mục tiêu để người ta công kích anh như vụ đem bàn thờ Phật xuống đường, vụ Thanh Bồ, các hành động chống Mỹ như đốt xe, đốt phòng thông tin, thư viện, đòi Mỹ rút quân... Hypothetically nếu làm lại thì theo anh nên làm thế nào?

    Đ. Vụ Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẳng, chuyện đốt xe Mỹ ở Sài-Gòn, đốt Phòng Thông Tin, Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, khẩu hiệu "US Go Home", bàn thờ Phật xuống đường ... là những điều vẫn thường được khai thác như bằng chứng để lên án cá nhân tôi cũng như phong trào sinh viên tranh đấu là quá khích, là thánh chiến, là thân Cộng...

    Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng là một biến cố xảy ra ngoài ý muốn của chúng tôi và cũng không do chúng tôi tự ý gây ra trước. Sự việc xảy ra là vì giáo dân trong vùng đã bị tẩy não nên quá lo sợ sẽ bị trả thù. Họ đã phản ứng quá đáng rồi gây đổ máu vì trong tay họ sẵn súng đạn mà họ đã thủ đắc một cách hợp pháp qua chính sách Ấp Chiến Lược và âm mưu thành lập các đặc khu yễm trợ cho chiến dịch xâm nhập Miền Bắc của Mỹ. Giáo dân trong vùng đã nổ súng và ném lựu đạn vào đoàn biểu tình tay không. Lệ Hằng đã nói lý do nào gây ra vụ này trong quyển Bản Tango Cuối Cùng. Lệ Hằng là người Thanh Bồ Đức Lợi và đã sống ở đó trong thời gian xảy ra vụ nầy. Tướng Thi lúc đó là Tư Lệnh Khu XI Chiến Thuật hẳn cũng còn nhớ vụ này khi ông cho lệnh tước khí giới của những toán dân quân tự vệ trong Thanh Bồ.

    Xe Mỹ bị đốt chỉ xảy ra ở Sài Gòn. Ở Huế thì Phòng Thông Tin và sau đó là tòa Lãnh Sự Mỹ đã bị đốt phá. Tôi không chủ trương cũng không phát động việc này, chỉ vì tôi không muốn bạo động, thế thôi. Cũng không thể nói là cộng sản nằm vùng len lỏi vào phong trào tranh đấu để làm việc nầy vì bằng chứng cụ thể là sau 1975, trong phong trào báo cáo kể công, không một ông bà cộng sản nào kê khai thành tích nầy, một vài sinh viên sau nầy chạy qua bên kia cũng chưa bao giờ dám khoe thành tích đốt nhà đốt xe Mỹ cả. Vì thực tế họ không làm, họ không dám làm. Các cơ quan an ninh Mỹ Việt hồi đó biết rõ là tay chân của Mỹ và những người muốn phá hoại uy tín của phong trào đấu tranh của Phật giáo đã làm chuyện nầy để biện minh cho việc Mỹ lựa chọn Thiệu-Kỳ và để biện minh cho việc Thiệu-Kỳ triệt hạ phong trào Miền Trung 1966. Một vài Phật tử chính hiệu cũng bị sa vào bẫy bạo động tai hại này mà không hay.

    Phản đối những điều sai lầm của chính quyền Mỹ ở Việt Nam cách nào đi nữa thì cũng là phản đối. Đa số những người Mỹ ở Việt Nam đã hành xử như cha ông họ trong phong trào Tây tiến diệt Da Đỏ thuở trước. Phải có một cách gì để nói lên sự sai trái đó. Trút những giận hờn bất mãn lên xe cộ, cơ sở của họ cũng có thể là một cách. Còn hơn là bạo hành với họ ngoài đường phố. Còn hơn là uất ức chạy qua phía bên kia cầm súng đánh nhau. Nguyễn cao Kỳ còn gọi Đại Sứ Mỹ Bunker là Thái Thú thì còn bằng mười đốt nhà đốt xe Mỹ.

    Tôi không chống nước Mỹ, tôi cũng không chống chính quyền Mỹ vì chủng tộc, tôn giáo hay vì ý thức hệ, hay vì nhiệm vụ quốc tế, vì giai cấp. Tôi chống những sai lầm của chính quyền Mỹ ở Việt Nam. Chống cộng không phải là tuyệt đối phục tòng Mỹ, cho là cái gì Mỹ làm cũng đúng. Không chống những sai lầm của Mỹ ở Việt Nam thì lấy gì mà chống cộng?! Chẳng lẽ chống cộng vì đã làm bồi Mỹ hay để làm bồi Mỹ!? Việt tính hay nhân cách Việt Nam đồng nghĩa với tự quyết, tự do. Đánh hay đàm, đàm hay đầu hàng, chiến thắng hay chiến bại, đàng nào thì người Việt cũng phải chủ động.

    H. Có bao giờ anh cố gắng nói thẳng cho người Mỹ biết như vậy không?

    Đ. Có chứ. Đầu năm 1965, qua lời yêu cầu của người bạn quen là J. Negroponte, Lãnh sự Mỹ ở Huế, tôi có gặp Henry Kissinger hai lần. Lần trước, trong buổi dạ tiệc ở Tòa Lãnh Sự để đón chào Kissinger đến Huế, và sáng hôm sau ở nhà tôi. Hồi đó Mỹ mới đổ quân vào Chu Lai. Mấy tháng trước đó, tôi đã biết chuyện này khi Negroponte và trưởng phòng thông tin Mỹ đến gặp tôi và hỏi tôi nghĩ thế nào về chuyện lính Mỹ sẽ xài đô-la đỏ ở Việt Nam. Tôi trả lời thẳng Negroponte là không nên vì đó là một cách ăn quỵt!

    Mới vào chuyện, Kissinger hỏi ngay tôi sao lại chống việc để cho học sinh sinh viên Huế vào Đà Nẵng tặng hoa đón chào Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ vào Việt Nam? Nghĩ sao nói vậy, tôi bảo Kissinger rằng hôm đó tôi không biểu tình hô hào "US Go Home" là may rồi cớ sao phải đi đón?! Kissinger không dấu ngạc nhiên vì sự bộc trực của tôi và hỏi tại sao thì tôi giải thích rằng Mỹ đánh Bắc Việt mà không tuyên chiến, nghĩa là sẽ không có thắng bại trên danh nghĩa, muốn thì đánh, không muốn thì thôi. Chẳng có gì ràng buộc Mỹ phải chơi tới cùng cả, làm sao người ta dám tin và hết mình với Mỹ được. Tôi dịch cho Kissinger nghe một câu đồng dao:

    Bồng bồng cõng chồng đi chơi
    Đi đến lục tỉnh đánh rơi mất chồng...


    Mỹ đang cõng Miền Nam như người đàn bà trong câu hát đó. Lúc nào thì Mỹ sẽ vứt người chồng đó để đi một mình?! Cho nên, nếu Mỹ công khai đổ quân để tấn công thẳng ra Bắc và sẵn sàng đương đầu với Trung Hoa như hồi ở Cao Ly thì tôi sẽ tình nguyện làm tên lính đánh thuê đi đầu. Nếu Mỹ không làm vậy mà chỉ múa tay trong bị ở Miền Nam, biến Miền Nam thành một thuộc địa, Mỹ hóa chiến tranh và tự tung tự tác như Pháp trước đây thì làm sao người Việt còn chút tự ái tự trọng có thể ngồi yên. Sau năm 1945, Pháp trở lại Việt Nam và coi người Việt như tôi tớ hay đàn em nhỏ. Hậu quả là sau chín năm thì chúng tôi mất nửa nước. Mỹ bây giờ cũng tấp tễnh bắt chước Pháp thì bao lâu chúng tôi sẽ mất nửa nước còn lại?!

    Ngoài chuyện Mỹ không tuyên chiến mà tấn công Bắc Việt, oanh tạc Bắc Việt mà không dám đụng độ với Trung Hoa, tôi cũng dại mồm dại miệng nói cho Kissinger nghe những điều mà tôi cho là khó hiểu. Thứ nhất là giải pháp quân sự hay giải pháp chính trị? Cụ thể là tương lai Miền Nam và cách ứng phó với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Bảo rằng MTGPMN là công cụ của Miền Bắc và sổ toẹt không thèm đếm xỉa đến có phải là chủ trương thiết thực không? Nhưng Bắc Việt xa xôi, không tiền không bạc, không danh lợi mà lại ỏlợi dụngõ được MTGPMN, trong khi Miền Nam cận kề lại có đủ mọi thứ, tại sao không mua chuộc được MTGPMN? Như vậy sức sống của MTGPMN là chính trị chớ không phải tài lợi. Lại nữa, để cho MTGPMN nổ súng tự khai sinh rồi mà lại không tìm cách giải quyết bằng chính trị thì có đúng hay không? Thứ hai, tôi bảo Kissinger rằng tình cảnh nầy Mỹ thủ huề là thắng rồi, nhưng tôi không tin Mỹ sẽ có thể thủ huề. Kissinger hỏi sao thì tôi nửa đùa nửa thật: Người Mỹ bày ra chữ Việt Cộng để phân biệt bạn thù, cộng sản quốc gia. Nhưng quốc gia hay cộng sản thì cũng là người Việt như nhau cả. Cái làm cho họ như nhau đó là Việt tính, hay lòng yêu nước. Cái như nhau đó cuối cùng sẽ làm cho người Mỹ khó biết ai bạn ai thù. Mặt khác, người Mỹ quen lối làm việc 9-to-5, sang Việt Nam họ cũng chỉ đánh nhau 8 giờ một ngày chưa kể morning tea, afternoon tea và cách xa hậu cứ cả chục ngàn cây số thiếu thốn đủ mọi thứ. Người Việt có thể đánh nhau 24 giờ trên 24 giờ và ở ngay trên quê hương mình, cho nên ngay cả lúc họ xay lúa, trồng rau, câu cá, ngay cả lúc nghỉ ngơi, tắm táp, làm tình thì cũng coi như chiến đấu. Kissinger còn đó, Negroponte thì sau Việt Nam đã đi làm đại sứ ở một nước Nam Mỹ rồi nghe đâu là đại diện Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc. Nhưng đó không phải là lần cuối cùng tôi không có duyên với nước Mỹ.

    H. Lần cuối cùng là lần nào?

    Đ. Trong trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan năm 1980. Nhưng đó là chuyện khác, có dịp tôi sẽ trở lại sau.

    H. Xin anh trở lại chuyện bàn thờ xuống đường năm 1966. Ai quyết định và tại sao có quyết định đó?

    Đ. Bàn thờ xuống đường là quyết định quyết tử của Thầy Trí Quang sau khi biết rõ chính quyền Mỹ cũng như riêng Đại Sứ Lodge mà Thầy coi là bạn, quyết dẹp tan thế lực chính trị của Phật giáo để rãnh tay leo thang chiến tranh và theo đuổi chiến thắng quân sự. Sau khi ra lệnh cho bàn thờ xuống đường thì Thầy đến nằm vạ tại Tòa Tỉnh Trưởng Thừa Thiên tuyên bố tuyệt thực cho đến chết. Khi Huế thất thủ, Thầy bị bắt vào Sài Gòn giam lỏng tại bệnh viện Duy Tân và tiếp tục tuyệt thực tiếp cho đến khi có lệnh của Tăng Thống bảo ngưng. Kẻ đem giáo lệnh đó đến là Thầy Thiện Minh.

    Thực tế, điều tôi lo sợ nhất sau khi bàn thờ xuống đường là Thầy Trí Quang đổi ý chuyển từ quyết định tuyệt thực đến chết sang quyết định tự thiêu. Chuyện đó xảy ra thì Miền Nam - ít nữa là từ Quảng Trị vào tận Sài Gòn lên tận Đà Lạt, sẽ bốc cháy, thực sự bốc cháy. Đó là điều chúng tôi âm thầm lo sợ, thực sự lo sợ.

    Trong tình thế tuyệt vọng này, quyết định đó không hẳn là không có dụng ích. Thật vậy, những ngày đầu khi bàn thờ mới xuống đường thì bàn thờ trở thành những địa điểm để cho những thành phần Thiệu Kỳ như các toán Xây Dựng Nông Thôn, một số đảng viên Đại Việt, Quốc Dân Đảng theo Thiệu-Kỳ ra trình diện, nạp vũ khí. Rút tĩa kinh nghiệm đó, chúng tôi chuẩn bị biến các địa điểm có bàn thờ xuống đường thành những nơi để cho phe ta trình diện, giao nạp vũ khí một khi quân Thiệu-Kỳ tràn ngập Huế.

    Điều chúng tôi níu kéo để hy vọng giảm những cú sốc chiến bại chính là những bàn thờ ngoài đường và Đài Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo.

    H. Đài Phát Thanh Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo?

    Đ. Vâng, đài phát thanh Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo. Khi biết rằng không còn đường nào để thuyết phục Nguyễn cao Kỳ và Tòa Đại Sứ Mỹ chấp nhận bầu cử tự do để thiết lập một QHLH, chúng tôi biết đã đến hồi phải làm mạnh, ít nữa cũng là để tự vệ.

    Mấy lần tôi dò ý Thầy Trí Quang và các Thầy khác, các đàn anh lớn cũng như Tướng Thi, Tướng Đính về chuyện tách Miền Trung và giải pháp Trái Độn, nghĩa là làm mạnh rồi thương thuyết với Mỹ và Thiệu-Kỳ về một giải pháp chính trị nội bộ. Chẳng ai chịu vì đủ thứ lý do.

    Tôi đành từ bỏ ý nghĩ đó và bàn với anh chị em để chuẩn bị thua theo cách chúng tôi. Làm cho quần chúng biết chúng tôi muốn gì, và dùng áp lực quần chúng để cản ngăn hành động đàn áp của Thiệu-Kỳ đã được Mỹ bật đèn xanh. Muốn vậy thì tiếng nói và nguyện vọng của phe tranh đấu phải được hâm nóng và phổ biến rộng rãi. Với sự tiếp trợ đồng lõa của một số Phật tử trong Đài Phát Thanh Huế, chúng tôi đã đánh cắp một máy phát tuyến rồi bí mật thiết lập một đài phát thanh lưu động lấy tên là Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo phát thanh 24 trên 24 giờ. Làn sóng bị phá dữ dội nhưng vẫn lan đến Sài Gòn và cao nguyên. Lệnh bàn thờ xuống đường của Thầy Trí Quang được phổ biến qua đài này nên mới lan rộng nhanh chóng như thế.

    Dù là vào phút chót chúng tôi đã ngăn được quyết định pháo kích và tấn công phi trường Đà Nẵng là nơi Nguyễn ngọc Loan đặt bản doanh của chiến dịch đàn áp, cuộc đối kháng giữa phong trào tranh đấu và lực lượng Thiệu-Kỳ ở Đà Nẵng đã làm cho trên 300 người bị chết và bị thương. Không có những bàn thờ ngoài đường đó thì Huế đã trở thành một chiến trường còn đẩm máu gấp trăm lần.

    H. Trong Vụ Miền Trung 1966, ngoài chuyện bàn thờ xuống đường, còn chuyện những đoàn sinh viên quyết tử. Phật giáo định đem sinh viên làm con thiêu thân trước súng đạn của ông Thiệu ông Kỳ sao?

    Đ. Trong lúc bàn thờ xuống đường, một điều khác khiến chúng tôi lo lắng là súng đạn rơi vào tay thanh niên sinh viên học sinh. Thành phần này đã hăng say biểu tình, bây giờ lại sẵn súng đạn nữa. Chưa kể một số sinh viên lại ngã nghiêng, kẻ nằm vùng cho Thiệu-Kỳ, kẻ nằm vùng cho Mặt Trận. Chúng tôi lo ngại thanh niên sinh viên bị đẩy vào cảnh hy sinh như ở Hungary hồi 1956. Cuối cùng chúng tôi phải đi đến quyết định là phải đoàn ngũ hóa để kiểm soát. Đoàn Sinh Viên Quyết Tử được khai sinh vì đó. Một số quân nhân, công an cảnh sát Phật tử được giao việc cố vấn tổ chức sinh viên thanh niên thành đội ngũ, kiểm kê súng đạn họ đang giữ, huấn luyện căn bản quân sự và đưa họ đi tập bắn. Cũng may là không ai thiệt mạng hay bị thương trước cũng như trong khi Nguyễn ngọc Loan phóng tay phát động đàn áp. Đa số đã đem súng đạn giao lại cho Phật trên các bàn thờ ngoài đường giữ dùm trước khi ra trình diện đầu hàng hay im lặng rút lui, hay bị bắt.

    Chúng tôi chuẩn bị thua một cách kỷ càng đến độ sau khi Huế thất thủ rồi mà đài phát thanh vẫn còn sống, truyền đơn vẫn tung bay, ban phụ trách thông tin tuyên truyền và Đài TNCNPG, cũng như đại đa số thành phần lãnh đạo sinh viên tranh đấu không ai bị bắt cả. Điều này đã khiến Nguyễn ngọc Loan đã điên lại càng điên nặng và bố cáo treo đầu chúng tôi với giá khá cao khắp nơi.

    H. Như vậy là anh không bị bắt trong vụ 1966 ở Huế?

    Đ. Không. Sau một thời gian trốn tránh ở các làng quê do đồng bào Phật tử cưu mang đùm bọc, cuối năm 1966, chúng tôi được Phật giáo Huế bí mật phân tán khỏi Huế, một số vào Sài Gòn, một số các tỉnh khác. Phần toán của chúng tôi thì đến năm 1968 mới bị bắt cùng một lần với Thầy Thiện Minh khi chính quyền tấn công càn quét Trung Tâm Thanh Niên Phật Tử Quảng Đức số 294 đường Công Lý Sài Gòn. Chúng tôi bị nhốt vào Nha Cảnh Sát Đô Thành, rồi Quân Lao Gò Vấp, ra tòa lảnh án rồi bị cưỡng bách nhập ngũ. Đây là lần thứ hai tôi vào tù. Một trong những luật sư đã biện hộ không công cho Thầy trò chúng tôi hồi ấy hiện đang sống ở Úc là Luật sư Bùi chánh Thời.

    H. Mặt Trận có khai thác được gì qua vụ phong trào 1966 bị đàn áp không?

    Đ. Những người thuộc chế độ cũ còn mang hận nhà Ngô bị lật đổ, những thành phần Đại Việt, Quốc Dân Đảng không được Tướng Thi trọng dụng, những toán Biệt Chính, Dân Ý Vụ trực tiếp do Mỹ chỉ huy đã triệt để khai thác chủ trương triệt hạ thẳng tay của bộ ba Loan - Lãm - Toàn để trị tội cứng đầu cứng cổ của dân Miền Trung.

    Vụ đàn áp mùa Hè năm 1966 nặng nề gấp chục lần vụ đàn áp năm 1963 vì có Tòa Đại Sứ Mỹ đứng sau lưng và các thành phần đảng phái tiếp sức cho lực lượng đàn áp. Chính một số người Mỹ cũng bất mản với sự cứng rắn tàn bạo này. Hành động phản kháng của Tướng Lewis Walt Tư lệnh quân đội Mỹ ở Miền Trung là một ví dụ. Một phần cũng vì thái độ hiểu biết của ông tướng này với phong trào 1966 mà chúng tôi cố thuyết phục phe tranh đấu ở Đà Nẵng bỏ chuyện phong tỏa hay pháo kích phi trường Đà Nẵng.

    Sau khi Tướng Huỳnh văn Cao được Sài Gòn cử ra thay thế Nguyễn chánh Thi bị đuổi về thì Thiệu-Kỳ lại của một người rất thân Phật giáo ra làm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật đó là Tướng Tôn thất Đính. Đính ra Huế gặp phe tranh đấu và yêu cầu phe tranh đấu cử một người theo Đính vào Đà Nẵng để thuyết phục Đà Nẵng chấp nhận quyền chỉ huy của Đính. Tôi được chỉ định làm việc ấy. Tôi còn nhớ cảnh máy bay của chúng tôi vừa hạ cánh thì một đám đầu trâu mặt ngựa ăn mặt quần áo xốc xếch, nồng nặc hơi rượu ùa ra chận lại, theo sau là Loan, mình trần, chỉ mặc một cái quần xà lỏn màu đỏ, ngất ngưỡng sặc mùi rượu. Loan chỉ vào tôi hỏi ai đó thì Đính nhanh trí bảo là người bà con theo Đính vào Đà Nẵng chữa bệnh. Đính nói chuyện riêng với Loan một lúc và Loan khoát tay cho bộ hạ dạt ra để chúng tôi lên xe rời khỏi phi trường. Việc phát hiện Loan ở trong phi trường Đà Nẵng cho tôi thấy rõ trò chơi nước đôi của Mỹ và Thiệu-Kỳ. Trên đường từ phi trường về chùa Tỉnh Hội để cho Đính ra mắt phe tranh đấu, tôi hỏi Đính nghĩ sao về chuyện Miền Trung tự trị? Đính trả lời: Thì tụi nó sợ vậy tụi nó mới cử moi ra đây? Lúc đó chúng tôi nghĩ chỉ còn một giải pháp là tuyên bố tự trị rồi thương thuyết, còn hơn là chờ đợi đầu hàng. Các tướng Đính, Thi, Nhuận đều không muốn, Thầy Trí Quang và chùa không muốn, phe tranh đấu muốn chuyện đó chỉ là thiểu số. Tôi như một con chuột trong căn nhà cháy, nhưng ích lợi gì mà gây đổ máu trong khi chờ đợi đầu hàng?

    Dân chúng Miền Trung không uất ức chạy theo phía bên kia, nhưng tâm hồn họ đã nặng trĩu thêm về những ưu tư về một đất nước chiến tranh, mất tự chủ, quyền nội trị nằm trong tay những tên vong bản thượng đội hạ đạp. Miền Bắc thấy rõ dân chúng theo Phật giáo vì lý tưởng hòa bình, tự do.

    Huế là trọng điểm của cuộc đàn áp thanh trừng năm 1966 của Mỹ và Thiệu-Kỳ, và đồng thời là trọng điểm của cuộc tổng công kích tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Chỉ vì Huế bướng bỉnh với cả hai chính quyền Miền Nam cũng như Miền Bắc. Mậu Thân 1968 ở Huế là một cuộc biểu dương lực lượng đối với dân chúng Hoa Kỳ và đồng thời là một cách thị uy đôi với dân chúng Miền Trung, không theo Mỹ mà cũng không theo cách mạng.

    H. Chúng ta hãy trở lại lời tố cáo các anh chống Công giáo?

    Đ. Hoàn cảnh Miền Nam trong những năm 1963-1966, quả thực nếu chúng tôi có ác tâm đàn áp trả thù thì chắc chắn máu và nước mắt đã đổ, dù nhiều dù ít chưa biết. Chúng tôi không làm chuyện đó vì điều đó đi ngược với tinh thần Việt tính và tín ngưỡng của chúng tôi. Nhưng một số đồng bào Ky-Tô giáo đã làm chuyện đó năm 1964 tại Sài Gòn khiến cho một số thanh niên Phật tử chết và bị thương khi họ bị một số chủ trương 'thà mất nước không thà mất Chúa' kéo về Sài Gòn làm loạn.

    Nếu biến cố 1963 là do một tôn giáo khác khởi động thì thánh chiến có thể đã xảy ra rồi sau khi Ngô đình Diệm bị lật đổ. Chiều ngày 2.11.1963 khi tôi mới ra khỏi tù về nhà thì Sư huynh Ferdinand Đặng văn Toán là thầy của tôi ở Đại Học Huế đạp xe đạp đến gặp tôi và yêu cầu tôi đừng dọn nhà rời khỏi làng Phủ Cam. Trong làng nầy nhà tôi là gia đình duy nhất không phải Ky-Tô giáo. Thầy tôi sợ rằng gia đình tôi dọn đi nơi khác thì thiên hạ sẽ nhào vào ỏlàm cỏõ Phủ Cam. Thầy tôi bảo đã nói chuyện với Cha Nguyễn văn Lập trước khi đến thăm tôi. Cha Lập là người rất thân với tôi hồi Trung Học. Người ta có thể lên án tôi quá khích, không thỏa hiệp nhưng không thể bảo tôi là cuồng tín khát máu chỉ mù quáng nghĩ đế tôn giáo mình mà không biết đến anh em đồng bào đồng loại. Tôi không chống Ky-Tô giáo như một đạo, tôi chống những kẻ núp bóng Ky-Tô giáo để làm chính trị, nhân danh tín lý Ky-tô để bức ép, hành hạ, bóc lột kẻ khác. Đó là những kẻ xúi dục Bồ Đào Nha gây hấn với Việt Nam, tiên phong mở đường cho Pháp chiếm Việt Nam, làm cộng tác viên cho Pháp đô hộ Việt Nam, những kẻ đã ban phép lành cho Chiến Tranh Lạnh ở Việt Nam và cộng tác đắc lực với Mỹ để biến chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh của Mỹ. Lại nữa, tại sao Ky-Tô giáo tại Việt Nam lại không thể là Ky-Tô giáo Việt Nam như đạo Tin Lành ở Âu châu hay Mỹ châu?

    Nhìn lại quá trình nhập cuộc của tôi trong thời gian 1963-1975 ở Việt Nam tôi không khỏi "mừng" để thấy rằng sự đối kháng nhiều khi cực đoan mãnh liệt đó đã không thúc đẩy tôi gây ra "thánh chiến" để trả thù hay "đi theo cộng sản" để trừng trị những người đã làm khổ tôi, làm khổ đồng bào, đồng loại. Cũng nhờ đạo Phật. Đạo Phật có thể đã cho tôi cái nhẫn để lì lợm, quá khích không thỏa hiệp với điều tôi cho là không phải, và đồng thời cũng làm nhẹ những hận thù oan nghiệt đối với những điều tôi cho là sai lầm, bất công, tàn ác.

    H. Trong khi anh biết là Cộng Sản sẽ khắc khe hơn về tự do tôn giáo, và nếu đồng minh giai đoạn với Mỹ để dân chủ hóa Việt Nam trước có phải là một chiến thuật khôn ngoan hơn? Hypothetically nếu làm lại thì theo anh nên làm thế nào?

    Đ. Nếu chỉ vì quyền lợi tôn giáo hay quyền lợi của tôn giáo mình thì đương nhiên tôi phải thỏa hiệp với Mỹ - hay trước đó với Pháp. Một số tôn giáo ở Việt Nam đã có những quyết định chính trị loại đó. Nhưng nhãn quan Phật giáo làm cho tôi thấy thế giới chúng sinh và Việt Nam là một. Việt tính hay nhân cách Việt Nam đồng nghĩa với tự quyết, tự do. Không có độc lập, tự chủ thì làm gì có dân chủ tự do. Người Phật tử chống Mỹ vì đã theo Cộng Sản thì cũng có thể sai lầm như chống Cộng Sản vì đã theo Pháp, theo Mỹ. Đã đánh mất nhân cách Việt Nam, đánh mất Việt tính rồi thì thắng bại cũng vô ích. Điều nầy có vẻ không tưởng, cực đoan, phi lý so với những chủ trương thực tiễn chính trị, kinh tế. Nhưng đó là một di truyền lịch sử mà tôi đã thừa hưởng, khó quên được.

    Người Phật tử là "con tin" của cả hai thế lực quốc tế là "cộng sản" và "quốc gia". Chúng tôi bị gọi là thành phần thứ ba vì lý do đó. Chúng tôi kêu gọi hòa hợp hòa giải cũng vì lý do đó. Hòa hợp hòa giải trên căn bản dân tộc, tự chủ. Nếu có cơ hội và phải làm lại thì tôi nghĩ, cách đi có thể khác, nhưng con đường thì không.

    H. Sau 66 và nhất là sau Mậu Thân 68, thái độ của Phật giáo đã thay đổi toàn bộ như hợp tác trong bầu cử, chống chiến tranh, chống hai phe, xin cho biết rõ động lực, hoàn cảnh và thay đổi chính sách của Phật giáo? Phản ứng và hoạt động của Phật giáo sau Hòa Đàm Paris có thay đổi nữa không? Thay đổi và phản ứng như thế nào?

    Đ. Về căn bản, sự thay đổi đó là một cách chuẩn bị hậu chiến. Tổng Thống Johnson bỏ cuộc không ra tái ứng cử là dấu hiệu Mỹ từ bỏ tham vọng chiến thắng quân sự. Việc Mỹ Việt hóa chiến tranh để bỏ chạy chỉ là chuyện thời gian. Phật giáo phải quay về chuẩn bị để sống trong một hoàn cảnh hậu chiến, hoặc trung lập hoặc do Bắc Việt chủ động mà thôi. Sau Mậu Thân cho đến khi hòa hội Paris hình thành tôi vẫn còn hy vọng vào một giải pháp trung lập chuyển tiếp cho Miền Nam. Nhưng đến khi Nixon đắc cử rồi kẹt vào vụ Watergate thì hy vọng đó tiêu tan. Lại nữa, lịch sử cho thấy nếu không kẹt vụ Watergate thì Nixon đã tiếp tục theo đuổi chiến thắng quân sự chứ chưa chắc đã dùng ngay Hội Đàm Paris để bỏ chạy.

    Cũng vì chủ trương quay về lo chấn chỉnh nội bộ chuẩn bị ỏsống chung hòa bìnhõ hậu chiến đó mà các Thầy đã bị cả hai phe đánh để níu kéo. Đây là thời gian mặt trận truyền thông của Thiệu, mặt trận dân vận của phe bên kia đã mở chiến dịch đánh phá điên cuồng nhất nhắm vào Thầy Thiện Minh Phó Viện Trưởng, Thầy Huyền Quang Tổng Thư Ký, Thầy Mãn Giác Tổng Vụ Trưởng Văn Hoá và Thanh Niên. Tôi là Vụ Trưởng Sinh Viên Phật Tử Vụ nên cũng bị lây. Tờ Điện Tín của nhóm Hồ Ngọc Nhuận, Ngô công Đức từng tố khổ tôi trên trang nhất là "Giáo Gian Hoàng văn Giàu chỉ vì tôi quyết quét dẹp Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn và Vạn Hạnh vì đa số thành phần điều khiển những đoàn nầy không còn là... Phật tử nữa.

    H. Về cá nhân anh, anh bị công kích nhiều từ mọi phía, nhất là các thành phần cực hữu. Ví dụ như quá khích, liên hệ vụ Mậu Thân, liên hệ CIA khi về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị/Cục An Ninh Quân Đội, cán bộ trí vận của Cộng Sản ... Xin nói thêm về các điểm nầy.

    Đ. Tôi như cái móc áo cho thiên hạ treo đủ thứ áo với những màu sắc khác nhau.

    Hoàn cảnh Việt Nam từ khi tôi trưởng thành cho đến ngày chiến tranh chấm dứt, đất nước thống nhất là một hoàn cảnh tất yếu phải sắp hàng nhập cuộc. Tôi nhập cuộc không phải vì thấy một trong hai phe đúng nhưng là vì thấy cả hai đều có chỗ quá đáng, sai trái. Nghĩa là tôi đã tích cực đứng ngoài cả hai phe. Do đó mà cả hai phe đều, hoặc nghi rằng tôi là người của phe bên kia, hoặc muốn trừng trị tôi bằng cách chụp mũ tôi là người của phe bên kia. Đệ Nhất Cộng Hòa bỏ tù tôi năm 1963, Đệ Nhị Cộng Hòa năm 1969 và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa năm 1975.

    Quá khích? Người quốc gia gọi tôi là quá khích, người cộng sản gọi tôi là tôn giáo cuồng tín và dân tộc quá khích. Tôi nghĩ là tôi quá khích trong việc chống chiến tranh và những gì xâm phạm tình dân tộc và nền tự chủ của Việt Nam. Tôi cũng quá khích trong ý nghĩ rằng người Phật tử phải đứng lên trên cả quốc gia lẫn cộng sản. Tôi quá khích trong ý nghĩ rằng dấn thân chính trị là một cách trả nợ, một cách giải nghiệp chứ không phải gây thêm nợ. Nếu chính trị được định nghĩa như một khoa học của những khả thể hay một phương thức hành động trên căn bản thỏa hiệp thì tôi không làm chính trị, và cũng không thích làm chính trị. Tôi nghĩ tôi nương theo đúng con đường Phật đã chỉ là từ bỏ chính trị để "tự minh thành" như Khổng Tử nói. Người Phật tử hôm nay đã và đang đi vào con đường các Phật tử Lý Trần đã đi, đó là đường qua cầu lịch sử mà vào Niết Bàn như Thầy Mãn Giác nói.

    Chuyện Mậu Thân. Sau vụ 1966, tôi được đưa vào Trung Tâm Quảng, Sài Gòn. Khi Vụ Mậu Thân xảy ra, tôi ở Trung Tâm Quảng Đức nhưng sau đó lại có tin tôi là Tướng Việt Cộng đem quân về đánh Huế và bộ chỉ huy đóng ở chùa Từ Đàm. Một vài người quen gia đình tôi có thân nhân bị bắt đã đến nhà gặp ông thân tôi nhờ ông gặp tôi can thiệp dùm cho họ. Ông thân tôi hỏi ra thì mới biết từ đâu có chuyện tôi đang ở Sài Gòn mà lại có mặt ở Huế như thế. Thì ra khi mới chiếm Huế, người ta đã cho xe loa đi khắp nơi kêu gọi đồng bào tập trung về Phú Vân Lâu tham dự mít-tinh do tôi điều khiển. Một đồn mười, mười đồn trăm thế là có người tin tôi làm Tướng Việt Cộng đánh Huế Tết Mậu Thân.

    CIA và Cục An Ninh Quân Đội. Năm 1969, một số anh em chúng tôi cùng bị bắt với Thầy Thiện Minh ở Trung Tâm Quảng Đức. Ra Toà, Thầy bị 15 năm, anh em chúng tôi kẻ năm năm, người ba năm nhưng chính quyền đã dùng quân đội như nhà tù để nhốt chúng tôi nên thay vì thọ án chúng tôi đã bị cưỡng bách nhập ngũ. Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Vinh, Trung Đoàn 31 của Trung Tá Kiểm, Sư Đoàn 21 của Chuẩn Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Tiểu đoàn của tôi đóng ở căn cứ hỏa lực Bình Minh giữa rừng U Minh. Ở đó, tôi cũng được trực thăng bốc quăng ra giữa rừng và cũng dăng hàng ngang lùng diệt như bao nhiêu binh sĩ không có thân nhân gốc gác để được ở nơi yên ổn. Thời gian nầy là kinh nghiệm máu xương cho tôi biết thêm chiến tranh là gì, tại sao tôi phải chống chiến tranh. Gần một năm sau, các Thầy, thân nhân, bè bạn đã tìm mọi cách vận động cho tôi về Sài Gòn. Vì áp lực chính trị cũng như tình cảm, Thiệu đã bảo Tướng Đặng văn Quang dàn xếp cho về Cục An Ninh Quân Đội thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị của Tướng Trần văn Trung. Tướng Quang đã báo động với Tướng Trung rằng "...(về chuyện tranh đấu quá khích) Lê Tuyên một, tên nầy (tôi) thì mười cộng một". Ở Cục ANQĐ, tôi được chỉ định làm việc ở Phòng Điều Hành của Trung Tá Thận, Khối Phản Tình Báo của Đại Tá Học. Công việc là đọc và đúc kế các hồ sơ, phúc trình, báo cáo. Có năm tôi lại còn được chỉ định khởi thảo Đường Hướng Cục ANQĐ cho năm tới. Tôi cũng có nhiệm vụ đọc, dịch và tóm lược các báo cáo mật của Toà Đại Sứ Mỹ, của DAO gởi Bộ Tổng Tham Mưu Cục ANQD... Một dạo, tôi còn được giao phó việc nghiên cứu hồ sơ, sơ thẩm các bị can trong vụ Qủy Tiết Kiệm thuộc Bộ TTM nữa. Nói thế khác, hoặc các cơ quan an ninh của chính quyền đã biết rõ tôi chẳng ăn nhậu gì với cộng sản, hoặc họ chẳng còn nhớ tôi là ai nữa cho nên để cho tôi tha hồ đụng đến những cái có thể coi là bí mật quốc phòng. Tôi đã sống những ngày khá lè phè ở Cục An Ninh Quân Đội, viết tắt là ANQĐ mà chúng tôi thường đọc trại ra là Cục Ăn Nhậu Quá Đáng. Thời gian này tôi cũng trở lại Đại Học Vạn Hạnh để tiếp tục công việc. Một trong những cấp chỉ huy lè phè như tôi hiện đang sống ở Mỹ là cựu Thiếu Tá Trần Duy Hinh hay nhà văn Thảo Trường.

    Tôi không thân cộng sản mà cũng chẳng phải quốc gia theo nghĩa thông thường. Tôi chỉ làm những gì có thể để ngăn cộng sản giết quốc gia cũng như ngăn quốc gia giết cộng sản. Có cảm tình với Miền Nam đến mấy đi nữa thì bất quá tôi chỉ có thể giúp họ thủ huề hoặc không thua đậm thôi. Bắc Việt có thể có nhiều điều sai trái lầm lẫn, nhưng có một điều tôi nghĩ họ không sai đó là đã thu hồi nền tự chủ của dân tộc. Và bằng sự thu hồi ấy, đã đem lại hòa bình và tái thống nhất đất nước.

    Người Mỹ ở Việt Nam không ưa tôi vì nghi rằng tôi khuynh loát đường lối thế trị của mấy Thầy. Thời ấy, người đặc trách về các đoàn thể đối lập của Tòa Đại Sứ Mỹ là Coleman. Coleman thường nói với một số nhân sĩ Phật giáo quen thân với ông như Bùi tường Huân, Trần quang Thuận rằng về chính trị, "mấy Thầy đã suy nghĩ, viết và nói như G.". Có phải vì người Mỹ đã đánh giá các Thầy quá thấp như vậy nên họ đã đối xử - và để cho Thiệu-Kỳ đối xử, với Phật giáo bất công tàn tệ đến thế? Tháng 8.1963, sau khi Thầy Trí Quang vào tá túc trong Tòa Đại Sứ Mỹ và tiếp chuyện với Đại Sứ Lodge trong mấy tháng trời, người Mỹ hẳn đã biết rõ Phật giáo nghĩ gì về chiến tranh, hòa bình, quốc gia, cộng sản.

    Duyên nợ của tôi với Mỹ chưa phải là đã chấm dứt vào năm 1975. Năm 1980, tôi vượt biên đến Thái Lan và tôi đã nạp đơn xin đi định cư ở Mỹ. Chẳng phải vì tôi thích ở Mỹ nhưng là vì tôi nghĩ đây là cơ hội để tôi giải quyết vấn đề Mỹ đúng hay tôi đúng ở Việt Nam. Nhân viên Sở Di Trú và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái Lan đã bảo tôi chống Mỹ tại sao lại muốn đi Mỹ?! Họ bảo tôi có muốn đi nước khác thì họ giúp cho. Tôi trả lời, tôi không phải là cộng sản, tôi chống những hành động và chính sách sai lầm của Mỹ ở Việt Nam và của chính quyền Việt Nam đó là quyền và nhiệm vụ của một người biết thế nào là tự do dân chủ, tôi không phạm tội hình sự, không ăn bám, Hiến Pháp Mỹ bảo nước Mỹ không chối từ bất cứ một nguời nào lương thiện muốn đến nước Mỹ. Muốn bác đơn tôi thì phải cho tôi biết tại sao. Họ phỏng vấn, điều tra rồi bác đơn, tôi khiếu nại; họ lại điều tra, phỏng vấn lại bác, tôi lại khiếu nại. Cái trò chơi đấu lý nầy kéo dài gần hai năm, đến khi tôi biết chắc Ngọai Trưởng Mỹ là Alexander Haig đã ra lệnh cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái Lan tái xét hồ sơ của tôi - nghĩa là để cho tôi vào Mỹ, thì tôi lẳng lặng nhận lời đi Úc. Tôi còn giữ bản sao lá thư của Haig về việc nầy. Có lẽ vì bực bội không biết phải trả lời cho Haig thế nào cho ổn nên Sở Di Trú và Tòa Đại Sứ Mỹ lại trả thù nữa bằng cách báo cho Úc biết Mỹ đang xét đơn tôi thì tôi lại bỏ ngang xin đi Úc. Đây là điều tối kỵ trong thủ tục xin định cư. Tôi lại bị Úc phỏng vấn đặc biệt. Người phỏng vấn tôi là một người Úc có tên rất Việt Nam là Nguyễn văn Binh cho tôi biết tại sao phải tái thẩm đơn xin của tôi và hứa sẽ can thiệp cho tôi rời trại càng sớm càng tốt. Tôi đến Úc vào ngày 30.4.1982, đúng bảy năm sau khi Việt Nam có lại hòa bình thống nhất.

    H. Xin hãy cho một nhận định tổng quát về những nhập cuộc chính trị mà anh đã tham dự và đánh giá thành bại của những nhập cuộc đó theo ý anh.

    Đ. Sự dấn thân của tôi có thể chia làm bốn giai đoạn. Năm 1963, năm 1964, năm 1966 và từ măm 1970 trở đi.

    Năm 1963, chúng tôi đã thành công. Về phương diện tiêu cực, phong trào 1963 chứng tỏ Phật giáo là một đoàn thể áp lực dù mới tượng hình có thể có những ảnh hưởng chính trị quyết định. Tôi từng ví sự xuất hiện của Phật giáo trong giai đọan nầy với sự xuất hiện của Phù Đổng Thiên Vương. Về phương diện tích cực, phong trào nầy đã đẩy tất cả Phật tử đến chỗ phải có quyết định về cách thức sống đạo của mình trong hoàn cảnh đặc thù của đất nước, nói thế khác, kể từ đó trở đi, họ không thể "mủ ni che tai" nữa. Điều ấy có cái hay là những nguyện vọng, đòi hỏi và áp lực chính trị đối với chính quyền - Việt Nam cũng như Hoa Kỳ, trở thành cụ thể đáng kể hơn họ không thể làm ngơ hay đương nhiên chà đạp, nhưng đồng thời đây cũng là điều nguy hại đối với một số người, bằng chứng là sau 1963 có một số Phật tử tại gia cũng như xuất gia đã choáng váng lạc nẽo khi mon men đến gần hấp lực chính trị. Có thành thì có hoại mà.

    Phong trào 1964-1965. Đã thành công triệt được Hiến Chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh và đã bày tỏ cụ thể thái độ chống Mỹ hóa chiến tranh. Nhưng phong trào nầy đã không thành công trong việc tái lập nền móng cho một thể chế dân chủ là Quốc Hội Lập Hiến và Hiến Pháp, mà Dương văn Minh đã triệt hạ vô điều kiện khi chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hòa năm 1963. Nếu thực hiện được nền móng đó thì Phật tử hẳn đã bớt tốn công lao hy sinh hơn trong các cuộc vận động về sau. Một thất bại nữa là người Phật tử đã không bảo vệ được chính quyền dân sự Phan huy Quát, nghĩa là không bảo vệ được cái nền móng dân chủ phôi thai mà chính phủ nầy đã chật vật tạo ra.

    Phong trào 1966. Thực tế đây là một hành động "mượn hoa cúng Phật". "Hoa" đó là phản ứng của dân chúng và chính quyền ở Miền Trung khi Tướng Thi bị bãi chức. "Phật" đây là Quốc Hội Lập Hiến, Hiến Pháp. Không còn đường nào khác hơn cho Thành Phần Thứ Ba thực hiện chủ trương hòa hợp hòa giải để chấm dứt chiến tranh thực hiện hòa bình tự chủ ngoài con đường dân chủ hiến định. Thời gian nầy, khi chúng tôi nói đến "cách mạng chính trị xã hội" là chúng tôi nói đến con đường dân chủ hiến định đó trước tiên. Đây là một trong ba vế tạo thành mục tiêu giải nghiệp bằng chính trị của chúng tôi: Hòa Bình Dân Tộc - Độc Lập Quốc Gia - Cách Mạng Xã Hội.

    Hoa Kỳ và thành phần chủ chiến dộc tôn chính trị ở Miền Nam mà Thiệu là đại diện cũng đã thực hiện thủ thuật "mượn hoa cúng Phật" để bầu cử Quốc Hội Lập Hiến sau khi đã triệt hết thành phần chống đối. Nguyễn cao Kỳ là kẻ đã mất công bưng nước cho Hoa Kỳ và Thiệu uống.

    Từ năm 1970 trở đi. Củng cố nội bộ và chuẩn bị sống chúng hòa bình hậu chiến. Lần nầy thì chúng tôi không chơi trò mượn hoa nữa mà quyết "trồng hoa" cúng Phật, chuẩn bị nhân sự về Giáo Hội cũng như Phật tử tại gia để có thể tích cực và chủ động tham gia mọi sinh hoạt của chính quyền, lập pháp hành pháp cũng như tư pháp. Chấn chỉnh nhân sự và hoạt động của Hội Đồng Hiện Hóa Đạo, Viện Tăng Thống và hệ thống Ban Đại Diện Giáo Hội địa phương, Trung Tâm Quảng Đức, Đại Học Vạn Hạnh, các đoàn thể thanh niên... là mục tiêu chủ yếu.

    Có một điều mà Thầy Thiện Minh không làm được là đã không thuyết phục nổi Thầy Trí Quang trở lại Viện Tăng Thống và đặc trách vấn đề tu thư kinh điển cho Giáo Hội. Dương văn Minh đã học được bài học đắc giá. Năm 1963, sau khi lật đổ Diệm, Dương văn Minh gặp Thầy Trí Quang không chào và làm ngơ như thể muốn chờ Thầy chào và cám ơn trước. Thầy không chào, không cám ơn và còn mặc nhiên để cho Nguyễn Khánh muốn làm gì thì làm. Lần nầy chuẩn bị trở lại chính quyền, nhóm Dương văn Minh, Vũ văn Mẫu, Nguyễn văn Huyền đã vây quanh và trọng vọng Thầy như quốc sư trong khi Thầy Thiện Minh và một số các vị khác nghĩ rằng Mỹ đang cần một người cầm cờ trắng ra hàng và người đó không thể là Thiệu, vì Thiệu là kẻ biết quá nhiều về chuyện Mỹ hóa chiến tranh và Việt hóa chiến tranh của Mỹ.

    Hy vọng của tôi là chậm lắm năm 1980 Phật tử khả dĩ có đủ điều kiện để tham dự chính trị một cách khả dĩ chủ động. Thời gian không đợi chúng tôi nên dự định đó phải đứt quảng nửa chừng...

    Chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại, đất nước đã tái thống nhất nhưng với tôi đó là một hạnh nguyện viên thành và một dự định dang dỡ. Tôi thường tự vỗ về những lận đận thăng trầm của đời mình bằng hạnh nguyện đó. Nếu gọi dự định dang dỡ đó là thất bại thì tôi phải nhận là tôi đã thất bại.

    H. Trong quyển Công Cuộc Tranh Đấu của PGVN từ Phật Đản đến Cách Mạng của Quốc Tuệ trang 308 có ghi lại công điện ngày 10.8.63 của Thầy Trí Quang từ Sài gòn đánh ra Huế cho ông Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên đích danh nhắc đến tên anh khi Thầy phản đối hành động trả thù của chính quyền đối với những ngươi tranh đấu. Điều đó phần nào nói lên mức độ thân cận của anh với Thầy Trí Quang. Mặt khác, anh cũng là người thân cận với Thầy Thiện Minh. Xin cho biết là giữa Thầy Thiện Minh và Thầy Trí Quang, đường lối chính sách khác nhau và giống nhau ở chỗ nào? Sách báo xem như Thầy Trí Quang là người khuynh loát chính sách của giáo hội Phật giáo và ít khi nói tới Thầy Thiện Minh, trừ Thầy Nhất Hạnh. Đây là lịch sử sống, nếu những người như anh qua đi, không ai biết hư thực như thế nào. Anh có thể bạch hóa mấy chi tiết nầy và bạch hóa đến mức nào thì tùy anh.

    Đ. Về Thầy Thiện Minh và Thầy Trí Quang, tôi đã có nói qua trong quyển Từ Chốn Lưu Đày của tôi.

    Cái giống nhau của hai Thầy là thứ nhất họ nghĩ rằng Phật giáo phải dấn thân truớc để tự minh định như một tín ngưỡng truyền thống của Việt Nam; thứ hai, góp phần đem lại hòa bình và độc lập cho dân tộc; thứ ba họ ý thức rõ thái độ chuyên độc cực đoan ấu trĩ của những người mát-xít về vấn đề tôn giáo. Cả hai Thầy đều đã tham gia kháng chiến và sau đó đã phải ly khai về thành. Cả hai Thầy đều có một nỗi xao xuyến mà tôi nghĩ bất cứ người Việt Nam yêu nước không cộng sản nào ít nhiều cũng có trải qua đó là để quyền lợi của tôn giáo hay cá nhân mình trước hay tự chủ tự quyết dân tộc trước?

    Tôi nghĩ rằng về cường độ, nỗi xao xuyến của Thầy Trí Quang nhẹ hơn Thầy Thiện Minh vì Thầy Trí Quang dễ có những quyết định tùy cơ dứt khoát. Nói thế khác, có khi Thầy dứt khoát để tôn giáo lên trên, có khi để dân tộc lên trên, không đắn đo. Việc Thầy quyết định tuyệt thực đến chết khi Vụ Miền Trung năm 1966 bị dẹp tan, việc Thầy trực tiếp đối đầu với Thiệu về Sắc Luật 23/67 là văn kiện đã phá nát thế thống nhất pháp lý của Giáo Hội, hoặc việc Thầy công khai tích cực ủng hộ giải pháp Dương văn Minh vào phút chót là những ví dụ. Ruột để ngoài da, Thầy Trí Quang muốn gì, ai cũng biết.

    Thầy Thiện Minh trái lại đã chừng mực hơn trong các quyết định thế trị. Thầy mềm dẽo trong chiến thuật nhưng kiên định trong chiến lược. Và mục tiêu chiến lược của Thầy là phục hồi vai trò và vị thế lịch sử của Phật giáo bằng cách tích cực đóng góp vào việc chấm dứt chiến tranh vãn hồi hòa bình cho xứ sở. Thầy trở thành nguy hiểm cho những kẻ lãnh đạo bất xứng hay đã làm điều sai trái. Cho nên, năm 1963, Thầy bị nhốt, năm 1966 Thầy bị ám sát, năm 1969 Thầy lại bị nhốt với cái án 15 năm. Năm 1978, Thầy chết trong tù... Diệm, Kỳ, Thiệu, Duẫn đều sợ Phật giáo, đều ngán kẻ nắm vững đường lối thế trị của Phật giáo là Thầy.

    Vai trò và trách nhiệm của Thầy trong cuộc vận động tự do tín ngưỡng năm 1963, việc Thầy đồng ý thành lập Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế năm 1962, xây dựng Đại Học Vạn Hạnh, Trung Tâm Quảng Đức, Lực Lượng Phật Tử Việt Nam, cho ra tờ nhật báo Đất Tổ, thương thuyết với cánh Thầy Tâm Châu và Thầy Tâm Giác để tái thống nhất Giáo Hội, thực hiện chương trình huấn luyện Phú Lâu Na để đào tạo tăng tài nhập thế là những điều không phải ai cũng có thể thấy trước và làm được. Thầy là người chịu trách nhiệm khởi thảo những văn kiện có tính cách đối ngoại quan trọng nhất của Phật giáo.

    Thầy quyết tâm nhưng ôn hòa. Sau khi Thiệu ban hành Sắc Luật 23/67 công nhận Việt Nam Quốc Tự, Thầy là Phó Viện Trưởng, trước khi Hội Đồng Viện Hóa Đạo họp về việc nầy, Thầy bảo tôi thảo lời tuyên bố của VHĐ về việc nầy. Tôi vâng lời và thưa là mình không nên dùng hai chữ Giáo Gian để lên án. Thầy đồng ý, bản dự thảo không có hai chữ đó nhưng khi đem ra thảo luận trong hội đồng Viện thì Thầy thuộc phe thiểu số. Thầy Trí Quang là một trong những vị đồng ý dùng hai chữ đó có lẽ vì trước đây Thầy đã tốn nhiều tâm sức để bảo vệ Thầy Tâm Châu trong chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo trong khi các vị khác không muốn?

    Sau khi ở tù về tôi đến thăm Thầy Thiện Minh ở Già Lam thì việc đầu tiên Thầy khuyên tôi là nên viết một quyển sách về các phong trào đấu tranh của Phật giáo thế kỷ nầy. Tôi phân vân không biết có phải Thầy Nhất Hạnh cũng đã nhận được lời khuyên đó và đã tuân thủ một cách thành công với bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận? Khi chuẩn bị vượt biên, tôi hỏi ý Thầy có đi không. Thầy chối từ, như tôi đã chối từ đề nghị đó của gia đình tôi trước và trong ngày 30.4.1975. Thầy dặn tôi ra nước ngoài thì nên cố gắng duy trì và phát triển sự hiểu biết của quốc tế về Phật giáo Việt Nam và tiếp tục đóng góp được gì cho đất nước thì nên cố gắng. Thầy không khuyên tôi ở lại phục vụ chế độ, Thầy biết tôi đã chối từ lời yêu cầu ỏphục vụ cách mạngõ sau ngày 30.4.1975 và sau đó đã đi tù mất mấy năm, nhưng không một lúc nào Thầy khuyên hay gợi ý tôi nên tiếp tục con đường đối kháng chính trị như tôi đã từng đi qua trước năm 1975 với Diệm, với Thiệu, với Hoa Kỳ.

    Việc Thầy bị bắt rồi bị chết trong tù vẫn còn là một bí ẩn với tôi. Tôi không nghĩ là vì Thầy đã công khai đối kháng với chế độ như Thầy từng làm trước năm 1975. Thầy thọ nạn có lẽ vì Thầy không đồng thuận cho tầng lớp lãnh đạo Việt Nam thời đó khống chế Phật giáo như họ đang khống chế những thành phần dân chúng và tôn giáo khác trên con đường "tiến nhanh tiến mạnh lên Xã Hội Chủ Nghĩa"? Thầy chết trong tù vì thành phần lãnh đạo chế độ thời đó vẫn ngán thế lực chính tôn chính của Phật giáo và người có thể đem lại một đường lối, một phương thức dấn thân hiệu dụng cho thế lực đó? Tôi nghĩ, nếu Thầy Thiện Minh còn sống thì Thầy Huyền Quang và Quảng Độ đã không bị kẹt như mấy năm vừa qua.

    Chết là một cách giải nghiệp, là trả xong nợ đời. Tôi không oán hận những kẻ đã giúp Thầy giải nghiệp, tôi chỉ tiếc là họ đã không biết khai dụng tài năng, tâm nguyện và thế đứng của Thầy trong Phật giáo và quần chúng để làm những việc ích lợi lâu dài cho đất nước.

    Xét về những đóng góp cho độc lập quốc gia và hòa bình dân tộc, tôi nghĩ Thầy Thiện Minh, Thầy Trí Quang và qúy Thầy khác trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo đã đóng góp lớn lao cho hòa bình và tự chủ của Việt Nam. Uy tín của Thầy Trí Quang đối với quốc nội cũng như quốc tế chỉ thua Hồ chí Minh mà thôi. Ấn Quang không còn là tên gọi của một ngôi chùa, hay một phe phái Phật giáo như những dư luận ác ý cố gán cho, Ấn Quang là tên gọi của một cuộc vận động, một phong trào dấn thân thế trị của những người muốn thực hành ý nguyện làm bất cứ điều gì có lợi cho mình cho người theo khuyến cáo của Phật giáo và góp phần phát triển Phật giáo theo nhu cầu và hoàn cảnh đặc thù của quốc gia.

    H. Anh nghĩ gì về tình hình Phật giáo hôm nay và trách nhiệm của Phật giáo đối với đất nước?

    Đ. Phật pháp bất ly thế gian pháp. Người Phật tử phải biết định cho mình những ưu tiên trong việc phục vụ đạo pháp và dân tộc.

    Có những bài học về cách ứng xử của các bậc tôn túc ngày xưa trong những thời gian chuyển tiếp chính trị người Phật tử tại gia cũng như xuất gia hôm nay phải học lại cho kỷ. Điều quan trọng là giáo pháp chứ không phải định chế và giáo pháp và dân tộc là hai điều bất phân ly. Dứt khoát về những lấn cấn chuyển tiếp đó rồi thì sẽ thấy rõ nhiệm vụ của Phật giáo đối với dân tộc trong giai đoạn này. Nhiều người đã làm chuyện ấy, nhưng một số vẫn còn u u minh minh với những vọng ngữ thời thượng, cơ hội và mị dân.

    H. Xin anh một nhận định cuối cùng về hoàn cảnh đất nước.

    Đ. Hạnh phúc là điều quý nhất thiêng liêng nhất đối với mỗi người. Độc lập tự do là điều kiện của hạnh phúc nên Hồ Chí Minh đã quả quyết không có gì quý hơn độc lập, tự do.

    Tôi nghĩ rằng, trong cuộc chiến vừa qua, về cơ bản Miền Bắc đã chiến đấu vì độc lập nhiều hơn, trong khi Miền Nam đã chiến đấu cho tự do nhiều hơn. Vì độc lập mà chính quyền Miền Bắc đã treo dò tự do của dân chúng, trong khi chính quyền Miền Nam đã vì tự do mà đem độc lập trao cho Pháp, cho Mỹ giữ giùm. Tôi chỉ ước mong đồng bào Miền Bắc hưởng tự do mà không quên độc lập, và đồng bào Miền Nam biết nếm mùi độc lập mà không phải tiếc hận những tự do đã mất. Thành công của dân tộc và của một chính quyền vì dân tộc là thực hiện được thế quân bình độc lập - tự do đó, nơi mọi người, trong mọi hoàn cảnh.

    Quán Như: Xin cám ơn anh.

, đã đặt câu hỏi:

“Có những điều không sáng tỏ và đã trở thành mục tiêu để người ta công kích anh như vụ đem bàn thờ Phật xuống đường, vụ Thanh Bồ, các hành động chống Mỹ như đốt xe, đốt phòng thông tin, thư viện, đòi Mỹ rút quân... Hypothetically nếu làm lại thì theo anh nên làm thế nào?”

Hoàng Nguyên Nhuận (tức Hoàng Văn Giàu) đáp:

[...]"Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng là một biến cố xảy ra ngoài ý muốn của chúng tôi và cũng không do chúng tôi tự ý gây ra trước. Sự việc xảy ra là vì giáo dân trong vùng đã bị tẩy não nên quá lo sợ sẽ bị trả thù. Họ đã phản ứng quá đáng rồi gây đổ máu vì trong tay họ sẵn súng đạn mà họ đã thủ đắc một cách hợp pháp qua chính sách Ấp Chiến Lược và âm mưu thành lập các đặc khu yễm trợ cho chiến dịch xâm nhập Miền Bắc của Mỹ. Giáo dân trong vùng đã nổ súng và ném lựu đạn vào đoàn biểu tình tay không. Lệ Hằng đã nói lý do nào gây ra vụ này trong quyển Bản Tango Cuối Cùng. Lệ Hằng là người Thanh Bồ Đức Lợi và đã sống ở đó trong thời gian xảy ra vụ nầy. Tướng Thi lúc đó là Tư Lệnh Khu XI Chiến Thuật hẳn cũng còn nhớ vụ này khi ông cho lệnh tước khí giới của những toán dân quân tự vệ trong Thanh Bồ.[...]”

Hoàng Văn Giàu đề cập đến “giáo dân Thanh Bồ Đức Lợi có sẵn súng đạn” và tướng Nguyễn Chánh Thi “cho lệnh tước khí giới” các giáo dân.

Vậy tướng Nguyễn Chánh Thi còn nhớ vụ Thanh Bồ Đức Lợi như thế nào ?

Trong hồi ký Việt Nam Một Trời Tâm Sự, Nguyễn Chánh Thi viết:

“Đoàn biểu tình được một số người quá khích và Cộng sản xúi giục có ý định đốt phá các làng di cư Tam Tòa, Thanh Bồ và Đức Lợi. Tôi nhận được kêu cứu của vị tham mưu trưởng Quân đoàn, cho biết là tình trạng rất nguy hiểm mà thiếu tướng Tôn Thất Xứng và ông Thị trưởng Đà Nẵng là Lê Quang Mỹ vắng mặt (Tin cho biết, tướng Xứng đi sài Gòn, còn Lê Quang Mỹ lánh mặt vì được tin dân chúng có ý định đốt tòa Thị chính và bắt ông ta làm con tin)". (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam Một Trời Tâm Sự, Anh Thư xuất bản tại California, 1987, tr.245).

Qua các tư liệu hiện có ta có thể khái quát sự kiện Thanh Bồ Đức Lợi như sau:

Nhân kỷ niệm một năm Pháp nạn, (21.8.1963-21-8-1964) Sinh viên học sinh và đồng bào Phật tử xuống đường tranh đấu chống độc tài Nguyễn Khánh và Hiến chương Vũng tàu. Không khí tranh đấu ở Huế lan vào các tỉnh miền Trung. Lê Đình Cai - đặc trách Thanh niên, Sinh viên Học sinh của Đảng Đại Việt, mượn danh nghĩa Sinh viên Phật tử Huế vận động quần chúng Đà Nẵng (trong đó có nhiều người là Phật tử), đi biểu tình “phản đối Thủ tướng Nguyễn Khánh”, một phần vì mục đích chống độc tài của quần chúng và một phần thể hiện “việc tranh chấp quyền lực giữa lãnh tụ đảng này với Thủ tướng Nguyễn Khánh”. Thấy quần chúng Đà Nẵng xuống đường tranh đấu chống Nguyễn Khánh và Hiến chương Vũng Tàu, ông Lê Công Cơ - người lãnh đạo bí mật thanh niên sinh viên học sinh Giải phóng, chưa biết đó là cuộc xuống đường do đảng Đại Việt giật dây cũng vận động cơ sở hợp pháp tham gia. Đoàn biểu tình diễu qua khách sạn Đà Nẵng - nơi có các bar, các room-for-rent cho Cố vấn quân sự Mỹ thuê ở. Đoàn biểu tình bị các cô bán bar diễu cợt. Một số người biểu tình phản đối, đấu khẩu, một số lấy đá ném các cô. Các cô ấy sợ hãi bèn kêu cứu với “cố vấn” Mỹ. “Cố vấn” Mỹ tưởng lầm là mình bị biểu tình tấn công nên xách súng ra bắn tứ tung. Đoàn biểu tình tay không hoảng hốt chạy dạt vào các làng Thiên chúa giáo di cư Thanh Bồ, Đức Lợi ở bên kia đường sắt. Thanh niên Thiên chúa giáo trong các làng di cư nầy, vốn có mặc cảm là người của chế độ Ngô Đình Diệm vừa bị lật đổ, nghĩ rằng họ bị Phật tử tấn công, nên sẵn vũ khí đã thủ đắc một cách hợp pháp qua chính sách Ấp Chiến Lược và âm mưu thành lập các đặc khu yễm trợ cho chiến dịch xâm nhập Miền Bắc của Mỹ, đã nổ súng và ném lựu đạn vào đoàn biểu tình tay không.

Thông tin đồng bào và Phật tử bị giết phát tán khẩn cấp khắp thành phố Đà Nẵng, dân chúng các nơi đổ về, một cuộc xung đột đốt phá đẫm máu diễn ra ở Thanh Bồ Đức Lợi. Cuối cùng ông Nguyễn Chánh Thi - tư lịnh khu 11 chiến thuật của Quân đội VNCH phải đưa một tiểu đoàn Biệt động quân và một Tiểu đòan bộ binh đi kèm theo đến tước khí giới của những toán dân quân tự vệ trong Thanh Bồ mới dẹp yên được. Theo Đoàn Thêm (1945-1964, Việc từng Ngày, Nam Chi Tùng Thư, 1966, tr. 402) cuộc xung đột ấy đã có “11 người chết, 42 bị thương, nhiều nhà bị đốt”. Những con số của Đoàn Thêm ghi được nhỏ hơn con số thực tế nhiều lần.

Sự kiện gọi là “vụ Thanh Bồ Đức Lợi” là một việc đáng tiếc do sự hiểu lầm từ nhiều phía (“Cố vấn” Mỹ, Thanh niên tự vệ Thiên chúa giáo ở Thanh Bồ Đức Lợi, quần chúng trong tay những người thiếu kinh nghiệm tổ chức đấu tranh). Nguyên nhân gây ra sự kiện nầy do tâm lý bất ổn của các thành phần tham gia, không một ai muốn nó xảy ra như thế cả.

Đính chính sự kiện nầy để cho nó đúng với thực tế đã xảy ra, đồng thời ghi lại một sự kiện không vui trong lịch sử đấu tranh chống Mỹ và chống các chính quyền tay sai ngọai bang ở các đô thị miền Nam 45 năm trước.

Gác Thọ Lộc, đầu năm 2009

Nguồn: Tạp chí Lịch sử Quân sự Việt Nam (CSVN), số Xuân 205 (1-2009) từ tr.51 đến tr.54

Vào lúc : 10:55 - 20/10/2008

Những ai từng quen biết tôi (đặc biệt là từ sau năm 1975 đến nay), từng đọc bài “Hậu quả của cái chết của tôi” trên Đông Dương Thời Báo và Nghiên Cứu Huế (số 1, năm 2000) gần mười năm nay, đọc Nhã Ca hồi ký vừa xuất bản ở Hoa Kỳ chắc họ đã có ý kiến, đã thấy Nhã Ca dựng thêm một hình tượng “Nguyễn Đắc Xuân lớ ngớ đi tìm thăm Nhã Ca” như thế nào rồi. Hình tượng nầy ngược với hình tượng “Nguyễn Đắc Xuân khát máu ngồi xử án chôn người, bắn một người bạn có mâu thuẫn với mình” trong Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca xuất bản 1969. Đối với tôi, đoạn hồi ký Nhã Ca viết về tôi quá lạ.

HẬU QUẢ CỦA “CÁI CHẾT” CỦA TÔI
Nguyễn Đắc Xuân


Một ngày vào năm 1970, cơ sở của Thành ủy ở Huế gởi báo cáo ra cho biết Chánh phủ Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn vừa trao cho nhà văn nữ Nhã Ca một giải thưởng lớn dành cho cuốn Bút ký Giải Khăn Sô Cho Huế - cuốn sách nói xấu lực lượng cách mạng trong tết Mậu thân. Đặc biệt chương 7 Chuyện Từ Thành Nội viết xuyên tạc các hoạt động cách mạng của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, và các vị nhân sĩ trí thức trong Liên minh các LLDTDC và HB Thành phố Huế .v.v... Anh Tống Hoàng Nguyên-phụ trách an ninh của Thành uỷ cho tôi mượn cuốn sách, tôi đọc thấy ở Chương 7 viết về nhân vật Đắc “là một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tù hình hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tội”. Bài ghi chép xem Đắc như một dẫn chứng về tội ác nhồi sọ trí thức của Cộng sản.

Biết Nhã Ca viết ám chỉ mình, nhưng đọc xong chương sách tôi không hề giận tác giả, chuyện phục vụ tâm lý chiến rẻ tiền, cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca phụ trách nguyên cả một chương trình của đời Tự Do của Mỹ tôi còn lạ gì. Chỉ buồn cười thôi. Các hoạt động của tôi ở Huế dân Huế biết, các đồng chí đồng sự của tôi hiện còn đang sống đều biết rất rõ. Giữa một cuộc chiến đấu lớn lao, đông đảo như thế, tôi xử ai và tôi giết ai tôi không thể làm một mình và chắc chắn 30 năm qua những đối tượng ấy không thể làm thinh trước dư luận báo chí trong và ngoài nước. Tôi đã mở toà án ở đâu và xử ai ? Đến nay ở nước ngoài có lẽ Nhã Ca có thể viết rõ ra để chứng minh tính chân thực của cuốn sách được Nguyễn Văn Thiệu trao giải năm nào. Còn tôi, - một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưỡi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa. Những chuyện Nhã Ca bóp méo sự thật vẽ rắn thêm chân chẳng quan hệ gì với tôi.

Nhã Ca hay Trần Thy Nhã Ca là bút hiệu của cô Thu Vân. Thu Vân học một lớp với bà chị họ Nguyễn Thị Xuyến của tôi. Tôi gặp Thu Vân ở nhà chị tôi ở đường Chi Lăng nhiều lần. Cô không đẹp, khuôn mặt hơi nặng nên bọn em trai của chị tôi cùng thế hệ với cô lúc ấy ít người để ý đến cô. Năm cô đang học đệ Tam hay đệ Nhị gì đó ở trường Đồng Khánh cô có làm một bài thơ nhan đề Quê ngoại (hay Quê mẹ ?) và gởi cho báo Văn nghệ Tiền Phong - một tờ báo lá cải ở Sài Gòn lúc ấy. Bài thơ chưa được đăng thì cô nhận được thư của một người mang tên Hoài Nam - nhân danh một người có quyền ở báo Văn Nghệ Tiền Phong, báo cho cô biết bài thơ cô đã bị vứt sọt rác, nhưng may mắn Hoài Nam nhặt được, đọc thơ thấy tác giả là một cô gái Huế có tâm hồn nên đã đưa bài thơ lên báo. Hoài Nam trở thành ân nhân của Thu Vân. Từ đó Thu Vân và Hoài Nam có quan hệ tình cảm với nhau. Tôi không nhớ rõ vào năm 1959 hay 1960 gì đó, Thu Vân hồ hởi lên ga Huế đón bạn Hoài Nam ra thăm người yêu ở Huế. Tàu đến, cô hồi hộp vô cùng. Nhưng quái lạ, trong những khách đi tàu xuống ga cô không thấy có người nào để cô có thể nhầm đó là Hoài Nam được cả. Cô nữ sinh Thu Vân thất vọng đứng nép mình bên sân ga. Bỗng nhiên cô thấy có người đàn ông đi sau cùng, tay xách cái túi con, mặt rỗ, tóc đỏ bù xù trước mặt. Thấy Thu Vân, người đó hỏi: ”Cô có phải là Thu Vân không ?”. Vượt quá sức tưởng tượng của mình, Thu Vân đáp: ”Không. Tôi không phải là Thu Vân”.

Hai người lặng lẽ ra ga, mỗi người đi về mỗi ngã. Thu Vân về nhà ở Bến Ngự. Người khách chính là Hoài Nam về nhà Ngô Đức Chương - một người làm thơ ở với mẹ già tại một ngỏ hẹp của đường Ngô Đức Kế trong Thành Nội. Như chợt có khách thơ, Chương mượn tôi [1] cái giường bố cho Hoài Nam nằm. Hằng ngày Hoài Nam viết truyện ngắn hay làm thơ đăng trên nhật báo Công Dân của Lê Trọng Quát kiếm tiền độ nhựt. Về sau, có lẽ hối hận về hành động phủ phàng của mình, Thu Vân đã tìm đến với Hoài Nam và hai người đã yêu nhau thật sự ngay trong nhà Ngô Đức Chương. Sau đó Thu Vân bỏ học vào nam với Hoài Nam và hai người có hai bút hiệu mới là Trần Dạ Từ và Trần Thy Nhã Ca.

Trong những năm Huế luôn có những phong trào đấu tranh chống Mỹ Thiệu Kỳ, ở Sài Gòn Trần Dạ Từ viết cho mấy tờ báo của Chu Tử thân chính quyền Sài Gòn và có quan điểm chống Cộng rất gay gắt. Trần Dạ Từ có nhiều bài viết xuyên tạc phong trào đấu tranh ở miền Trung, xúc phạm đến nhiều bậc đáng tôn kính ở Huế. Do đó mùa hè năm 1966, Trần Dạ Từ ra Huế tiếp tục nói xấu phong trào miền Trung đã bị anh em Sinh viên Quyết tử chiến lại tại sân bay Phú Bài và buộc anh phải rời miền Trung. Sau đó tôi quá bận với việc đối phó với những lời đe doạ “làm cỏ” phong trào miền Trung của Thiệu Kỳ, tôi không theo dõi được những bài viết của Trần Dạ Từ về miền Trung nên không rõ anh đã có ý nghĩ về tôi như thế nào. Còn tôi, lúc ấy chuyện quan điểm đấu tranh bất bình với nhau là chuyện bình thường. Không riêng gì những người tay sai Mỹ - Thiệu Kỳ có quan điểm khác chúng tôi, ngay trong hàng ngũ sinh viên tranh đấu chúng tôi vẫn có những chuyện không chịu nhau và sát phạt nhau. Nhưng khi hết tranh đấu rồi lại chơi với nhau bằng tình bè bạn. Những quan điểm trái ngược nhau trong lúc đấu tranh trở thành những kỷ niệm. (Dĩ nhiên những người tôi nói đây thuần túy sinh viên, trí thức, không thuộc phe nhóm đảng phái chính trị nào). Tôi đã nghĩ và đã sống suốt những năm sinh viên như thế.

Sau 1975 về lại Huế, trong các chiến dịch “chống văn hoá độc hại của Mỹ ngụy” (03.1976) nhiều người đặt bài cho tôi viết lên án Nhã Ca. Tôi từ chối. Lý do: Thứ nhất, sách của Nhã Ca có nêu đích danh tôi đâu mà tôi phải lên tiếng. Thứ hai, dù sao Nhã Ca cũng là bạn của chị tôi, nỡ nào tôi lại “đánh” người dưới ngựa bạn của chị mình. Nếu sau giải phóng tôi viết bài đả kích Nhã Ca, ngành nội chính sẽ có thêm căng cứ để kéo dài thời gian học tập của cô lâu hơn. Như vậy nó trái với con người của tôi. Tôi không viết.

Bẵng đi mấy năm không còn có dịp nhắc đến Nhã Ca nữa. Rồi đến một dạo trước năm 1980 (tôi không còn nhớ đích xác năm nào) tôi vào Saigon, được anh Phương Hải ở báo Đại Đoàn Kết cho mượn một chiếc xe đạp để đi tìm mua tài liệu cũ về Huế xưa. Nhà anh ở trên tầng cao của cái Building ngay ngã tư Đồng Khởi-Lê Thánh Tôn. Khi gởi xe cho người giữ ở tầng trệt xong, tôi thả bộ dọc đường Đồng Khởi tìm mua cho con anh Phương Hải một gói bánh. Cách đó khoảng năm sáu gian phố gì đó tôi thấy có cái quán giải khát vắng vẻ, bên ngoài kê một cái tủ kính bên trên có mấy thẩu bánh (ga-tô hay bánh thuẫn ?). Nhìn vào trong không thấy khách chỉ có một người đàn bà với nét mặt nặng và buồn, mái tóc thề tóc cắt ngắn ngang vai. Tôi hỏi: ”Chị làm ơn bán cho mấy cái bánh!”. Người đàn bà đến mở nắp thẩu lấy bánh cho tôi. Khi tay cô vừa chạm vào mấy cái bánh trong thẩu thì như bị điện giật cô rút tay ra và chụp cái nắp nhôm xuống miệng thẩu kêu một cái cốp rồi quay lưng vô nhà. Tự nhiên tôi kêu lên:

- ”Thu Vân ! Tại sao thấy moa, toa lại bỏ đi ?”.

Người đàn bà quay lại nét mặt thảng thốt:

- ”Tôi nghe người ta nói anh đang tìm tôi để giết tôi nên sợ quá ...!”.
- ”Vì chuyện nhân vật Đắc toa viết trong giải Giải Khăn Sô Cho Huế phải không ?”

Tôi hỏi và nói tiếp:

- ”Chuyện của nhân vật Đắc có liên quan gì đến moa mà moa tìm giết toa ! Mà làm sao moa có thể giết toa dễ dàng đến vậy !”

Nghe thế có lẽ Nhã Ca thấy đúng là con người thật của tôi khác với con người cô tưởng tượng sau khi tôi tham gia kháng chiến, cô lấy lại tư thế bình thường. Cô không mời nhưng tôi vẫn vào kéo ghế ngồi. Nhã Ca miễn cưỡng ngồi vào ghế đối diện tiếp tôi. Tôi không gọi cô là Nhã Ca, không nói chuyện sách vở mà gọi cô là Thu Vân và chỉ nói về chuyện chị Xuyến tôi vừa vượt biên qua Úc.

Thu Vân cho biết Hoài Nam đang còn học tập chưa về, cô được về sớm để chăm sóc các con. Hoàn cảnh cô đang rất khó khăn. Khó nhất là không ai có sổ gạo. Đến khi câu chuyện trở nên thân tình tôi hỏi thật cô:

- Vì sao năm 1968 Thu Vân lại viết về nhân vật Đắc để ám chỉ tôi như thế?

Thu Vân trả lời rất thành thật:

- Lúc đó ai cũng nói anh chết rồi, chớ ai ngờ ...

- Sao Thu Vân lại nỡ dựng chuyện ác cho em của một người bạn mình như thế ? Tôi hỏi với giọng trách móc.

- Như anh biết đó - Thu Vân giải thích- viết ký thì phải có những con người bằng xương bằng thịt mình biết rõ ràng mới hay, chứ anh nghĩ lính giải phóng ở miền Bắc vào tôi nào có biết ai đâu ?

- Té ra như vậy.

Sở dĩ có chuyện không tốt ấy xảy ra là vì nhiều người tin tôi đã chết. Hồi tháng 10.1996, trong một bữa cơm thân mật ở nhà chị Trang My - anh Phạm Doãn Để ở quận 18 Thủ đô Paris tôi kể lại chuyện gặp lại Nhã Ca trên đường Đồng Khởi trên đây, hai anh chị cười vang:

- “Thế mà bao năm nay anh chị cứ trách Xuân !”.

- Vâng, không phải chỉ có anh chị trách mà còn nhiều người nữa.

Người ta nói tôi đã chết không phải vì ghét tôi hay bịa ra để có chuyện nói với những người thích bày chuyện. Ngay những người rất thương tôi “đã có đầy đủ chứng cứ về cái chết” của tôi.

Sau ngày giải phóng 1975, tôi vào Nha Trang thăm một người bạn vong niên ở 12 Bến Chợ - nhà thơ cổ điển Quách Tấn. Lúc đó mắt anh đã yếu, tôi bước vào nhà rồi mà anh vẫn không nhìn ra tôi. Thấy anh ngồi bên cạnh cái bàn thờ kê giữa nhà, tôi mừng quá gọi lớn:

- “Thưa anh, anh vẫn khoẻ chứ ?”.

Quách Tấn ngước mắt nhìn tôi đầy vẻ kinh ngạc:

- “Ai mà nghe quen quen đó ?”.
-“Em đây ! Nguyễn ...- người được anh hướng dẫn để nghiên cứu về Bích Khê và Đào Tấn thuở nào đây !”.

Quách Tấn hốt hoảng:
-” Chú Xuân, chú là người hay là ma hiện về đó ?”

Tôi đâm ngạc nhiên:
- ” Em là Xuân đây chứ sao lại là ma !”.

Giọng đoan chắc, Quách Tấn nói tiếp:

-“ Chú chết rồi mà! Tôi đã cúng cơm cho chú nhiều lần rồi mà! “

Tự nhiên tôi khóc. Quách Tấn cũng khóc. Hai anh em ôm nhau. Quách Tấn nói trong nước mắt:
- “Chú chết rồi làm sao chú có thể sống lại và về thăm tôi đây ! Tôi không thể nào hiểu được”.

Sau cái phút bàng hoàng đó, Quách Tấn kể chuyện anh đã nhận được tin tôi đã chết như thế nào:

Năm ấy, sau khi lực lượng giải phóng rút ra khỏi Huế, một người học trò cũ của anh là sĩ quan, trong lúc chỉ huy quân đội dọn dẹp những đổ nát trong Thành Nội, thì phát hiện trong một ngôi nhà sập ở đường Âm Hồn có mấy xác chết đã sình thối, bên cạnh có một tay nải may bằng vải dù bọc cái ví da đựng 200$ bạc Sài Gòn, một Thẻ Sinh viên mang tên Nguyễn Đắc Xuân, một số thư từ, trong đó có thư của L.m. N.N.L. gởi cho Nguyễn Đắc Xuân từ tháng 7.1966 và một xấp nhật ký. Anh sĩ quan nầy vốn là học trò cũ của Quách Tấn nghĩ cái tay nải nầy là của một trong những người đang nằm chết đây. Người sĩ quan liền giấu cái ví và đem về Nha Trang bí mật khoe với thầy. Biết chuyện ấy Quách Tấn đã khóc và không dám nói với người học trò cái tay nải nầy là của chính một người bạn vong niên của mình. Quách Tấn giấu gia đình dẹp một góc bàn thờ bên cạnh chỗ anh đang ngồi hôm nay đặt một chén cơm cúng tôi. Kể đến đó anh lại ôm tôi:


-“Không ngờ chú vẫn sống và nhớ vào thăm tôi. Đời sao mà có chuyện lạ kỳ đến vậy ! Làm sao chú có thể sống được, chú kể cho anh nghe coi !”.

Nghe đến đó tôi hiểu ra ngay. Chuyện thật đơn giản.

Hôm đó có lẽ quân giải phóng đã chiếm Huế trên mười ngày rồi. Suốt ngày làm việc, đêm ngủ dưới hầm đất, thân thể chúng tôi đứa nào cũng bẩn như hủi. Nhân một buổi trưa vắng tiếng súng tôi theo chân cô Đoan Trinh - con cụ Nguyễn Đoá, về nhà cô ở đầu kiệt 2 đường Âm Hồn xin nước giếng tắm. Tôi mới vào phòng tắm, vừa cởi cái tay nải ra khỏi thắc lưng treo lên cửa thì pháo Mỹ rót ầm ầm xuống khu vực chúng tôi đang có mặt. Nhà cụ Đoá sập, một vài bộ đội tự vệ đang trú trong nhà chết và bị thương nặng. Tôi hoảng hốt chui ra khỏi nhà chạy thụt mạng vào phía Đại Nội. Và từ đó chiến trường quá ác liệt, tôi không còn có dịp trở lại kiệt 2 Âm Hồn để tìm cái tay nải nữa. Không ngờ nó đã văng đến cạnh một người nào đó đã chết và cuối cùng lọt vào tay người sĩ quan học trò cũ của anh Quách Tấn.

Quách Tấn ở tận Nha Trang Khánh Hòa mà còn biết chuyện tôi đã “chết“ cụ thể đến thế huống chi Nhã Ca lúc đó đang ở Huế ? Và không riêng gì Nhã Ca, có một sinh viên lúc ấy tưởng tôi “chết” thật đã ung dung “mượn” cái luận văn tốt nghiệp của tôi ở Đại học Sư phạm Huế về Hát Bội để chế biến lại làm luận văn Cao học của mình và vẫn được chấm đậu như thường. Sau 1975, gặp tôi ở trường Âm nhạc Huế, anh Hoàng Hữu Pha- người anh con ông bác ruột của Hoàng Phủ Ngọc Tường, báo cho tôi biết chuyện ấy, không những tôi không buồn mà ngược lại tôi đã bảo anh Pha:

- ” Tôi không còn cần cái luận văn ấy nữa, có người đã biết sử dụng nó như thế cái công làm luận văn của tôi không đến nỗi không có ích”.


Cuộc đời tưởng đã chết mà lại sống, ôi có gì quý hơn nữa đâu !


Nhân đây tôi cũng ghi lại chuyện anh T.M.T. gặp tôi trong Tết Mậu thân. T.M.T. là một sinh viên hoạt động rất tích cực khi thành lập Đoàn sinh viên Quyết tử. Trong 3 đại đội của Đoàn, T.M.T. làm đại đội trưởng Đại đội 1. Đại đội nầy vừa “ra trường Văn Thánh” là vào Đà Nẵng hoạt động ngay. Tôi phụ trách đoàn nên phải ở lại Huế tiếp tục huấn luyện cho Đại đội 2 và 3. Đại đội 1 có một tiểu đội “tác động tinh thần” phụ trách phát thanh, báo chí. Phần lớn những ngưòi trong tiểu đội là bạn thân tôi và về sau tôi được biết nhiều người trong tiểu đội là cơ sở của giải phóng.

Một buổi chiều đang ở Đông Hà tôi được anh Lý Văn Nghiên (sinh viên Hán Học) điện thoại gọi tôi vào để giải quyết khó khăn của Đại đội. Tôi vào ngay Đà Nẵng, tôi đến “bản doanh” của Đại đội tại trường Bồ Đề, T. đi vắng, anh em phản ảnh cho biết mấy hôm nay không hiểu sao chiều nào T. cũng say và có nhiều hành vi khó hiểu. Ví dụ như trong một đêm anh em đang ngủ, T. cho người lăn một cái thùng phuy rỗng trên đường Quang Trung ầm ầm, rồi hô hoán là “xe tăng địch”, gọi anh em dậy xả súng bắn tơi bời, làm náo động cả Thành phố Đà Nẵng. Lực lượng ly khai ở Đà Nẵng (do đại tá Đàm Quang Yêu, thiếu tá Tôn Thất Tương, thiếu tá Tôn Thất Trai đứng đầu) lên án sinh viên Quyết tử làm loạn, đòi giải giới sinh viên. Tôi mời họp Đại đội ở cái phòng đầu tiên của dãy lầu xây thẳng góc với đường Quang Trung. Họp được một lúc thì T. chân thấp chân cao về. Thấy tôi đang ngồi ở bàn thầy giáo chủ trì cuộc họp, T. rút dao găm đeo bên hông ném thẳng vào mặt tôi, anh em đội viên hét lên, tôi cúi đầu kịp và cây dao oan nghiệt cắm sâu vào cái bảng đen sau lưng tôi. Anh em bắt T. giam lại và bầu Lý Văn Nghiên thay T. làm Đại đội trưởng. Sau đó Lý Văn Nghiên đưa Đại đội vào Tam Kỳ rồi Quảng Ngãi hoạt động. Hôm Đại đội từ Quảng Ngãi về, T. đến Tổng hội sinh viên đòi phục chức Đại đội trưởng. T. doạ sẽ bắn chết những ai không nghe lời T. Dĩ nhiên là chẳng có ai sợ và cũng chẳng có ai nghe theo lời T. Từ đó T. trở thành một người đối lập với sinh viên tranh đấu, sinh viên làm gì T. cũng tìm cách quậy phá. Một buổi tối sinh viên tuyệt thực ở bùng binh Morin, để bớt căng thẳng chúng tôi tổ chức hát và ngâm thơ. Tôi đọc một bài thơ mới. Khi mới đọc đến câu:

“Đã bảy lần tham gia tranh đấu

Bảy lần phải đổ máu, mồ hôi
Dân tộc nầy chưa có hòa bình,
tôi vẫn còn tranh đấu mãi không thôi ...”

Đang nằm với anh em sinh viên tuyệt thực, T.liền đứng dậy rút súng lục chĩa sau lưng tôi:
-” Không tranh đấu nữa, câm mồm ngay không thôi tau bắn nát óc !”.

Thật kinh khủng. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn cho rằng T. không được làm Đại đội trưởng nên bất mãn, uống rượu say làm bậy thôi. Khi cuộc tranh đấu bị đàn áp, T. ở lại không bị hề hấn gì trong lúc nhiều sinh viên chỉ tham gia tranh đấu sơ sơ cũng đều bị tù đày. Thế mới biết T. là người của ai. Những người am hiểu tình hình đảng phái ở Huế lúc đó cho tôi biết T. là đảng viên đảng Đại Việt, anh ta được chỉ đạo tham gia tranh đấu để loại trừ ảnh hưởng của Giải phóng và lái phong trào theo đường lối chính trị của đảng Đại Việt. Đến khi không lái được thì quay qua phá hoại. Chuyện đó cũng dễ hiểu. Trong những năm trước đã xảy ra một số trường hợp tương tự như thế rồi. Sau khi chúng tôi lên rừng, T. bộc lộ rõ ý đồ chính trị của mình, anh lên án chúng tôi là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.

Đến tết Mậu thân, hình như đến ngày mồng ba mồng bốn gì đó, đội công tác thanh niên chúng tôi đang đào hầm trú ẩn cá nhân trước sân một ngôi nhà ở kiệt 1 đường Âm Hồn, vào lúc xế chiều, có người dẫn độ T. vào gặp tôi. Thấy tôi đang đứng trước thềm nhà, T. hồ hỡi phấn khởi giang hai tay đến ôm tôi và nói:

- “ Bọn tự vệ bắt mình, mình nói là bạn với X. nên họ đưa mình qua đây !”


Nghe T. nói như vậy anh tự vệ dẫn độ T. giang ra. T. đặt tôi vào một hoàn cảnh rất khó xử. Giả như tôi không giận T. mà sau lưng tôi là anh Hoàng Minh Loan- Thành ủy viên, chính trị viên của đội công tác thanh niên, một người rất am hiểu tình hình tranh đấu ở nội thành và chung quanh tôi có nhiều sinh viên đã biết rất rõ hành vi chống đối sinh viên tranh đấu của T., tôi cũng không thể tỏ ý thân thiện với T. lúc nầy được. Nếu tôi không thể hiện rõ về lập trường quan điểm chính trị của mình tôi sẽ bị tình nghi “quan hệ với địch” và sẽ bị tống cổ lên rừng ngay, hậu quả sẽ không lường hết được. Bản năng tự vệ trong tôi buột tôi phải la lên:

- “Tao mà là bạn của mày được sao !”- Tôi chỉ cái hầm cá nhân đang đào dang dở trước sân nói tiếp: - "Chuyện chi còn có đó. Xuống ngồi dưới cái hầm cá nhân đó !".

Trong cuộc chiến tranh nhân dân vừa qua, đảng viên của những đảng phái chống Cộng nếu họ bị bắt giữa lúc giao tranh thì họ khó lòng sống được. Trường hợp của T.M.T. dễ chết như không. Nhưng không hiểu sao, anh Hoàng Minh Loan lại giao T. cho tôi quản lý giống như các anh đã giao hoạ sĩ Lê Văn Tài cho Đội công tác thanh niên ngay lúc lực lượng giải phóng mới chiếm được Huế. Các anh muốn thử thách người quần chúng Phậ tử nầy chăng ? Thật khó cho tôi.

Cuối cùng tôi đã có một giải pháp. Bên cạnh chỗ tôi đóng quân có nhà của ông nhạc nhà báo Vĩnh Tháp. Vĩnh Tháp ở Vỹ Dạ lên nhà vợ ăn tết gặp lúc chiến sự xảy ra anh tham gia với chúng tôi. Tôi đưa cho T.M.T. một xấp giấy manh và bảo qua nhà anh Vĩnh Tháp ngồi tường thuật những hành động phá hoại phong trào sinh viên của T. T.vâng lời. Chúng tôi gởi cho Vĩnh Tháp một ít tiền lo chuyện ăn uống cho T. Nhưng sau đó chúng tôi bị căn cứ Mang Cá rót đạn cối vào nhà, phải di chuyển ngay chỗ ở. Và tôi cũng không còn có dịp gặp lại T. nữa. Sau Tết Mậu thân nhiều tháng, chúng tôi bị Mỹ rượt chạy lên tận miền tây ở biên giới Lào, mất hẵn liên lạc với Huế cho nên tôi cũng không biết tình hình Huế sau khi chúng tôi trở lại rừng xanh ra sao. Hơn một năm sau tôi mới nghe tin T. đã chết trong tết Mậu thân.

Những khi gặp những người quen biết T., chúng tôi thường đưa ra mấy giả thiết về trường hợp T. chết như sau:

Một: sau khi khu vực nhà ông nhạc của anh Vĩnh Tháp bị bom đạn, T. đã trốn ra bên ngoài rồi bị bom đạn lạc giết chết ở dọc đường, hai: T. ra ngoài chạy loạng quạng bị tự vệ hay bộ đội bắn chết; ba: cũng có thể, sau khi T.được tôi gởi qua nhà anh Vĩnh Tháp, những người lãnh đạo lực lượng vũ trang trong Thành nội lúc ấy cho bắt lại và “giải quyết” theo lời phán xét của ông thần chiến tranh. Rất tiếc sau nầy có nhiều lần gặp lại anh Vĩnh Tháp, tôi hỏi anh lúc ấy T. đã chết như thế nào, anh bảo: “Lúc đó ác liệt quá mình mình cũng không còn nhớ.” (Hiện nay anh Vĩnh Tháp còn khoẻ mạnh ở Vỹ Dạ Huế).


Tôi thoát ly đúng vào lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất. Có biết bao đồng chí đồng đội của tôi đã ngã xuống nhưng ít có cơ hội để tôi viết về họ. Cái chết của T. cũng thế. Nhưng vì Nhã Ca đã viết không đúng với sự thực, nếu tôi không viết thêm đoạn nầy thì người đọc trong các thế hệ sau sẽ khó có được một tư duy đúng đắn về sự kiện nầy.

Lịch sử rất khách quan, không ai vu khống được và cũng không xuyên tạc được. Những ai cố tình xuyên tạc, vu khống lịch sử là tự mình gởi lại tương lai một tội lỗi không thể bào chữa được.
Nguyễn Đắc Xuân

ĐDTB, ngày 17/6/06
Trích ĐDTB
NDVN, ngày 28/9/06
__________________________
Lời bàn:

Giả tỷ như lời ông Nguyễn Đắc Xuân là thật, là bà Nhã Ca gán tội giết đồng bào ở Huế năm Mậu Thân cho ông là "sai người, sai tên", nhưng ông vẫn cố tảng lờ không trả lời vậy ai là thủ phạm thật giết đồng bào vô tội ở Huế ? nếu không phải là ông thì phải là đoàn ngũ cán bộ csvn khác chứ! Chưa kể chuyện của "ông T." mắc mớ chi với đề bài đánh trống chạy tội "giết người" của ông đây?

Đã thế trong bài nầy ông Xuân viết giải thích như là ông là người tốt, không nhớ thù dai, không quên tình nghĩa bạn bè? Xin lỗi nghe, láo quá đi! Láo như vẹm chính tông.

Người tốt, người khôn, người hiểu chuyện, người hai mang, và đã từng tiếp xúc và sống tại Miền Nam và trong bộ đội, cả 2 bên, thì làm gì mà không biết bọn cs tuyên tuyền xảo trá mà theo bọn csvn giết nhân dân đồng chũng của mình? Hơn nữa lại là người có học có trí thức biết nhận xét đúng sai? Tôi nghĩ ông là người láo khoét và đần độn thật sự hay vì là sự cố thù hằn riêng tư gì đó với người Việt Quốc gia nên muốn đi ngược lại họ chống lại kẻ thù riêng mà thôi!

Nguồn: Tạp chí Sông Hương
______________________

Thư viết tay ngày 24.7 của Thượng tọa Thích Minh Tuấn (Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đánh máy lại), minh xác:

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định
«Phật lịch 2552, Nguyên Thiều ngày 24/7/2008
    «Kính gởi: Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN«
    (v/v xác minh các thông tin bịa đặt, ngoài phạm vi quản lý của Tu viện)

    «Ngưỡng bạch Hòa thượng,

    «Sau lễ tang của Hòa thượng Bổn sư của chúng con, Đức Tăng thống Giáo hội. Tại Tu viện Nguyên Thiều vốn u buồn lại còn u buồn hơn khi tiếp nhận những thông tin cho rằng phát xuất từ bản thân con (Minh Tuấn) và thầy Đồng Thọ. Cụ thể là việc công bố Chúc Thư của Hòa thượng Tăng thống và các nguôn tin có liên quan. Để minh bạch việc này, con xin khẩn bạch Hòa thượng như sau:

    «1. Việc công bố Chúc Thư của thầy Đồng Thọ và sự xác nhận của Minh Tuấn theo thông tin là hoàn toàn bịa đặt, sai sự thật, vì thực tế, Minh Tuấn chưa bao giờ sử dụng phương tiện nào, và phát biểu ý kiến nào trên mạng thông tin bằng lời hoặc bằng văn bản.

    «2. Việc công bố Chúc Thư là việc làm trọng đại của Chư Tôn giáo phẩm Giáo hội. Tu viện và Môn đồ của Hòa thượng không thể nào có khả năng lạm tác và làm một việc phi lý, phi đạo như thế được.

    «Nay con xin khẩn trình và minh xác việc này để Hòa thượng thẩm tường và đề cao cảnh giác dư luận.

    «Kính bái thư
    (ký tên)
    «Thích Minh Tuấn»
Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải dưới đây nguyên văn Bản Tường Trình của Đại đức Thích Đồng Thọ và thư viết tay của Thượng tọa Thích Minh Tuấn:
    GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
    Tu Viện Nguyên Thiều, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
1. - Thân Thế và Sự Nghiệp:

Bác sĩ: Lê Ðình Thám
Pháp danh: Tâm Minh
Tự: Châu Hải
Sanh năm Đinh Dậu (1897) tại Quảng Nam.

Chánh quán làng Đông Mỹ (Phù Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Là thứ nam của cụ Đông các Đại học sĩ sung chức bộ Thượng thơ Lê Đỉnh (triều Tự Đức) và cụ kế mẫu Phan Thị Hiếu.

Lúc nhỏ theo Nho học, thụ huấn trực tiếp với cụ Thượng thơ thân sinh ở nhà cùng với bào huynh Lê Đình Dương.

(Lê Đình Dương là nhà Cách mạng, tham gia Việt Nam Quang Phục hội cùng với cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài. Phụ trách lãnh đạo phong trào Duy Tân khởi nghĩa tại Nam Ngãi. Bị bắt tại Ban Mê Thuộc năm 1926. Không chịu để bị tra tấn, không chịu tủi nhục trước công sứ thực dân Sabatier, nên đã dùng độc dược Cyanure de Mercure để tự vẫn năm 1919, thọ 26 tuổi . Ông đã tốt nghiệp Á khôi Đông Dương Y sĩ khóa đầu tiên năm 1915, tại trường Cao đẳng Y khoa Đông Dương – Hà Nội).

Tuy tuổi nhỏ, cả hai vị tỏ ra thông đạt kinh sách, văn bài thi phú. Ứng đối nhanh nhẹn. Nổi tiếng là thần đồng.

Lớn lên theo Tây học. Thông minh xuất chúng nên luôn luôn dẫn đầu lớp. Được thầy yêu bạn quý từ cấp Tiểu học cho đến Đại học. Cụ đỗ Thủ khoa Đông Dương Hà Nội và Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc năm 1930 tại Y khoa Đại học đường Hà Nội.

Ra trường nhằm phong trào Duy Tân khởi nghĩa thất bại, bào huynh thì bị bắt đày lên Ban Mê Thuộc. Cụ bị Pháp theo dõi gắt gao. Trong thời gian phục vụ tại bệnh viện Bình Thuận, Song Cầu, Qui Nhơn, Tuy Hòa (1915-1923), ngoài công tác chuyên môn, cụ chỉ lo học hỏi và nghiên cứu thêm Nho, Y, Lý và Số.

Năm 1926, về phụ trách Y sĩ điều trị tại bệnh viện Hội An, trong dịp viếng thăm chùa Tam Thai (Ngũ Hành Sơn), tại Non Nước, Đà Nẵng. Khi đọc đến bài kệ sau đây, ghi chú trên vách, cụ liền chú ý đến Phật giáo:

Bồ đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệt phi đài,
Bổn lai vô nhứt vật,
Hà xứ nhạ trần ai ?

Tiếp đó, cụ được tin nhà cách mạng Phan Chu Trinh từ trần ở Sài Gòn, cụ cùng một số thân hào nhân sĩ và công chức trí thức Quảng Nam tổ chức lễ truy điệu rất trọng thể và cùng thọ tang cụ Phan. Một tháng sau bị đổi đi Hà Tĩnh.

Năm 1926, được về Huế làm Y sĩ trưởng tại viện bào chế và vi trùng học Pasteur; cộng tác với Bác sĩ Mormet, Giám đốc Y tế Trung Phần, đã phát minh ra Sérum Mormet, được Y giới Pháp Việt trọng vọng.

Cuối năm ấy, cụ lên Trúc Lâm thọ giáo với tổ Giác Tiên về tham nghĩa của bài kệ ở chùa Tam Thai, rồi phát tâm cùng Thượng tọa Mật Khế nghiên cứu giáo lý, học hỏi kinh điển, tụng kinh niệm Phật và phát nguyện trường trai, phát nguyện quy y, thọ Ưu bà Tắc giới và có Pháp danh Tâm Minh từ đó.

Năm 1929-1932, sau hai năm thọ giáo với Hòa thượng Phước Huệ, đồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc trùng hưng Phật giáo Trung Hoa của ngài Thái Hư Đại sư qua sách báo Hải triều âm; cụ vâng lời Hòa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh và Tịnh Khiết đứng ra triệu tập 18 vị đồng sự pháp lữ thảo điều lệ thành lập hội An Nam Phật Học, đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, cụ làm Hội trưởng dưới sự chứng minh của quý Hòa thượng nói trên. Cụ bắt đầu thuyết pháp tại chùa Từ Quang. Giảng kinh luận tại tư thất cho một số tín hữu nhiệt tâm cầu đạo

(Thượng tọa Giải Ngạn, Thượng tọa Minh Châu, Sư bà Diệu Không, lúc nầy chưa xuất gia, đều được theo họ khóa nầy).

Năm 1933, phụ trách Y sĩ Giám đốc Bài lao Huế, cụ là một danh y uy tín nhất đế đô.

2. - Về Phật Học:

*. - Khởi công trùng tu tổ đình Từ Đàm làm trụ sở Trung ương cho hội.

*. - Cử hành Đại lễ Phật Đản đầu tiên vô cùng trọng thể ở chùa Diệu Đế, gây ảnh hưởng lớn lao đến mọi giới.

*. - Chủ trương xuất bản Nguyệt san Viên Âm, cơ quan ngôn luận và truyền bá giáo lý của hội. Cụ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút của Nguyệt san.

*. - Thiết lập cơ sở đào tạo Tăng tài: Cấp Trung, Tiểu học tại Bảo Quốc, Pháp sư Trí Độ làm Đốc giáo.

(Quý Hòa thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa, Thiện Siêu, Thiện Minh, Trí Quang, Trí Tịnh, Nhật Liên, … đều xuất thân tại trường nầy).

Cất Đại học tại Tây Thiên do chính cụ trực tiếp giảng diễn về Luận học, triết Đông và Tây.

(Quý Hòa thượng Đôn Hậu, Trí Thủ, Mật Nguyện, Mật Hiển, Mật Thể,… đều xuất thân từ trường nầy).

Năm 1944, cụ sắp xếp chương trình để di chuyển Phật học viện lên Kim Sơn. Thành lập Tòng lâm Kim Sơn Huế. Thời cuộc không cho phép, công tác tạm ngưng sau hai năm sinh hoạt.

Năm 1945, cuộc đảo chánh Nhật, chánh phủ Trần Trọng Kim mời giữ chức Giám đốc Y tế Trung phần kiêm Giám đốc Bậnh viện Huế.

Năm 1946, chiến cuộc bùng nổ, dân chúng Huế tản cư. Cụ đưa gia đình về lại Quảng Nam. Tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1947-1949, làm Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến miền Nam Trung bộ tại Liên khu Năm.

Mùa hạ năm 1949, được điện mời đi Bắc, đề bạt làm Chủ tịch Phong trào Hòa bình Thế giới.

Mặc dầu tình thế đảo điên, nhân tâm điên đảo, nhưng cụ vẫn an nhiên diễn giảng, phiên dịch Phật pháp. Cuối cùng bộ Thủ Lăng Nghiêm cũng được dịch và xuất bản năm 1961 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội.

Ông từ trần ngày 23 tháng 04 năm 1969 (tức ngày mồng Bảy tháng Ba năm Kỷ Dậu) tại Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.



No comments:

Post a Comment